Monday, October 20, 2025

MÀU THỜI GIAN (THƠ- ĐOÀN PHÚ THỨ)

 



MÀU THỜI GIAN là một bài thơ  nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ  đăng lần đầu năm 1940 trên báo Ngày Nay, như sau: 

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm dứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát

Về hình thức, thơ không theo kiến trúc của loại thơ thông thường nào cả. 
Bài thơ bắt đầu bằng 2 đoạn, mỗi đoạn 3 câu, thể tự do với những câu dài ngắn khác nhau, sau đó tiếp theo là 1 đoạn thơ 4 câu 5 chữ, rồi 1 đoạn thơ 4 câu 7 chữ và kết bằng 1 đoạn 4 câu 5 chữ. 
Nghĩa là kiến trúc có cả thơ mới, thơ tự do, và thơ "cũ", 5 và 7 chữ.

Về nội dung, đây là một bài thơ tình. 
Khởi đầu bài thơ là những hình ảnh hiện tại nhẹ nhàng như buổi sáng, tiếng chim thanh, gió xanh... 
Sau đó tác giả xen vào những chuyện xưa như "Tần Phi" và "tóc mây... dao vàng". 
"Tần Phi" ở đây là Lý Phu Nhân, 1 bà phi của vua Hán Võ Đế, khi gần chết không muốn để nhà vua thấy nhan sắc tiều tụy của mình thành "nép mày hoa" trốn tránh gặp gỡ và chịu cảnh lạnh lẽo cô đơn. 
Còn "tóc mây", "dao vàng" lấy từ câu của truyện Kiều "tóc mây một món, dao vàng chia hai". Đó là chuyện Dương Quý Phi, vì ghen tuông làm vua Đường Minh Hoàng giận, bị giam ở biệt cung. Vua nhớ nàng cho người vào hỏi thăm. Dương Quý Phi buồn và dùng dao vàng cắt 1 lọn tóc của mình chuyển cho nhà vua. Vua nhận được lọn tóc xúc động và đón nàng ra.
Và cuối cùng cảm xúc về thời gian, về "màu thời gian" khi tình yêu đã mất. Thường người ta cảm thấy thời gian có màu xanh nhạt nhưng Đoàn Phú Tứ "thấy" thời gian có màu "tím ngát", không phải "tím ngắt", nghĩa là màu tím dịu mát. Dù tình yêu đã mất, thời gian có trôi qua đi lúc nào cũng có tình cảm mãi mãi vương vấn nhẹ nhàng như "màu thời gian tím ngát" hay "hương thời gian thanh thanh".

Bài thơ trong quá khứ đã có nhạc sĩ Phạm Duy và Nguyễn Xuân Khoát viết nhạc. 
Bản của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát không tìm được nữa. 
Bản của Phạm Duy có Thái Hiền hát hay. và buồn sâu lắng: 

Nhưng khi đọc kỹ bài thơ thấy những nhóm chữ được lập lại thấy thi sĩ như nhấn mạnh ý nghĩa là "hương thời gian thanh thanh", "màu thời gian tím ngát" để diễn tả một nỗi buồn nhẹ nhàng, thành đem bài thơ ra phổ nhạc lại. 
Bài nhạc phổ thơ viết tháng 11 năm 2024. Bài thơ được phổ nhạc theo nguyên tác. Đoạn cuối có thay đổi thứ tự của các câu để "đi theo" dòng nhạc.  

MÀU THỜI GIAN (thơ Đoàn Phú Tứ, nhạc Phạm Anh Dũng) Minh Đạt hát, Đỗ Hải hòa âm, Hoàng Khai Nhan thực hiện video:

KHÔNG BAO GIỜ THUA CUỘC - NEVER GIVE UP (THÁI LAN - SƯU TẦM VÀ DỊCH)

 



KHÔNG BAO GIỜ THUA CUỘC -

NEVER GIVE UP

1/--GƯƠNG DANH NHÂN --ABRAHAM LINCOLN, MỘT KẺ CHIẾN ĐẤU- Michel Poulaert. TL dich

image.png
Abraham Lincoln hẳn là một trong những tấm gương về sự kiên trì đáng khâm phục nhất trên cõi đời
này.
Nếu bạn muốn tìm một người không bao giờ đầu hàng, bạn không cần đi đâu xa hơn nữa.

-- Được sinh ra trong cảnh bần hàn, Lincoln đã phải chịu nhiều thất bại trong suốt cuộc đời mình.

Ông đã thất cử tám lần , bị phá sản trong việc làm ăn hai lần và đau khổ vì bịnh trầm cảm.
Đáng lý ra ông có quyền buông xuôi nhiều lần, ông đã có đủ lý do để biện bạch khi bỏ cuộc hoặc nguyền
rủa số phận hoặc Thượng Đế, nhưng ông đã không thực hiện bất cứ điều gì.
Và bởi vì lý do ông chưa từng bao giờ bỏ cuộc, ông đã trở thành một trong những vị tổng thống vĩ đại
nhất của Hoa Kỳ.


Tư cách của Lincoln là tư cách của nhà vô địch, và qua bao khó khăn gian khổ, ông đã trở thành một
nhà vô địch làm nên lịch sử.
Một nhà vô địch thì không bao giờ bỏ cuộc.
Sau đây là bảng khái quát về đoạn đường chông gai mà Lincoln phải nếm trước khi đạt đến Nhà Trắng:

-1816- Gia đình Lincoln bị đuổi ra khỏi nhà. Abraham phải đi làm để chu cấp cho nhu cầu của gia đình.
-1818- Thân mẫu ông qua đời.
-1831- Phá sản lần thứ nhất.
-1832- Ra tranh tài trong cuộc tổng tuyển cử; bị thất cử.
-1832- Cũng trong năm này ông bị mất việc; muốn học luật nhưng không được trúng tuyển vào trường.
-1833- Mượn vốn từ một người bạn để lao vào công việc làm ăn và bị vỡ nợ vào cuối năm. Ông phải trả
món nợ này trong suốt 17 năm ròng.
-1834- Lại ra tranh cử ở cuộc tổng tuyển cử; được bầu chọn.
-1835- Dự tính việc hôn lễ; hôn thê qua đời.
-1836- Suy sụp tinh thần, bịnh trầm cảm nặng; nằm liệt giường suốt sáu tháng.
-1838- Ra tranh cử Chủ Tịch Hạ Viện tiểu bang Illinois: thất cử.
-1846- Lại ra ứng cử ở Quốc hội; được bầu chọn; đến Washington, nơi đây ông phục vụ rất tốt.
-1848- Yêu cầu nhiệm kỳ thứ nhì ở Quốc hội; không được tái đắc cử.
-1849-Đệ đơn làm viên chức về đất đai ở tiểu bang của ông; đơn không được chấp thuận.
-1854- Ứng cử ở Thượng Viện Hoa Kỳ; thất cử.
-1856- Ứng cử vào chức Phó tổng thống ở hội nghị đảng cử ứng cử viên tổng thống ; đạt được dưới một
trăm phiếu bầu.
-1858- Lại ứng cử ở Thượng Viện: lại thất bại.
-1860- Được bầu làm Tổng Thống Hoa Kỳ.
 
---Con đường thật trơn trợt và cuộc đua thật cam go. Trong suốt cuộc hành trình, tôi đã trượt chân và tôi
đã mất thăng bằng, nhưng tôi đã gượng dậy và tự như rằng:
" Tôi đã sẩy chân, chứ không phải tôi đã ngã và thất bại”.

Có thể câu chuyện này sẽ giúp bạn hiểu ra rằng tất cả chúng ta đều có khả năng định đoạt được số
phận mình.
Có rất nhiều “ABRAHAM LINCOLN” trong chúng ta, biết đâu bạn cũng là một người như vị danh nhân ấy mà
bạn chưa biết đấy thôi...

Mến chúc quý bạn một ngày an lành.
Người động viên đồng hành trong chủ nghĩa lạc quan của bạn

Michel Poulaert.    Thailan /phannữlan dịch

======================

 
 
80d9961e-154e-41bd-844c-56aaa1e65d6d.png
================================

  2/- KHÔNG BAO GIỜ THUA CUỘC

image.png
1. J.K. Rowling
J.K. Rowling vừa mới ly hôn, đang hưởng trợ cấp của chính phủ và hầu như không đủ tiền để nuôi con vào năm 1994, chỉ ba năm trước khi cuốn sách Harry Potter đầu tiên, Harry Potter và Hòn đá phù thủy, được xuất bản. Khi cô ấy đang mua sắm, cô ấy quá nghèo đến nỗi không đủ tiền mua máy tính hoặc thậm chí trả chi phí photocopy cuốn tiểu thuyết dài 90.000 từ, vì vậy cô ấy đã tự tay đánh máy từng bản để gửi cho các nhà xuất bản. Truyện đã bị từ chối hàng chục lần cho đến khi cuối cùng Bloomsbury, một nhà xuất bản nhỏ ở London, đã cho  một cơ hội thứ hai sau khi cô con gái tám tuổi của giám đốc điều hành đã yêu thích tập truyện.
 
2. Stephen King
image.png
 King đã phá sản và phải phấn đấu thật nhiều khi lần đầu tiên cố gắng viết. Ông sống trong một chiếc xe xe nhà di động  với vợ mình - cũng là một nhà văn - và cả hai đều làm nhiều công việc để nuôi sống gia đình trong khi theo đuổi nghề của mình. Họ quá nghèo đến nỗi phải mượn quần áo cho đám cưới và đã phải bỏ điện thoại vì nó quá đắt.

King đã nhận được rất nhiều thư từ chối cho các tác phẩm của mình đến nỗi ông đã phát triển một hệ thống để thu thập chúng. Trong cuốn sách On Writing của mình, ông nhớ lại: "Khi tôi 14 tuổi... chiếc đinh trên tường của tôi không còn chịu được sức nặng của những tờ giấy từ chối được đóng trên đó nữa. Tôi đã thay thế chiếc đinh bằng một chiếc que nhọn và tiếp tục viết". Ông đã nhận được 60 lần từ chối trước khi bán truyện ngắn đầu tay của mình, "The Glass Floor", với giá 35 đô la. Ngay cả cuốn sách hiện nay bán chạy nhất của ông, Carrie, lúc đầu cũng không thành công. Sau hàng chục lần từ chối, cuối cùng ông đã bán với số tiền ứng trước  nhỏ nhoi cho Doubleday Publishing, nơi mà bản bìa cứng chỉ bán được 13.000 bản - không phải là một thành công lớn. Tuy nhiên, ngay sau đó, Signet Books đã được ký hợp đồng mua bản quyền sách bìa mềm với giá 400.000 đô la, trong đó 200.000 đô la được chuyển cho King.  
 Cuối cùng Thành công đã  mỉm cười với họ!

 3. Jim Carrey
image.png
 Khi Carrey 14 tuổi, cha anh mất việc, và gia đình anh gặp khó khăn. Họ chuyển đến sống trong một chiếc xe tải VW trên bãi cỏ của một người họ hàng, và chàng diễn viên hài trẻ đầy tham vọng - người đã tận tụy với nghề của mình đến mức anh đã gửi sơ yếu lý lịch của mình đến The Carroll Burnett Show chỉ vài năm trước, khi mới 10 tuổi - đã nhận một công việc nhà máy tám giờ một ngày sau giờ học để kiếm sống.
 
Năm 15 tuổi, Carrey lần đầu tiên biểu diễn hài kịch trên sân khấu - trong bộ vest do mẹ anh may cho anh - và hoàn toàn thất bại, nhưng anh không nản lòng. Năm sau, khi 16 tuổi, anh bỏ học để tập trung toàn thời gian vào hài kịch. Anh chuyển đến LA ngay sau đó, nơi anh đỗ xe trên Mulholland Drive mỗi đêm và hình dung về thành công của mình. Một trong những đêm đó, anh đã tự viết cho mình một tấm séc trị giá 10.000.000 đô la cho "Acting Services Rendered", mà anh đã hẹn là vào Lễ Tạ ơn năm 1995.  

4. Tyler Perry
image.png
Tuổi thơ của Perry rất  khó khăn. Anh bị lạm dụng tình dục khi lớn lên, bị đuổi khỏi trường trung học và đã muốn tự tử hai lần - một lần khi còn là thiếu niên và một lần nữa khi 22 tuổi. Năm 23 tuổi, anh chuyển đến Atlanta và làm những công việc lặt vặt khi bắt đầu sự nghiệp sân khấu của mình.

Năm 1992, anh đã viết, sản xuất và đóng vai chính trong vở kịch sân khấu đầu tiên của mình, I Know I’ve Been Changed, phần nào chịu ảnh hưởng từ quá trình trưởng thành khó khăn của mình. Perry đã dồn toàn bộ tiền tiết kiệm vào vở kịch và  đã thất bại thảm hại; vở kịch chỉ  được  diễn vào ngày cuối  tuần và chỉ có 30 người đến xem. Anh vẫn tiếp tục sản xuất, làm thêm nhiều công việc lặt vặt và thường ngủ trong xe để sống qua ngày. Sáu năm sau, Perry cuối cùng đã đột phá khi vở kịch đã thành công trong khi trình diễn lần thứ bảy. Kể từ đó, anh đã có một sự nghiệp cực kỳ thành công với tư cách là đạo diễn, biên kịch và diễn viên. Trên thực tế, Perry đã được Forbes vinh danh là người đàn ông được trả lương cao nhất trong ngành giải trí vào năm 2011.

5. Sarah Jessica Parker
image.png
Parker sinh ra tại một thị trấn khai thác than nghèo ở vùng nông thôn Ohio, là con út trong gia đình có bốn người con. Bố mẹ cô ly hôn khi cô mới hai tuổi, mẹ cô tái hôn ngay sau đó và có thêm bốn người con nữa. Cha dượng của Parker, một tài xế xe tải, thường xuyên thất nghiệp, vì vậy ngôi sao tương lai đã bắt đầu ca hát và nhảy múa từ khi còn rất nhỏ để giúp kiếm thêm thu nhập từ nghề dạy học của mẹ và nuôi sống gia đình 10 người của họ.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn và đôi khi phải sống nhờ trợ cấp xã hội, mẹ của Parker vẫn tiếp tục khuyến khích con cái mình theo đuổi nghệ thuật. Gia đình chuyển đến Cincinnati, nơi Parker được học bổng tại một trường múa ba lê, âm nhạc và sân khấu. Khi cô 11 tuổi, gia đình đã có một chuyến đi đến Thành phố New York để Parker có thể thử vai cho một vở kịch trên sân khấu Broadway. Chuyến đi đã thành công - cô và anh trai đều được chọn, và gia đình đã chuyển đến New York. Parker tiếp tục làm việc chăm chỉ và giành được các vai diễn, cuối cùng trở thành nhân vật chính của bộ phim truyền hình đình đám Sex and the City.

 6. Đại tá Harland Sanders -(KFC)- Kentucky Fried Chicken

image.png
 Đại tá Harland Sanders đã bị sa thải khỏi nhiều công việc khác nhau trong suốt sự nghiệp của mình trước khi ông bắt đầu nấu gà tại Trạm dịch vụ Shell ven đường của mình vào năm 1930, khi ông 40 tuổi, trong thời kỳ Đại suy thoái. Trạm xăng của ông thực sự không có nhà hàng, vì vậy ông phục vụ thực khách tại khu nhà ở cá nhân liền kề của mình.

Trong 10 năm tiếp theo, ông đã hoàn thiện "Công thức bí mật" và phương pháp nấu bằng nồi chiên áp suất cho món gà rán nổi tiếng của mình và chuyển đến những địa điểm lớn hơn. Món gà của ông thậm chí còn được nhà phê bình ẩm thực Duncan Hines (đúng vậy, chính là Duncan Hines) ca ngợi trên phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, khi đường liên bang đi qua thị trấn Kentucky, nơi nhà hàng của Đại tá tọa lạc vào những năm 1950,  giao thông đường bộ quan trọng và lưu lượng các xe không còn đi ngang tiệm của ông nữa  và Đại tá buộc phải đóng cửa doanh nghiệp của mình và nghỉ hưu, về cơ bản là phá sản. Lo lắng làm thế nào mình sẽ sống với khoản lương hưu ít ỏi 105 đô la hàng tháng của mình, ông bắt đầu tìm kiếm các nhà hàng  để  nhượng quyền công thức bí mật của mình—ông muốn một niken (đồng cắc năm xu)  cho mỗi miếng gà bán ra.  Ông  lái xe đi khắp nơi, ngủ trong xe và bị từ chối hơn 1.000 lần trước khi cuối cùng tìm được đối tác đầu tiên của mình.

7. Shania Twain

image.png
Sự nghiệp của Twain thực ra bắt đầu từ nhu cầu cấp thiết hơn là tham vọng thô sơ. Bố mẹ cô ly hôn khi cô mới hai tuổi và cô hiếm khi gặp bố. Mẹ và cha dượng của cô, những người mà cô rất thân thiết, thường không kiếm đủ tiền để trang trải cuộc sống, vì vậy Twain bắt đầu hát trong các quán bar để kiếm thêm tiền khi cô mới tám tuổi.

Cô nhớ lại mẹ mình đã đánh thức cô 
bất cứ giờ nào để dậy và biểu diễn. Đáng buồn thay, khi cô 21 tuổi, mẹ và cha dượng của cô đã tử nạn trong một vụ tai nạn xe hơi trực diện với một chiếc xe tải chở gỗ trên đường cao tốc. Twain đã tạm gác sự nghiệp của mình để chăm sóc ba đứa em (lúc đó đang ở độ tuổi thiếu niên). Cô đã hát ở các khu nghỉ dưỡng và trì hoãn việc theo đuổi sự nghiệp nổi tiếng cho đến khi chị gái và các anh trai của cô đủ lớn để tự chăm sóc bản thân. Chỉ đến khi em trai út của cô tốt nghiệp trung học, cô mới cảm thấy ổn khi đến Nashville để theo đuổi sự nghiệp của mình.
 
 
8. Emily Blunt
image.png
Trước khi Blunt được đề cử giải Quả cầu vàng và giành được vai chính trên sân khấu và màn ảnh rộng, cô hầu như không thể trò chuyện với các bạn cùng lớp: Từ năm 7 đến 14 tuổi, Emily bị nói lắp rất nặng. Như cô đã nói với tạp chí W, "Tôi là một đứa trẻ thông minh và có nhiều điều muốn nói, nhưng tôi không thể nói ra. Nó cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có thể ngồi xuống và nói chuyện với ai đó như tôi đang nói chuyện với bạn ngay lúc này".

Nhưng tất cả đã thay đổi khi một trong những giáo viên trung học cơ sở của cô khuyến khích cô thử sức với vở kịch của trường—một kỳ tích hoàn toàn không hấp dẫn vì thực tế là cô đã từng gặp khó khăn trong giao tiếp. Nhưng giáo viên vẫn nhẹ nhàng thúc giục và gợi ý cô thử giọng và giọng nói của nhân vật để giúp cô nói ra lời thoại—và điều đó đã hiệu quả. Vào cuối tuổi thiếu niên, Blunt đã vượt qua được chứng nói lắp của mình và tiếp tục đạt được sự nghiệp thành công như hiện tại.

9. Oprah Winfrey
image.png
Oprah Gail Winfrey (sinh năm 1954) là người Mỹ gốc Phi, bà xuất thân trong gia đình nghèo và có cuộc sống trải qua nhiều thăng trầm.
Oprah đã phải đối mặt với rất nhiều vấn đề trong suốt cuộc đời sự nghiệp của mình—những lời chỉ trích về cân nặng, nạn phân biệt chủng tộc, những câu hỏi xâm phạm về khuynh hướng tình dục của bà,  ...—nhưng bà không bao giờ để chúng cản trở tham vọng và động lực của mình. Khi bạn nhìn vào tuổi thơ của bà, những chiến thắng cá nhân của bà được phản ánh dưới một góc nhìn thậm chí còn đáng chú ý hơn.

Khi lớn lên, Oprah được cho là nạn nhân của lạm dụng tình dục và liên tục bị anh họ, chú và một người bạn của gia đình xâm hại. Sau đó, bà mang thai và sinh một đứa con ở tuổi 14, đứa trẻ đã qua đời chỉ hai tuần sau đó. Nhưng Oprah vẫn kiên trì, tiếp tục học hết phổ thông với tư cách là học sinh giỏi, giành được học bổng toàn phần vào đại học và từng bước thăng tiến trong sự nghiệp truyền hình, từ một người dẫn chương trình truyền hình địa phương ở Nashville đến một siêu sao quốc tế và là người sáng tạo ra kênh truyền hình RIÊNG của bà .
Những điều tôi biết chắc” (What I know for sure) là cuốn tự truyện của Oprah Winfrey.
 Lần theo từng trang sách, bạn có thể sẽ tìm được câu trả lời cho những thắc mắc đời thường.
 Oprah Gail Winfrey hiện giữ chức Chủ tịch - Giám đốc điều hành của Harpo, Inc.

Winfrey đã làm nên lịch sử khi trở thành người phụ nữ đầu tiên sở hữu và sản xuất talkshow của riêng mình. Chương trình đã phát sóng suốt 25 năm, tại 145 quốc gia trên thế giới với 42 triệu lượt xem chỉ riêng tại Mỹ. Suốt 16 năm đầu tiên, talkshow không có đối thủ về tỷ suất người xem.

TL sưu tm/dich

EM CÓ VỀ THĂM (THƠ- DƯ THỊ DIỄM BUỒN)

 


EM CÓ VỀ THĂM

 

Để trả lời và cảm đề bài:

”Em Có Về Thăm Thôn Xưa”

của cố nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên

DTDB

 

Em về thăm lại Hậu Giang

Cửu Long sóng nước vẫn mơ màng

Vẫn trời xanh biếc cao vòi vọi

Mây trắng mây hồng bay lang thang

 

Hàng phượng cỗi cằn gội nắng mưa

Cổng buồn trường học của em xưa

Còn đâu tà áo dài tha thướt

Tường phủ rong rêu gió trở mùa

 

Khu chợ ồn ào chẳng đổi thay

Nay dù vận nước đã vần xoay

Người xe tấp nập trên đường phố

Trên mặt sầu in nét cảm hoài

 

Em về thăm lại xóm làng xưa

Xao xác tiếng gà, tiếng võng đưa

Mẹ hát ru con ngùi ngậm quá!

Dòng kinh in bóng dãy cau dừa

 

Cầu tre lắc lẻo bắc ngang kinh

Nước xoáy ngã ba cạnh Bến Đình

Nơi ấy trưa hè ra tắm mát

Em đi khi giặc xéo quê mình

 

Nhà ngoại tường xiêu, mái ngói nghiêng

Em về lạ cảnh, lạ bưng biền

Cỏ xanh gò đất, lau che mộ

Nền cũ hoang tàn, ánh nắng xuyên

 

Em ra xứ Huế, thăm quê anh

Đồi núi Nguyệt Biều bát ngát xanh

Tiếng quốc đêm hè kêu khắc khoải

Thương cơn quốc biến, khóc dân làn

 

Đông Ba, Đập Đá, Phá Tam Giang

Thừa Phủ con đò khách trẩy ngang

Thành Nội, Trường Tiền, cầu Bạch Hổ

Biết bao di tích hũy tan hoang

 

Mộng đẹp ngày xanh, ơi Phú Xuân

Anh thường thăm hỏi đã bao lần

Vừa qua bão lụt, bao tang tóc

Huế dấu yêu ơi, Huế khóc thầm

 

Thẩn thờ đứng ngắm cánh Đồng Xuân

Én lượn bay, hoa nở tưng bừng

Nắng gió xuân nồng, tình thắm đượm

Chừ còn dư vọng nỗi bâng khuâng

 

Và sông Bình Lục vẫn còn đây

Nắng nhạt hoàng hôn trải cỏ cây

Thu chửa về, tình thu đã chớm

Lìa cành, lá úa lác đác bay

 

Nước lên lai láng, nước tràn sông

Răng biết đường đi hay ruộng đồng?

Thả bộ chiều ni qua Chợ Cống

Mộng mơ ngày nớ, nhớ hay không?

 

Đất nước bây chừ đã tả tơi...

Thôn trang thanh vắng, phố đông người

Quê hương tươi đẹp còn mô nữa?

Tan nát từ sau cuộc đổi đời!

 

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Email: dtdbuon@hotmail.com

EM CÓ VỀ THĂM - Thơ DƯ THỊ DIỄM BUỒN

VỀ QUÊ ĐI MÀY (THƠ- ĐẶNG XUÂN XUYẾN)

 


VỀ QUÊ ĐI MÀY

- Với Nguyễn Xuân Thành -

 

Mày về quê chơi đi

Tao lại dạy mày chơi trò trận giả

Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo

Đủ trò

Mày khờ khạo

Tao ngây ngô

Nghéo tay cưới chung một vợ

Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở

To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.

 .

Mày về quê chơi đi

Biền biệt thế

Bặt tin như thế

Tao nhớ mày

Rượu tao uống chẳng say

Đêm cuối cùng mày nói thật hay

Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ

Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại

Hai mấy năm trời

Nước chảy bèo trôi...

 .

Mày về quê chơi đi

Về với tao. Về với thời thơ dại

Về đi mày

Đừng lời nói gió bay.

*.

Làng Đá, Ngày 11 tháng 12-2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

ĐẠI TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ (THƠ- AN PHÚ)

 


Đại tướng Đỗ cao Trí - thơ An Phú


Một lòng yêu nước đã gọi mời

Cao Trí hơn người đại tướng ơi

Chiến thắng lẫy lừng danh họ Đỗ

Sử sách ghi công mãi muôn đời


Kỷ luật nghiêm minh sáng tuyệt vời

Thương người vì nước chí đầy vơi

Không thiên vị phạt người công chính

Công lý là gương soi rạng ngời

DANH TƯỚNG CHIẾN TRƯỜNG (PHẠM PHONG DINH)

 

DANH TƯỚNG CHIẾN TRƯỜNG


 

——-000000———-

Đại Tướng Đỗ Cao Trí - Danh Tướng - Chiến Tuớng

Tướng Patton của Vùng Mỏ Vẹt

"Ông này rõ là điên khùng", một người Mỹ quen biết Trung Tướng Đỗ Cao Trí nhiều năm phát biểu như vậy. "Ngay cả thời kỳ không phải là một tướng lãnh, ông luôn xông thẳng vào cuộc chiến." Trong những năm tồi bại trước đây của QLVNCH, tính xông xáo khiến ông thuộc hạng ngoại lệ. Nay khi quân đội bắt đầu khá khắm, ông là một tiêu biểu của tinh thần năng nổ của toàn quân. Trong tư cách Tư Lệnh của Hành Quân Toàn Thắng, trong đó không quân và thiết giáp QLVNCH tiến sâu vào vùng Mỏ Vẹt và sâu hơn thế nữa, Tướng Trí tiến bước khai hỏa xa hơn như chưa từng bao giờ. Một phóng viên tháp tùng ông trong một chuyến đột phá mới đây lấy làm ngạc nhiên khi Tướng Trí ra lệnh cho trực thăng đáp xuống ngay giữa một cuộc đụng độ, và rồi bất kể hỏa lực liên thanh và hỏa tiễn của địch quân, ông tiến bước tới một chiến xa và thôi thúc viên tài xế tỏ vẻ dụt dè miễn cưỡng tấn công. Ông hét lớn tiếng, "Tiến mau lên, chú em! Tiến, tiến !"

Vào tuổi 40, cao 5ft 4in., Tướng Trí có một dáng vẻ nhanh nhẹn không mảy may thua sút lối chỉ huy của ông. Thêm vào bộ đồ trận hóa trang cây lá rừng, Tướng Trí còn đội một chiếc mũ baseball đen có gắn ba sao, đeo choàng vai một khẩu súng lục Smith & Wesson .38, ngậm một ống điếu xì gà đầu bọc da, và nghênh ngang kẹp nách một cây gậy tướng. "Tôi xử dụng cây gậy này để phát đít Việt Cộng," Tướng Trí nhe răng cười toe toét nói vậy.

 

Trung Tướng Đỗ Cao Trí & Đại Tá Trần Quang Khôi

Ông lấy làm khoái trí với hình tượng liều lĩnh của mình, nhưng ông cũng quả thật là một viên sĩ quan đã từng biểu dương những chiến tích ngoại hạng trong và ngoài chiến trường. Cháu của một viên quan lại và con của một điền chủ giàu có, Tướng Trí gia nhập quân đội Pháp năm 1947 và thụ huấn quân trường tại Hà Nội. Từ khi nắm quyền chỉ huy lần đầu trong tư cách một viên sĩ quan Dù, ông đã thoát chết qua ba vụ mưu toan ám sát, khiến cho ông tự tin vào số mạng bất tử ngoài chiến trận của mình.

Hầu hết các trận đánh tiên khởi của ông mang tính cách chính trị. Ông bắt đầu nổi tiếng vào giữa năm 1950 khi ông mang lon Trung Tá Chỉ huy một đơn vị Dù tại Sài Gòn. Khi nghe tin có ba vị Tướng lãnh bị các phe nhóm ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm quản thúc tại dinh Tổng Thống, Trung Tá Trí điện thoại và đưa ra một tối hậu thư hỗn xược: "Thả các vị Tướng lãnh ra nội trong nửa tiếng đồng hồ, nếu không tôi sẽ phá hủy dinh thự và tiêu diệt mọi thứ trong đó." Một trong số Tướng lãnh được giải cứu là Tướng Nguyễn Văn Vỹ, đương kim Bộ Trưởng Quốc Phòng.

"Tôi khoái chiến đấu," Tướng Trí nói. Trong nỗ lực chiến đấu tuần qua, Tướng Trí đã bay hơn 250 miles, từ bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa tới đồn điền cao su rộng lớn Chup. Đối với Tướng Trí, ngày làm việc chấm dứt vào lúc 6 giờ rưỡi chiều, khi ông trở về ngôi biệt thự khang trang trang bị một hồ tắm tại Biên Hòa, cách Sài Gòn 15 miles, để thư giãn với vợ và sáu người con. Ngày hôm sau vào lúc 7 giờ rưỡi sáng, ông đáp trực thăng trực chỉ tới văn phòng làm việc - nhưng trong những ngày mới đây văn phòng của ông lại là một mảnh đất đang tranh chấp thuộc lãnh thổ Căm Bốt và công việc của ông, theo lời ông, "là một cuộc săn đuổi quần thảo giữa các lực lượng của ông và quân Cộng Sản."

Time Magazine

Monday, June 08, 1970

 

***********

 

Cái Chết của một Chiến Tướng

Quan ngại bởi bước tiến chậm chạp xâm nhập vào Hạ Lào, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lấy một quyết định nan giải đầu tuần trước. Ông phải đặt để một người chỉ huy mới. Vào 7 giờ sáng, ông triệu Trung Tướng Đỗ Cao Trí, 41 tuổi, một quân nhân mang nhiều huy chương nhất và danh tiếng nhất nước, đến dinh tổng thống tại Sài Gòn. Và ông ủy thác cho Tướng Trí công việc này. Hai người thảo luận ngắn ngủi thể thức và lúc nào Tướng Trí sẽ nắm quyền chỉ huy Lam Sơn 719 thay tư lệnh Quân Đoàn I Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Sau buổi đàm thoại, Tướng Trí đáp trực thăng đi thị sát quân lính của ông đang hành quân vượt biên trong một cuộc săn đuổi địch quân ngay tại các mật khu nằm trong vùng đông nam Căm Bốt. Không đầy 2 tiếng rưỡi sau, xác Tướng Đỗ Cao Trí được lôi ra khỏi thân xác tan tành của trực thăng trong tỉnh lỵ Tây Ninh.

Cả thảy mười người tử nạn trong chuyến bay, gồm có một vài cộng sự viên của Tướng Trí và phóng viên Newsweek François Sully. Theo lời thuật chính thức của phát ngôn nhân chính phủ, một bộ phận trực thăng bị hư hỏng khiến cho máy bay bị phát nổ trong khi đang bay cao 100 feet. Lẽ đương nhiên là lời đồn đãi thì đưa ra một giả thuyết khác: Tướng Trí là nạn nhân của một cuộc âm mưu tinh vi - theo thói thông thường và là một lời giải thích không chính xác cho bất cứ biến cố nào xảy ra tại Nam Việt Nam. Theo lập luận này, ông bị bắn hạ bởi các kẻ thù cá nhân hay chính trị. Các sĩ quan tình báo Mỹ nghi là trực thăng Tướng Trí bị hỏa lự̣c súng phòng không ̣địch bắn hạ; giới chức chính quyền tung tin trục trặc máy móc để ngăn ngừa địch lấy công là đã hạ thủ được một trong những anh hùng tài ba nhất của Nam Việt Nam.

Tướng Trí thường được đánh giá là chiến tướng cừ khôi nhất của QLVNCH, và các thành tích dũng cảm của ông đã được thần thoại hóa. Trong chiến dịch vượt biên Căm Bốt trong tháng 5 vừa qua, Tướng Trí thường đáp trực thăng xuống đất để nắm lấy quyền chỉ huy một đơn vị đang lâm nguy. Một lần nọ, sau khi người đứng cạnh ông bị mảnh pháo kích đốn hạ, Tướng Trí can trường nhảy lên một thiết vận xa và thôi thúc chiến xa tiến thẳng vào nơi phát xuất hỏa lực, "Tiến tới, tiến tới!"

Y phục chiến trường thông thường của Tướng Trí là một bộ đồ ngụy trang cây lá rừng, một chiếc mũ baseball với ba ngôi sao và một cây gậy, mà ông nói bông đùa luôn cầm trên tay để "phát đít Việt Cộng." Ông say sưa với địa vị nổi bật và đơn sơ đủ để nhìn nhận điều đó. "Tôi thích trở nên một anh hùng," ông nói một cách thật là thẳng thừng trong cuộc xâm chiếm Căm Bốt năm ngoái. Điều ít biết đến hơn là sự kiện "Tướng Patton của Vùng Mỏ Vẹt", danh xưng được gán cho ông, cũng còn là một nhân vật hành chánh khôn khéo chỉ huy ba trong bốn vùng chiến thuật và có lúc được nhắm bổ nhiệm cho vùng chiến thuật thứ bốn. Ông hỗ trợ việt nam hóa chiến tranh lâu trước khi điều này trở thành quốc sách.

 

Sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có trong tỉnh Tây Ninh, Tướng Trí bay trực thăng hằng ngày giữa chiến trường và ngôi biệt thự sang trọng của ông, gồm có một hồ bơi, bên cạnh một con sông tại Biên Hòa. Tại đây, Tướng Trí ham thích đóng vai trò chủ khách, nhậu nhẹt và chuyện vãn tán gẫu. Ông cũng còn làm chủ một vườn thú gồm vịt, ngỗng, chim bồ câu, một con nai, một con bò và một con heo chạy quanh trong vườn. Tướng Trí chăm lo vợ và sáu người con; ông dạy kinh tế cho mấy đứa nhỏ bằng cách dùng tiền túi của chúng để mua thực phẩm cho heo, rồi chia phần lời với chúng khi bán được con heo. Nhưng cách lối sống của ông quá xa xỉ khiến cho người đời luôn nghi ngờ ông tham nhũng, và năm 1965, trong một vụ chính phủ điều tra tài sản ông, ông toan tính quyên sinh. Một trong số người bảo lãnh cho cuộc điều tra là Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó cầm đầu Không Quân. Hai người trở nên thù địch không đợi trời chung, và tuy là họ thường thấy mặt nhau tại các công vụ sau khi Tướng Trí trở lại nắm quyền chỉ huy quân sự năm 1967, họ không bao giờ bắt tay nhau.

 

Tướng Trí thường nói ông sung sướng nhất khi ông ở cạnh bên các chiến binh của ông ngoài mặt trận. Tuần qua, trong khi một quân nhân cầm trên tay một bó hoa hồng với một dải ruy băng có ghi hàng chữ VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC, quan tài Tướng Trí được hạ huyệt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Y phục, mũ, găng tay, cây kiếm và cây gậy của ông được cài đặt trên mặt quan tài.

Time Magazine

Monday, Mar. 08, 1970

**********

Lượng Giá Tướng Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III

Khi trở về Mỹ, sau khi mãn nhiệm kỳ phục vụ trong tư cách Cố Vấn Phó của Quân Đoàn III (từ tháng 12 năm 1969 đến tháng 11 năm 1970), Chuẩn Tướng D.P, MacAuliffe đệ trình Bản Tường Trình của Sĩ Quan Cao Cấp do ông thảo lên Bộ Quân Lực ngày 26 tháng 11 năm 1970. Trong tài liệu này, Tướng McAuliffe có viết phần lượng giá về Tướng Đỗ Cao Trí như sau:

 

Tôi có dịp phục vụ với Trung Tướng Đỗ Cao Trí trong một mối giây liên hệ làm việc rất gần kề, phải kể là thường nhật với ông trong năm vừa qua. Tôi rất cảm kích bởi lòng ái quốc, tận tâm đối với Quân Đội và sứ mạng, một lối lãnh đạo rất là thực tiễn, một ý chí quyết tâm kiên trí chống kẻ thù, lòng dũng cảm cá nhân (tính khí anh hùng của ông trong chiến trận là một huyền thoại), danh dự, và yêu mến đối với quân lính Việt Nam dưới quyền ông. Không thể chối cãi phần lớn công lao khiến cho sự tiến triển khác thường trong Quân Đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật trong năm qua là của cá nhân Tướng Trí, là do tài lãnh đạo, sáng kiến, quyết tâm, cảm thức và cảm quan của ông. Mặc dù vậy, tiếng đồn đãi tham nhũng bám sát ông, chẳng hạn, cho là ông nhận tiền đút lót từ các tỉnh trưởng và từ giới đốn cây làm gỗ, và ông can dự vào các sinh hoạt chợ đen. Tướng Trí nhìn nhận là ông giàu có, nhưng khẳng định là ông thừa hưởng sự giàu sang của cha ông. Gia đình ông, qua nhiều thế hệ, làm chủ nhiều ruộng đất trong tỉnh Biên Hòa. Ông không mẩy may che đậy nề nếp sống xa hoa của ông tại doanh trại cũng như tại tư gia. Vốn sanh trưởng trong sự giàu sang, ông không lấy gì làm điều. Tôi thấy là các lời cáo buộc tham nhũng -- theo như chúng ta hiểu theo quan niệm âu mỹ -- hoàn toàn không tương đồng với các phẩm chất trổi vượt trong cá tính con người của ông. Hơn nữa, theo nhận xét riêng của tôi thì các lời đồn đãi tham nhũng liên hệ với Tướng Trí hình như thăng trầm theo trính độ thăng tiến và mức độ nổi tiếng đương thời của ông. Vùng 3 Chiến Thuật, và phải nói là toàn quốc sẽ là những đối tượng thua thiệt thật sự nếu những lời cáo buộc đó được phép vô hiệu hóa hay cách chức quyền lãnh đạo của ông.

Bản tường trình này được giải mật ngày 11 tháng 6 năm 1983

Nguyễn Văn Tín

Ngày 28 tháng 8 năm 2009

*********

Hai Vị Tướng Tác Chiến Giỏi - Đỗ Cao Trí và Nguyễn Viết Thanh

Những vị Tướng lớn chỉ huy quân đội lớn. Lịch sử đã chứng minh như vậy. Nhưng tại Việt Nam Cộng Hòa, quân lực bị sa lầy trong tham nhũng, đố kỵ, và chính trị hóa quá mạnh, nên những vị Tướng có tài muốn nổi cũng không được. Trong lúc lực lượng Mỹ rút bỏ lại những khoảng trống quá lớn, trên chiến trường, nước nhà đã nẩy sinh ra hai vị Tướng tài giỏi làm nâng cao tinh thần quân đội có thể lấp vào chỗ trống trên.

Bấy giờ, Cơ Quan Viện Trợ Mỹ MACV đã đưa ra bản tường trình có tính cách phê bình các vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Điều nghịch lý ở đây là một vị Tướng nổi danh về tài hành binh bố trận, được binh sĩ trung thành, lại bị đe dọa chính trị, trong một nước đầy cuộc đảo chánh quân sự. Một nhà quan sát Mỹ ở Sài Gòn hồi đó đã giải thích: "Đây là một quốc gia không cho phép ai được làm anh hùng quá lâu. Nhưng người ta vẫn xài anh hùng nhất thời."

Lúc đó QLVNCH có hai anh hùng tài ba trên chiến trường (không phải anh hùng chính trị), đã vượt trội và lãnh trọng trách chỉ huy Quân Đoàn III và IV ngay sau vụ Tổng Phản Công Tết Mậu Thân 1968. Đó là Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí và Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Hai ông đã chứng tỏ là những vị Tướng có tầm nhìn chiến lược sắc bén và có tài điều quân trận địa chiến. Trong lần chấn chỉnh sau vụ Tết Mậu Thân 1968, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã loại những sĩ quan trung thành với PTT Nguyễn Cao Kỳ, và giao cho Tướng Trí và Tướng Thanh đảm nhận chức Tư Lệnh hai Vùng Chiến Thuật đông dân và nhiều yếu tố tế nhị chính trị nhất.

Tướng Nguyễn Viết Thanh nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, một đơn vị nổi danh cách tiêu cực là "Sư Đoàn Tìm và Tránh Địch", tuy trội hơn hai Sư Đoàn 9 và 21 của Quân Đoàn IV đương thời. Tướng Thanh được Tướng William Westmoreland, Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ ở Việt Nam, ca ngợi như là một Tướng tài giỏi của QLVNCH, ông e ngại sự quan tâm của ông và các Cố Vấn Mỹ sẽ biến Tướng Thanh trở thành đối thủ của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự ở Thủ Đô Sài Gòn. Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không những công nhận tài ba và đức độ của Tướng Thanh mà ông cũng an tâm vì biết vị Tướng này không có tham vọng chính trị nào khác, nên ông đã mạnh mẽ nâng đỡ hết lòng.

Tướng Thanh được thuộc cấp thương mến hết mực đến nỗi trong kỳ Tết Mậu Thân, ông suýt mất mạng nếu không được quân sĩ yêu mến. Ông và gia đình bị kẹt trong lòng địch, nhưng nhờ binh sĩ trung thành nên cả nhà được thoát hiểm. Vị Tướng Cố Vấn Quân Đoàn IV đã kể chuyện Tướng Thanh được ái mộ như thế nào: Trong một dịp, lúc đó Tướng Thanh còn làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần thơ, ông cùng vị Tướng Cố Vấn bay lên Bản Doanh BTL Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho. Hai vị Tướng ăn cơm trưa một cách kín đáo trong một nhà hàng ở Thị Xã; người ta xầm xì rỉ tai và mọi người cuối cùng rồi cũng hay tin. Dân chúng và binh sĩ ùn ùn kéo đến chào mừng vị Tư Lệnh cũ của họ. Trong suốt cả tiếng đồng hồ, Tướng Thanh phải gật đầu, bắt tay liên tục cả trăm người. Nên biết rằng ít có vị Tướng Lãnh, sĩ quan cao cấp có sự gần gũi hòa đồng thân thiện với lính và dân ở miền quê như Tướng Thanh. Ông là một trong những vị Tướng thanh liêm trong sạch "Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng" được lưu danh muôn thuở.

 

Tại Quân Đoàn III, Tướng Đỗ Cao Trí đã chỉnh đốn lại khả năng tác chiến của ba Sư Đoàn 5, 18 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Ông có bản lãnh hoàn thành những việc dù khó khăn cách mấy. Thoát chết ba lần ám sát. Không ai dám làm phật lòng chính phủ và Bộ TTM Sài Gòn, nhưng Tướng Trí đã dám thay thế hai vị Tư Lệnh bất tài và là tay chân thân tín của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng ông không gặp phản ứng nào của dinh Độc Lập. Tướng Trí hứa sẽ biến ba sư đoàn bộ binh yếu kém thành tinh nhuệ trong vòng 2 năm, và ông đã giữ đúng lời hứa.

Tướng Trí và Tướng Thanh đã cùng các sư đoàn thuộc quyền đã được thử lửa một trận đánh lớn, với cuộc hành quân phối hợp đổ bộ vào Campuchia tháng 5/1970. Tổng Thống đã cử Tướng Trí làm Tư Lệnh cuộc hành quân càn quét cục R, căn cứ an toàn của VC ở vùng Mỏ Vẹt, và cử Tướng Thanh chỉ huy bốn lực lượng đặc nhiệm Bộ Binh, Thiết Giáp của Quân Đoàn IV đánh từ dưới thốc lên (từ Nam lên Bắc) để bắt tay với lực lượng của Tướng Trí.

Trong ngày đầu tiên của cuộc hành quân, Tướng Thanh bay lên chiến trường chỉ huy và điều động các đơn vị trực thuộc. Khi bay sâu vào nội địa Campuchia khoảng 10 dặm, chiếc trực thăng của ông đụng vào một chiếc Cobra. Tai nạn thật khủng khiếp, không một ai sống sót! Cái chết của Tướng Thanh là một cái tang lớn cho QLVNCH, một màu tang chế phủ lên cuộc hành quân! Để tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân vị Tướng tài ba, quân nhân thuộc cấp đã hết lòng chiến đấu để đem lại chiến thắng dâng lên hương hồn vị chỉ huy tài đức vẹn toàn.

 

Trong khi tin tức chiến thắng lớn lao của QLVNCH bay về Sài Gòn tới tấp, cái chết của Tướng Nguyễn Viết Thanh làm mọi người luyến tiếc. Tướng Đỗ Cao Trí được ca ngợi như vị anh hùng của Quốc Gia, ông làm việc không mệt mỏi, kế hoạch hành quân được chuẩn bị rất kỹ càng, chu đáo, và linh động, cùng sự có mặt thường xuyên ở chiến trường khích động lòng quân là những yếu tố đem lại chiến thắng cho đơn vị thuộc quyền của ông. Tướng Trí đã dùng chiến thuật "Diều hâu" và "Nhị thức chiến xa bộ binh" phối hợp một cách thần kỳ nên đã gặt hái kết quả không thể ngờ được. Không ai can đảm và xông xáo như vị Tướng ba sao này, mặc đồ rằn ri, đội mũ lưỡi trai, tay cầm cây gậy chỉ huy, nhảy theo toán quân đổ trực thăng đầu tiên; hoặc đứng trên pháo tháp xe tăng hô to: "Nhanh lên! Tiến nhanh lên các em!"

Trước ngày thực sự đổ quân qua Campuchia, có lần khi đang tới thị sát BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tướng Trí nghe báo cáo lính Miên đang "Cáp Duồn" chặt đầu thả trôi sông đồng bào Việt Nam ở vùng đồn điền Michelin bên kia biên giới. Ông vội điều động một tiểu đoàn Nhảy Dù cấp tốc đổ bộ bằng trực thăng Việt Nam (vì trực thăng Mỹ chưa có lệnh Tổng Thống Nixon nên không dám vượt biên) xuống sân banh trong đồn điền cao su. Khi hai đại đội vừa xuống thì chiếc trực thăng của ông cũng đáp xuống theo, ông lấy tay cầm "Can" chỉ về phía trước hô xung phong. Khiến anh Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó giật mình vội báo cáo về xin đổ quân xuống bảo vệ an toàn cho ông. Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng cấp tốc bay đến hiện trường. Binh sĩ thấy hai vị Tướng cùng có mặt tại trận địa, nên ai nấy đều hăng hái xung phong đánh đuổi giặc ác ôn và giải thoát hằng ngàn đồng bào chở về bên nây biên giới (sau này dân chúng địa phương đã tạc tượng Tướng Trí thờ cúng ơn cứu mạng).

 

Đối với một người tài ba và khát khao chỉ huy lập chiến tích oai hùng như Tướng Trí, xá gì chiếc trực thăng an toàn hay không, xá gì chiến trường hung hiểm ra sao, Tướng Westmoreland đã cảm phục tài ba và lòng can đảm này nên ông đã viết: "Tướng Trí là một con cọp của chiến trường, một Tướng Patton của Việt Nam." Tuy nhiên, cái tài của Tướng Trí đã làm nhiều Tướng Lãnh khác ghen tị, họ đã nêu ra những hành động của ông trong trận đánh đồn điền cao su Chup ở Cam Bốt; bắt bẻ ông đã nhảy xuống hồ bơi tắm chơi trong lúc cuộc giao trang đang hồi dữ dội nhất. Họ rêu rao rằng: "Tướng Trí chỉ muốn tạo tiếng tăm anh hùng cho riêng mình, chứ không đếm xỉa đến lợi ích quân sự." Ngoài ra lối sống xa hoa ngang tàng và giàu có của ông đã gây ganh ghét và nghi ngờ ở Sài Gòn. Hai Thượng Nghị Sĩ Nam Việt Nam đã gọi là "vụ tham nhũng trắng trợn", khi tố cáo ông có chân trong đường giây buôn lậu tiền. Vụ tham nhũng này tung ra cùng lúc với những tin chiến thắng của Tướng Trí bay về thủ đô Sài Gòn. Mặc dù đời sống cá nhân bị tai tiếng, Tướng Trí vẫn nổi danh như cồn, ông là vị Tướng Lãnh chiến trường tài giỏi nhất QLVNCH. Ngay cả sau cuộc hành quân Campuchia kết thúc. Dưới sự chỉ huy của ông, QLVNCH đã liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân vượt biên triệt hạ sào huyệt an toàn của địch, khiến chúng chạy xất bất sang bang.

Trong lúc Tướng Trí hăng hái với kế hoạch tấn công của QLVNCH, ông có ý định đưa quân sĩ QĐ III lên Kratie để bắt tay với cánh quân ở đây thì bị tử nạn phi cơ trực thăng cuối tháng 2/1971. Trên máy bay còn có ký giả Pháp nổi tiếng là Francois Sully.

 

Chuẩn Tướng Mỹ George Wear đã ghi lại: "Khi quân sĩ VNCH được cấp chỉ huy giỏi sẽ chiến đấu xuất sắc không thua bất cứ quân đội nào khác. Họ chỉ cần những vị chỉ huy hết lòng với họ, chiếm được lòng tin của họ, và làm cho họ dám chết vì chính nghĩa." Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh là hai vị chỉ huy có được tư cách và tài ba đó.

David Fulghum, Terrence Mailand

South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience.

Boston Publishing Company

chuyển ngữ: Trương Dưỡng

********

Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh - Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc

Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp thì vẫn cay cú vì cú đá "Điện Biên Phủ" của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lõ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Hòa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ý nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm gì, đến báo chí Mỹ "phe ta" mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy "ông thày " vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi.

Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn còn những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm lòng trân trọng với Việt Nam Cộng Hòa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v...Charlton Heston đã cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết trình để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, vì VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy "ngứa mắt" vì thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành "Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao" tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển "South Vietnam On Trial" (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định "sơ khởi" về tình hình khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đã đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê bình đụng chạm một cách phiến diện đến tình hình chung của tướng lãnh thời ấy. Chưa chắc họ đã nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng.

Theo hai me sừ như đã giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lãnh lừng lẫy thì sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lãnh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường trình dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về tình hình chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, thì hầu hết những tướng lãnh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm...rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê bình giới tướng lãnh là "hết sức thụ động", nào là "yếu kém", nào là "thầy chạy" (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường trình đã cho thêm một câu thòng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. Vì thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lãnh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nhòm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đã chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu.

Rà tới rà lui mãi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nhìn chiến lược. Sự nổi lên của hai vị Tướng lãnh một phần cũng xuất phát từ ý đồ chính trị của TT Thiệu nhằm loại bớt một số tướng lãnh thuộc "phe" Phó TT Kỳ, đưa những tướng lãnh "trung lập" lên hay ít ra, không có tham vọng chính trị, chỉ biết đánh giặc làm niềm...vui duy nhất mà thôi. Hay biết chắc là họ sẽ trung thành và cho họ trấn đóng ở hai quân khu giàu có nhất và gần cận nhất để đem quân về cứu giá khi cần. Cho nên những vị tướng tá nào được cho về làm Tư Lệnh SĐ7BB coi như nắm chắc chiếc ghế tư lệnh quân khu trong tương lai gần. Thí dụ như trường hợp Tướng Nguyễn Viết Thanh, kế đến là Thiếu Tướng Nguyễm Khoa Nam, đều là những vị Tư Lệnh Quân Khu 4 xuất thân từ Tư Lệnh SĐ7BB.

Theo bảng lượng định của MACV thì tuy SĐ7BB không có gì xuất sắc hơn SĐ9BB hay SĐ21 BB, tuy nhiên Thiếu Tướng Thanh có phần nhỉnh hơn với những tiếng tốt trong quân đội. "Nhất Thắng, Nhì Chinh, tam Thanh, Tứ Trưởng", là những vị tướng đánh giặc lả lướt nhưng cũng rất thanh liêm. Hơn nữa, Tướng Thanh được Đại Tướng William C. Westmoreland đánh giá là viên tướng kiệt xuất nhất trong các vị Tư lệnh Sư đoàn. Tuy nhiên Westmoreland và bộ Tham Mưu của ông ta cũng rất dè dặt không dám ra mặt thổi phồng Tướng Thanh nhiều hơn nữa, vì sự ủng hộ về phía Mỹ đối với một tướng lãnh nào đó một cách lộ liễu, ở một khía cạnh nào đó có thể là bản án...tử hình cho ông ta mà thôi. Nhưng may mắn cho Tướng Thanh, Tonton không những hài lòng khả năng tác chiến của Tướng Thanh mà "người" còn rất tán thưởng thái độ thờ ơ với chính trị của ông.

Trở lại với những huyền thoại về Thiếu Tướng Thanh. Có thể nói ông là một trong những vị tướng hiếm hoi được lòng binh sĩ và cả lòng dân. Chỉ có những vị tướng lừng lẫy khác như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng hay Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam mới đạt được cả hai thứ ấy. Danh tiếng của Tướng Thanh và lòng dân thương yêu ông to lớn như thế nào, chúng ta hãy nghe một câu chuyện cảm động do Thiếu Tướng Cố Vấn Quân Đoàn 4, ông George Eckhardt, kể lại. Trong một dịp đi thanh sát đơn vị cũ của ông là SĐ7BB tại Mỹ Tho, đoàn của Tướng Thanh đang dùng cơm trưa trong một nhà hàng, vô cùng âm thầm và không kèn không trống. Nhưng không hiểu sao tin tức xì ra ngoài và chẳng mấy chốc dân thị xã rần rần kéo tới như đi hội chợ và reo hò chào mừng vị tướng thân mến của họ. Trung Tướng Thanh buộc phải ngừng bữa ăn và tiến ra chào hỏi bắt tay từng người dân một trong suốt 45 phút. Một sự kiện kỳ lạ lẫn kỳ diệu xảy ra ngay trước những cặp mắt sửng sốt của người Mỹ.

Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đã hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ thì SĐ5BB là "sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy", còn SĐ25BB thì là "sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn", trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đã được cải đổi từ sư đoàn "bù mười nút", tức SĐ10BB ra thành sư đoàn "hên chín nút", tức SĐ18BB cho mãi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đã hiện ra rõ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đã không phụ lòng trông cậy của ông và đã đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đã cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Hòa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp lối của VNCH đã vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đã làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng "hay không bằng hên", phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ hòn ngay tại ngưỡng cửa Sàigòn. Việt Cộng đã cay đắng quá đối và đã hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàigòn và chỉ chịu rã ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đã chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng "hên" trong trận Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng.

Đánh giá của bảng tường trình thì Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải thì tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đã tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đã bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn "Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà" 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Hòa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đã dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lãnh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đã hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất.

Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đã sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot's Beak). Trong khi đó Tướng Thanh làm tư lệnh 4 chiến đoàn bộ binh-thiết giáp tấn công từ Vùng 4 Chiến Thuật lên hướng Bắc đến khi bắt tay với quân đoàn của Tướng Trí. Một nỗi bất hạnh cho người dân vùng 4 nói riêng và cho quân lực VNCH nói chung là trong ngày đầu của chiến dịch, Trung Tướng Thanh bay thị sát chỉ huy mặt trận để thúc giục lòng quân và nhịp độ tiến quân. Chiếc UH1 trực thăng chở Tướng Thanh đã vào sâu trong nội địa KPC được gần 20 cây số thì bất ngờ đụng nhau với một chiếc trực thăng tấn công Cobra. Tất cả những người trên 2 chiếc phi cơ đều tử nạn. Cái chết của Thiếu Tướng Thanh, giờ đây là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, đã phủ một màu tang tốc lên hai quân đoàn đang hừng hực hùng khí tiến công. Nhưng trái với sự hí hửng hả hê của cộng quân, Quân Đoàn 4 tuy thiếu vắng con chim đầu đàn đã tràn lên tấn công như vũ bão và đã đánh một trong những trận lừng lẫy nhất. Chuẩn Tướng Trần Bá Di, Tư Lệnh SĐ9BB đã điều động sư đoàn làm mũi đột phá chính của Quân Đoàn 4.

 

Tướng Trí đã tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nhìn tới nhìn lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy thì đã thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây "ba toong" vung vẩy về phía trước gào to: "Tiến lên! Nhanh Lên!". Westmoreland đã phải viết trong bản báo cáo: "Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam." Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ý đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng mình hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đã lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàigòn. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rõ ràng của ông.

Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC còn cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Hòa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh thì thình lình nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nhìn thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát vì thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc trình của phái bộ MACV thì chính là do tình trạng thiếu kinh nghiệm bảo trì phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên tục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không còn tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa Hè năm 1972.

 

Hai viên đại tướng cùng hy sinh vì tổ quốc đã để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đã đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: "Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu dũng mãnh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được lòng tin của lính tráng thì với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy."

 

Phạm Phong Dinh

phỏng theo

David Fulghum, Terrence Mailand

South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience.

Boston Publishing Company