Con trai của ca sĩ Tân
Nhân và nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ tự viết về đời mình: Như trong tiểu thuyết
Tôi nhớ ở đêm đầu tiên
gặp gỡ, có cả con trai tôi Hưng Việt, ba tôi bộc bạch tâm sự với tôi rằng: “Bao
năm xa con rồi, ba biết con rất khổ. Giờ đây con muốn gì ở ba, con yêu cầu gì ở
ba ?”.
Ca sĩ Tân Nhân và nhạc
sĩ Hoàng Thi Thơ.
“Hoài, đứa con trai
đầu lòng yêu quý của Ba
“Chối bỏ” ? Từ ngữ ấy không hề có trong từ
điển đời ba. Hoặc có chăng đi nữa, thì ba chưa bao giờ dùng nó. Ba chưa bao giờ
chối bỏ con. Suốt 35 năm trời nay, con luôn ở trong ký ức của ba, trong trái
tim của ba, trong tâm hồn của ba….”
Cho đến năm 1987 - nghĩa là 12 năm sau ngày
Sài gòn “giải phóng”, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên ấy của ba tôi, nhạc sỹ
Hoàng Thi Thơ từ Mỹ gửi về. Ba tôi đã bắt đầu lá thư như thế ...
“Năm 1956, Ba đã từ Sài gòn ra Đà Nẵng thăm
ngoại con khi ba nghe tin mẹ con “đi thêm bước nữa” .Thăm ngoại thì ít, nhưng
cốt để hỏi thăm con thì nhiều.
Năm 1958, ba đẻ em Thi Thi. Chính lúc đó, Ba
nghĩ tới con nhiều nhất. Ba đã dùng cái tên “Thi” để đặt tên cho em con, cái
tên đầy kỷ niệm mà ngày xưa ba và mẹ con đã rất yêu và đã hứa với nhau sẽ dùng
để đặt cho đứa con đầu lòng của ba và mẹ con, là con. Và từ ngày đó, mỗi lần
gọi tên em Thi của con là riêng ba, ba nhớ tới con. Nhớ cho tới khi nào ba không
còn trên trần gian này nữa để gọi tên Thi.
Năm 1964, trong một hoàn cảnh vô cùng éo le,
ba đã bỏ nước trốn sang Nam Vang. Những ngày lén lút đó, biết rằng mẹ con đến
đó trình diễn, ba đã bất chấp hiểm nguy để liên lạc với mục đích duy nhất là là
biết được chút tin tức về con và mẹ con. Và ba còn nhớ rõ, nếu lúc ấy mẹ con
không quá dè dặt và không quá cứng rắn, ba đã trở lại nơi ba phải giã từ mẹ
con… Và có cơ hội sống bên con từ 1964!
Năm 1970, khi ba soạn phim “Người cô đơn”, ba
đã hoàn toàn nghĩ tới con, dựng lên một nhân vật bé bỏng , nhân vật mang tên bé
Tâm, một nhân vật suốt đời cô đơn rất tội nghiệp, một nhân vật mà vào đó, ba đã
gửi hết nỗi niềm tâm sự của ba. Nhân vật đó, người cô đơn đó, đứa bé cô đơn đó,
chính là con, chính là Hoài, chính là cái kỷ niệm quý đẹp nhất của một người
nghệ sỹ họ Hoàng và một người nghệ sỹ họ Trương… Con chớ giật mình, con nhé,
con chớ ngạc nhiên, con nhé! Ba xác nhận một lần nữa, “người cô đơn” chính là
con, chính là Hoài, chính là người con đã tưởng rằng cha mình đã chối bỏ mình.
“Suốt 35 năm trời, ba hằng tự hào về một điểm:
Đời ba, trong đó có con và mẹ con, sao giống như một pho tiểu thuyết. Mà tiểu
thuyết nào mà lại không có nhiều tình tiết éo le, phải không con? Thôi chúng
ta, ba +mẹ+ con, dù gặp những éo le, gập ghềnh, buồn sầu thì cũng cho đó là số
phận của những người có cuộc đời giống như tiểu thuyết…
Hoài con, nếu theo con, “con đã mất ba nửa
cuộc đời rồi” thì chắc chắn nửa cuộc đời còn lại, con sẽ có ba hàng ngày, hàng
tháng, hàng năm… Còn đối với ba đã 35 năm nay, dù chưa một lần được gặp, ba
chưa bao giờ mất con và mẹ con một ngày một tháng một năm nào. Vì không một
ngày một tháng một năm nào, ba không có con và mẹ con trong lòng ba, trong tâm
hồn ba…
Nhắc đến mối tình đầu của Mẹ con mà con viết:
“Tưởng hết sức đẹp đẽ” ba hãnh diện xác nhận với con một lần là, cho đến bây
giờ mối tình đó, đối với ba cũng như một số người đã biết mối tình đó, là mối
tình đẹp nhất trần gian. Ba không đại ngôn, không phóng đại khi ba nói như vậy.
Ba và mẹ con sẽ tìm thấy dần để hiểu thấu dần. Đối với ba, suốt đời, mẹ con là
tuyệt vời, Tân Nhân là tuyệt vời. Lại một dẫn chứng nữa, một chứng dẫn nữa. Năm
1956, thời gian ba soạn sách, ba soạn cuốn “Để sáng tác một bài nhạc phổ
thông”, trang đầu của cuốn sách, ba in dòng chữ: “Thân yêu tặng Tân Nhân”. Mặc
dù ba biết mẹ con “đã đi thêm bước nữa”. Ba yêu mẹ con là thế, từ những năm
49-50-51 đến 56, đến cả bây giờ 87, thì không có lý nào ba lại không yêu con và
yêu ít hơn? Điều này chắc con không biết, nhưng điều này ba tin mẹ con biết. Có
lẽ vì một hoàn cảnh bắt buộc nào đó, mẹ con biết nhưng chẳng hề nói ra cho con
hay…
Thôi, dù biết hay chưa biết, với thời gian,
với những tác phẩm của ba mà rồi đây con và mẹ con sẽ dần dà tìm thấy, mẹ con
và con có ngày sẽ hiểu được lòng ba và tình ba. Sự muộn màng nào, hiểu nhau
muộn cũng đau thương, nhưng sự muộn mằn nào cũng đẹp. Đó là sự muộn màng trong
tiểu thuyết, sự muộn màng trong cuộc đời tiểu thuyết của chúng ta…
Mối tình đẹp nhất trần
gian
Ba tôi đã nói vậy về mối tình của ba tôi và mẹ
tôi. Nhưng ba tôi không biết rằng, đó chính cũng là mối tình khổ đau nhất của
mẹ tôi, người đã trao cho ba tôi tất cả tuổi thanh xuân của mình. Hồi tưởng lại
mối tình ấy, mẹ tôi đã viết trong hồi ký:
Cuối năm đệ nhất Huỳnh Thúc Kháng (Một trường
học kháng chiến ở khu Tư thời kháng Pháp), cùng với đợt ồ ạt vào Lục quân khu
4, ra Việt Bắc nhận công tác của các anh các chị, tôi gia nhập Đoàn văn công
mặt trận Bình Trị Thiên và Trung Lào do hai anh Đình Quang và Bửu Tiến lãnh đạo
vào chiến trường phục vụ bộ đội. Đó là thời kỳ gian khổ nhất của chiến trường
BTT.
Hiệu quả hoạt động của đoàn hạn chế. Địch luôn
rình rập càn lên chiến khu. Một lần, chúng tôi bị bao vây tứ phía, trên trời
máy bay, dưới sông ca nô, trên bộ địch vây quanh… Quá bất ngờ, chúng tôi từng
tốp theo hướng núi xanh mà chạy. Nhóm tôi có 6 người, 4 đứa là con gái chui vào
rừng sâu, đứt liên lạc với đơn vị.
Tin đồn về trường
Huỳnh Thúc Kháng là Tân Nhân đã bị chết trong trận càn. Một người bạn học cùng
quê - Nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ đã truy điệu tôi bằng bài hát : Xuân chết trong
lòng tôi. Cả trường đã hát, đã khóc, đã xót thương tôi ra đi quá trẻ…
“Xuân ơi xuân/chim xa
đàn/xuân ơi xuân/ ngỡ đâu xuân chết trong lòng tôi…”
Nhưng tôi đâu đã chết.
Một thời gian sau, Bộ chỉ huy cho một số ít chúng tôi trở về trường cũ HTK học
tập. Trên chuyến đò dọc Châu Phong - Bạch Ngọc, một bạn gái lớp dưới đã hát cho
tôi nghe “Xuân chết trong lòng tôi”, với lời bình: “ Phải có một tình yêu sâu
sắc lắm , anh ấy mới như điên như dại khi hay tin chị chết, đã lang thang cầm
roi quất ngang quất dọc trên các nẻo đường Bạch ngọc mà khóc mà viết nên bài ca
ấy”.
“Ôi chim xa cành, bướm
lìa hoa, trùng phùng xa lắm…”
Với nỗi xúc động thơ trẻ chứa chan, tôi thầm
nghĩ “Biết mình chết rồi mà vẫn yêu thương tiếc nuối, phải chăng đó là tình yêu
chân thật”. Xót xa thay, mối tình chân thật ấy lại là một mối tình bất hạnh:
Trong chuyến về thăm nhà vùng tạm chiếm, anh Hoàng Thi Thơ bị mắc kẹt, và từ đó
chúng tôi mãi mãi cách chia. Cháu Hoài, kết quả của mối tình mà chúng tôi tưởng
rằng rất đẹp đẽ ấy, hơn nửa cuộc đời mới biết mặt cha, và bao năm sống trên đất
Bắc phải mang trong lý lịch của mình là con một “nhạc sỹ ngụy”…
Con là con sông có
dòng đục dòng trong
“Con sinh ra là một
giọt lệ đau
Giọt lệ ấy chẳng đủ
soi lòng mẹ
Đừng giận con mẹ ơi vì
thơ bé
Con nào đã hiểu hết
nổi cuộc đời...
Con là vật kỷ niệm lúc
chia phôi
Mẹ muốn quên dáng
người đi tội lỗi
Con lại mang khuôn mặt
người cha ấy
Vì có con mẹ chẳng thể quên cha…
15 tuổi, khi còn là
học sinh phổ thông ở Hà Nội, không biết vì một nỗi tủi thân nào đấy, tôi đã
viết bài thơ tâm sự trên và định gửi tặng mẹ. Nhưng rồi tôi đã không dám gửi,
mà chỉ để trong nhật ký của mình. 17 tuổi tốt nghiệp phổ thông, tôi làm đơn
tình nguyện lên đường nhập ngũ và đi chiến đấu ở mặt trận Trường Sơn và mặt
trận Lào. Chính nơi lửa đạn ấy đã tôi luyện tôi trở thành một người lính dạn
dày, và trở thành một cây bút trẻ (bút danh Châu La Việt). Những cha chú trong
văn chương khen trong tôi có gen văn nghệ của Tân Nhân và Hoàng Thi Thơ …
Năm 1976 lần đầu tôi vào Sài Gòn. Khi này miền
Nam đã “giải phóng”. Me tôi mong tôi có dịp gặp ba tôi, người mà từ khi chào
đời, tôi chưa một lần biết mặt. Nhưng ông đã ra đi từ trước “giải phóng”. Cho
đến mãi năm 1987, cha con mới liên lạc được với nhau qua lá thư đầy xúc động
trên. Đến năm 1994 thì ba tôi lần đầu về nước, và lần đầu cha con được gặp
nhau, được những đêm nằm bên nhau thổ lộ hết tâm can…
Tôi nhớ ở đêm đầu tiên gặp gỡ, có cả con trai
tôi Hưng Việt, ba tôi bộc bạch tâm sự với tôi rằng: “Bao năm xa con rồi, ba
biết con rất khổ. Giờ đây con muốn gì ở ba, con yêu cầu gì ở ba ?”. Tôi đã lặng
đi vì điều quan tâm ấy, và thưa với ba hai nguyện vọng: Một là lúc này bà ngoại
của tôi đang nằm ở bệnh viện Nguyễn Trãi, thập tử nhất sinh, tôi nói với ba tôi
rằng : Ngày xưa bà ngoại từng yêu quý ba lắm, nếu được sáng mai xin ba hãy vào
thăm bà, cũng là để bày tỏ ân tình với mẹ của con. Và điều thứ hai là, con lớn
lên được như hôm nay là nhờ ở đất nước, nhân dân và bè bạn đã nuôi dưỡng, khi
ba đẻ con ra nhưng không có điều kiện nuôi con (ba tôi đã ra đi khi mẹ tôi còn
mang thai tôi giữa một cánh rừng kháng chiến), con muốn nhân dịp này, ba tổ
chức một bữa liên hoan với tất cả bạn bè của con để ba tôi nói những lời từ
trái tim mình những lời cám ơn họ…
Ngay sáng hôm sau, ba cùng tôi và cháu Hưng
Việt vào bệnh viện Nguyễn Trãi thăm bà ngoại của tôi, đang những giây phút cuối
của cuộc đời. Cũng chính ở đây, ba tôi đã xúc động gặp lại mẹ tôi sau 45 năm xa
cách. (Mẹ tôi đã bay từ Hà Nội vào trước đó một thời gian để săn sóc bà ngoại
tôi…)
Rồi ít ngày hôm sau, tại nhà hàng Thanh Niên,
một bữa tiệc do chính ba tổ chức. Bạn bè tôi đến nhiếu lắm, dù còn thiếu biết
bao người hoặc ở xa, hoặc là những đồng đội của tôi đã nằm xuống.... Ba tôi đã
nghẹn ngào xúc động đứng lên cám ơn tất cả bè bạn của tôi, nhiều năm tháng qua
đã đùm bọc, cưu mang, giúp đỡ cho con trai mình nên người. Những ly rượu nâng
lên, có cả nụ cười và cũng có rất nhiều dòng nước mắt ...
(Cũng xin được nói thêm, sau đợt này về Mỹ, ba
tôi đã làm các thủ tục để tôi mang họ Hoàng, với tên gọi là Hoàng Hữu Hoài, và
con tôi, cháu Hưng Việt là Hoàng Hữu Hưng Việt. Và ghi rõ vào gia phả họ Hoàng…
Năm 2008, con trai tôi cưới vợ. Khi này ba tôi không còn nữa, nhưng nghệ sỹ
Thúy Nga, vợ của ba tôi mà tôi gọi là Mợ, dù đã đau yếu lắm, cũng đã từ Mỹ gửi
về mừng cưới cho cháu 200 USD. Cháu Hưng Việt và vợ cháu là Quỳnh Thi đã hết
sức xúc động về tấm lòng của bà )…
Trương Nguyên Việt
Tôi nhớ anh Việt ( báo Thanh Niên ) Mong có dịp gap lại anh. (Hữu Thạnh Ca Nhạc Nhẹ)
ReplyDelete