BÀ MẸ THƯỢNG ĐẲNG
DTDB
Nắng sáng le lói xuyên qua kẻ hở màn cửa sổ rọi vào mặt
khiến Cẩm Hà thức giấc, nhưng chưa chịu dậy mà năm nướng nghĩ ngợi lung tung.
Nàng mỉm cười một mình rồi kéo mền trùm kín mít người, để hưởng cái ấm áp trong
chăn mền, và cái hạnh phúc của những ngày được nghỉ ở nhà với chồng con… Giờ nầy,
Thương chồng nàng chắc là đang đi bộ ngoài công viên gần nhà cũng sắp về, mấy đứa
nhỏ thì còn trong phòng kế bên, chúng ngon giấc nồng ngáy khò khò như cưa gỗ...
Cũng không nói hay cằn nhằn gì chúng được, bởi đêm qua mấy cha con họ tán hưu
tán nai, kẻ chơi “ghem”, người xem phim bộ, rồi ăn uống tới khuya lơ mới lên
giường.
Cẩm Hà nằm
yên, nhìn qua cửa sổ ánh mặt trời đã sáng tỏ, chan hòa trải khắp đó đây...
Hương cỏ cây vân vê theo gió loan vào phòng một mùi dìu dịu thanh thanh đạm đạm...
khiến nàng cảm thấy tươi trẻ và dễ chịu vô cùng... Bỗng nàng nhớ đến cha mẹ lúc
còn sanh thời, nhớ những ngày mình còn cắp sách đến trường, nhớ lúc quen với
Thương… Có nhiều thứ để nhớ trong thiên hình vạn trạng, ẩn hiện khi mờ khi tỏ lởn
vởn trong tâm tư, dầu không muốn nhớ đến cũng không sao quên được.
Bỗng tiếng chuông điện
thoại ra rả reo vang. Sợ làm thức các con, nên Cẩm Hà chụp ngay:
- Hello, hello... Ai đó, ờ Hoàng Mai hả? Gia
đình chị khỏe chớ, hôm nay không đi làm giờ phụ trội sao mà gọi tôi vậy?
Tiếng trầm trầm của bà
chị con của cậu Hai, anh cả của mẹ mình. Gia đình chị Hoàng Mai, ở mãi tiểu
bang Michigan (sát nách với nước Canada) xa tít mờ xa, phải bay hơn bốn giờ từ
California mới tới Michigan nơi gia đình chị đang cư ngụ. Hôm nay trời trong
mây tạnh, nên qua điện thoại viễn liên, Cẩm Hà nghe rõ ràng từng chữ một, vang
vang bên tai chớ không rò rè bị ảnh hưởng lúc mưa bão, hay gió cuốn tuyết
rơi...
Chào và hỏi thăm sơ qua
về gia đình chị, thì Cẩm Hà nhẹ giọng cười vui lên tiếng, sau khi nghe bà chị họ
có ý muốn kể cho mình nghe chuyện gì đó. Nàng sốt sắng bảo:
- Ờ ờ thì chị cứ nói đi, kể đi... mình có làm
chi đâu, chỉ không nở rời cái ổ chuột quen hơi hám ấm áp thôi. Vậy chị cứ tự
nhiên như người “Hà Nội” đừng ngại, hãy kể đi, mình lắng tai nghe đây.
Đầu
dây điện thoại bên kia chị Hoàng Mai đều giọng, kể lễ tâm tình về gia đình nhỏ
bé của chị hồi năm ngoái kỳ xưa cho đến bây giờ...
Ông bà ngoại tôi có năm người con trai, cộng thêm má tôi là con
gái út, nên có cả thảy là sáu người con. Ông là một thương gia ăn nên làm ra,
chủ một cửa tiệm bán xe đạp, sau dần dà bán các loại xe gắn máy và có ba bốn
căn phố lầu cho người ta mướn để mở tiệm bán buôn sầm uất sát trục lộ thông
thương xe qua lại... Mỗi ngày như mọi ngày đường phố trong thị trấn Vĩnh Điện
(Tỉnh Quảng Nam) lúc nào cũng đông đảo khách vãng lai của chợ nằm gần lộ, từ
lâu đời thuở Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa. Gia đình ông ngoại tôi ăn nên làm ra tiền
bạc khắm khá dồi dào đã mấy đời cha truyền con nối về việc buôn bán ở chợ phồn
thịnh nầy.
Má
tôi lại là con gái út là «công chúa» của gia đình ông bà ngoại đó đa. Nên câu “Miền Trung khổ lắm ai ơi. Đông thời thiếu
áo, hè thời thiếu ăn” không tác dụng gì với má tôi và các anh của bà. Vì họ
là những đứa con có phước nhờ cha có tiền, mà họ hàng và chòm xóm thường bào:
«Bọn anh em nó giàu trong trứng giàu ra». Để khi hết bậc Tiểu học thì các cậu
và má tôi lần lượt ra tỉnh thành học tiếp tục. Ông bà ngoại mua nhà trên tỉnh để
cho các con trú ngụ mà học hành, và có bà vú của má tôi theo giặt giũ, nấu ăn
cùng chăm sóc các cậu con trai, và cô tiểu chủ xinh đẹp của mình.
Để
khuyến khích các con theo đuổi đường học vấn, lập nghiệp thành nhân... nên ông
bà ngoại tôi thường khuyên hãy cố gắng học hành, và bảo với các con rằng «Ruộng đất bề bề không bằng nghề trong tay»
hay là câu «Vàng xây chín bệ vẫn phù vân»
Bởi theo ông bà ngoại tôi, dù có tiền bạc cũng không vững bền bằng việc học hỏi,
hiểu biết... và phát triễn qua con đường học vấn của chính mình...
Quê
hương ta dằng co trong tranh sáng tranh tối của cuộc nội chiến Quốc Cộng, cho
nên sau nầy năm ông anh lớn của má tôi đều là quân nhân, công chức công tác
trong nhiều binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ ở rải rác khắp bốn vùng
chiến thuật từ: Năm Căn, Đồng Tháp... miệt mày với câu hát «Áo nhà binh thương lính, lính thương dân» có người ở miền thùy
dương cát trắng, biển xanh xanh ngát Nha Trang, Vũng Tàu... hoặc tận chân trời
Huế, Thạch Hản, Bến Hải... của nước Việt Nam hoa gấm mến yêu.
Ba tôi anh chàng lãng tử là con cả, con
trai độc nhứt có ba cô em gái được sanh trưởng trong gia đình nông dân ở cái miền
“Con cá gô, bỏ chong gỗ nhãy gồ gồ” Tôi
muốn nói vùng ông bà nội tôi người ta nói chuyện ít có đánh lưỡi bẻ giọng, nơi
xa lộ đá “Muổi kêu như sáo thổi, đĩa lội
như bánh canh” ở vùng Đồng Tháp Mười ấy mà! Mặc dù sống ở dưới quê, có ruộng
đất bề bề, có tá điền, có kẻ ăn người làm... phụ lo ruộng nương vào mùa cây
trái trong vườn nhà, mà ông bà tôi không sao làm cho xuể.
“Đồng
Tháp Mười là phần địa phận của tỉnh Kiến Tường. Đó là một cánh đồng rộng bảy
trăm ngàn (700.000) mẫu tây, nằm trong lòng của các tỉnh như Châu Đốc, Long
Xuyên, Sa Đéc, Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường, Long An, Tây Ninh và lan
sang đến bên giới Việt Miên (Comuchia) Đồng Tháp Mười nguyên là đồng sâu, lai
láng nước quanh năm, mọc đầy: lau, sậy, đưng, lác... và nhiều cây chịu nước như
ô môi, bầu, tràm, điên điển... Đồng Tháp Mười là nơi thủy sản như: Cá lốc, cá
trê vàng, cá bông, lươn, rùa, cá sặc lò tho con lớn bằng bàn tay xòe... Những
loại cá nước ngọt nầy ngon nổi tiếng Nam Kỳ Lục Tỉnh.. Cái vùng ruộng đồng bao
la «Cò bay thẳng cánh/ chó chạy cong
đuôi» cũng chưa qua hết ruộng đồng. Nơi nầy nước ngập quanh năm nên cá tôm
nhiều đến nỗi tới mùa nước nối chúng theo nước lội lên bờ, khi nước rút, xuống
không kịp... chết ngộp đầy dường để cho người ta bắt cả thúng giê, thúng giạ...
đem phơi khô, làm mắm...
Về
di tích lịch sử Đồng Tháp Mười là vùng đầm lầy hiểm yếu, thuận lợi cho nghĩa
quân nổi dậy đánh phá chống bước tiến của giặ, có: Anh hùng Trương Công Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung
Trực, Nguyễn Hữu Huân khởi nghĩa. Tháng ba năm 1866 nghĩa quân ba tỉnh miền
Tây phổ biến hịch dân chúng nổi dậy! Dân quân Đồng Tháp Mười nổi dậy chiếm Cái
Nứa, đồn Sa Tiên trên sông Vàm Cỏ Tây và đóng quân ở đồn Tiền và đồn Gò Bắc
Chiên (Mộc Hóa). Đồng Tháp Mười còn là biểu tượng của công trình khai phá rừng
hoang thành đồng ruộng của người Việt Nam, là một chứng tích thiên nhiên của
tinh thần yêu nước. Người dân Đồng Tháp nói riêng, dân miền Nam nói chung rất
kiêu hãnh về tinh thần nầy, vì nó được tiếp nối từ đời xưa đến đời nay... trong
công cuộc kháng chiến lật đổ bạo quyền Việt cộng” (tài liệu từ: Nước Tôi, Dân Tôi).
Trong
gia đình bên nội chỉ có ba tôi là con trai lớn, nhưng ông bà nội không cho gánh
vác việc nhà như những bạn bè ông, có con trai ở mười bảy, mười tám tuổi thì bắt
đi cưới vợ, sanh con... rồi làm rẫy, làm ruộng nối tiếp công việc như cha ông!
Tuy sống ở vườn, là con của một nông dân cha truyền con nối từ mấy đời, nhưng
ông bà nội có óc cầu tiến cho ba tôi ra thành thị học hành chữ nghĩa để sau nầy
làm việc ngoài xã hội… Chớ ông bà không muốn con mình cày sâu cuốc bẩm, sống ở
làng làm một nông dân như cha mẹ mình.
Khi ba tôi đậu bằng Thành Chung (Trung
Học Đệ Nhất Cấp) thì ông tình nguyện vào trường quân sự. Khi còn sanh thời ba
tôi kể rằng, lúc đó trong làng xã, ai có con trai tòng quân nhập ngũ đi quân dịch
là một niềm hãnh diện cho gia đình, và một vinh hạnh rất lớn cho làng thôn. Sẽ
được ban hội đồng xã, dân trong thôn, và các làng lân cận có con em đi quân dịch
như vậy... thì họ cùng nhau vật trâu, vật bò... cùng nhau ăn uống hả hê, múa
lân, ca nhạc... vui vẻ, nhôn nhịp trong tiệc tiễn đưa.
BỨC TÂM THƯ
«Vài
hàng gửi anh trìu mến/ Vừa rồi làng có truyền tin/ Nói rằng nước non đang mong/
Đi quân dịch là thương nòi giống/ Người thường tìm sang giàu tới/ Lòng này thì
khác tình ơi/ Ước nguyền hứa duyên trao người Cầm tay súng tòng quân anh tươi
cười/ Lòng thầm đang lớn ươm đầy tơ/ Nhờ trời cam quít đã lên mùa/ Chờ ngày dệt xong áo chung tình/ Em mang tới
đồn mà tặng anh/ Lạy trời tròn năm tròn tháng/ Nợ làng ơn nước đã đền xong/
Xóm làng hát câu thanh bình/ Về nơi cũ tìm vui duyên lành/ Lòng thầm đang lớn
ươm đầy tơ/ Nhờ trời cam quít đã lên mùa/ Chờ ngày dệt xong áo chung tình/ Em
mang tới đồn mà tặng anh/ Lạy trời tròn năm tròn tháng/ Nợ làng ơn nước đã đền
xong/ Xóm làng hát câu thanh bình Về nơi cũ tìm vui duyên lành». Ca khúc « Bức Tâm Thư » của nhạc sĩ «Lam Phương» thuở đó được ca sĩ thời đại hát vang vang trên các
đài phát thanh, trên các loa phóng thanh từ những trạm thông tin huyện, thông
tinh xã...
Những
thanh niên đó đối với dân là những trai hùng, những chàng trai đứng đầu gió ngọn
sóng để gánh vác việc nước nhà... Luôn được người ngưỡng mộ, và nhiều gia đình
quen biết có con gái lớn gấm ghé muốn gả cho nửa... Đó là những người đi quân dịch
còn được đãi ngộ như vậy... thì nói chi ba tôi vào trường sinh viên Sĩ Quan...
Thời
gian thấm thoát trôi qua, bao nhiêu tháng năm thụ huấn ở «quân trường mồ hôi đổ, sa trường bớt đổ máu». Rồi ba tôi cũng đến
ngày ra trường... Ông rày đây mai đó từ Bến Hải cho đến Cà Mau không đóng quân
hoặc ở nơi nào nhứt định... Ông bà nội đã bao nhiêu lần nhắc nhở ba lấy vợ... Nhưng ông
cười trừ chớ không sốt sắng đáp ứng theo lời của cha mẹ. Cho mãi đến năm gần ba
mươi cái xuân già (30 tuổi), mà miền Nam ở cái tuổi đó nếu trai chưa cưới vợ,
gái chưa lấy chồng, thì coi như bị “lỡ thời”
trầm trọng rồi, nhứt là phái nữ! Nên mới có câu: “Trai chưa vợ ba mươi tuổi hãy còn xuân/ Gái ba mươi tuổi chưa chồng
như chình mắm nêm”.
Năm đó anh chàng lãng tử
ba tôi phải lòng cô gái út, con ông chủ tiệm xe gắn máy mới có mười tám tuổi
(nhỏ hơn ông một con giáp (12) tuổi, ở miền Trung. Có dịp ghé lại miền Trung,
xứ sở sỏi đá khô cằn nhưng đầy thú vị và nên thơ… thì hẵn nghe câu hò chân tình mộc mạc: “Quê em nghèo lắm ai ơi… Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn” Nơi nầy là cái miền má tôi sanh trưởng, mà thường nam cũng như nữ, đa số người
có tầm vóc nhỏ bé, thấp... Vì đó là vùng núi non “địa linh nhân kiệt” nhưng cũng là vùng khô cằn sỏi đá, chỉ có nhiều
đồi, núi cao, rừng thâm sâu, ít sông, xa biển, thiếu đồng bằng, vườn tược, ruộng
nương. Gia súc cũng không có nhiều, tôm, cá sông, cá biển cũng hiếm hoi hơn những
nơi khác... Ở đây chỉ có cá suối, cá khe… nước trong leo lẻo nên con nào cái đầu
cũng chờ vờ, vẩy, vy... mình cá xanh dờn, ít thịt, nhiều xương, dai... không
ngon! Và nhứt là giọng nói nặng, rất khó nghe, khác hẳn với giọng nói với người
ở miền đồng bằng sông Cửu Long... từ Vũng Tàu về miền Lục Tỉnh.
Nhắc đến miền Nam vùng
Đồng Tháp Mười ba tôi sanh ra thì nói gì. Nơi có khí hậu ôn hòa mưa nắng hai
mùa, có ruộng thênh thang, vườn cây xanh lá thắm cành nặng bông quằn trái sum
sê như là: xoài, bưởi, cam, quít, cùng các loại chuối ngọt dẻo thơm tho vô
cùng... Gia súc thì có: gà, vịt, ngỗng, heo... nhà nào cũng có nuôi để ăn, thừa
thải thì đem bán... Sông ngòi kinh, rạch thì chằng chịt cho nhiều thủy sản cá,
tôm... ngon hiền.
Ba tôi cưới một thiếu nữ
ở vùng khô cằn sỏi đá. Nhưng má tôi thì là một thiếu nữ ngoại lệ. Bà có khuôn mặt
trái soan thanh tú, không dài, cũng không ngắn sáng sủa, nước da trắng hồng, mắt
to, mũi như giọt mật (thon trên gần mắt, và cao gọn, kín ở hai cánh mũi). Bà có
tướng đi nhẹ nhàng khoan thai, mái tóc dài óng mượt đen như mực tàu Long Tể. Giọng
nói của má tôi thỏ thẻ thanh tao như chim hót, vì bà được sanh ra và lớn lên ở
thị thành nên có khác đi với thôn dân sống xa chợ, cận kề bên rừng núi...
Đặc biệt là bà có má
lúm đồng tiền tô thêm nụ cười trông rất dễ thương, khoe hàm răng trắng đều như
hạt bắp... Vì thế bà đã làm lụy anh hùng một chàng lãng tử hào sảng, đẹp trai
miền đồng bằng sông Cửu Long như ba tôi! Dù cha mẹ không hài lòng cho con trai
thành hôn với cô gái miền ngoài đó! Nhưng vì thương con, nên ông bà nội tôi
cũng phải khăn gói quả mướp ra tận miền Trung xin hỏi cưới đúng theo lễ nghĩa
con gái người ta, cho thằng con trai yêu quý của mình...
Ba
tôi công tác nơi quê vợ được mấy năm, lúc đó ông bà đã có bốn đứa con (chưa có
tôi) thì đổi về làm việc ở Sài Gòn. Và con bé Hoàng Hà được sanh ra ở bệnh viện
Từ Vũ nơi hòn Ngọc Viễn Đông nổi tiếng gấm hoa thanh lịch nhứt vùng Đồng Nam Á
thời miền Nam Cộng Hòa.
Má tôi là một phụ nữ,
ngay từ khi được sinh ra là vì sao tốt trong gia đình cha mẹ giàu! Về làm vợ ba
tôi được cưng chiều hết mực... ngoài tiền lương hàng tháng của chồng đem về,
còn nhờ bên gia đình ngoại chu cấp... nhà nội giúp đỡ... nên gia đình chúng tôi
có cuộc sống rất hài hòa, rất tốt. Ông bà ngoại còn mướn cho người làm, ngay từ
khi con gái theo chồng ở riêng... Một người có tuổi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ…
Khi bà sanh thì có thêm một người giữ em… Hai người giúp việc nầy, đều do ông
bà ngoại tôi mướn trả tiền hàng năm.
Ở
sở làm, ba tôi làm gì không biết, nhưng trong gia đình ông là một người chồng
tốt, một người cha mẫu mực thương yêu và lo lường mọi thứ cho vợ, con. Từ việc
học hành, cho đến sức khỏe và miếng ăn, cái mặc... của anh em tôi, đều một tay
ba tôi sắm sửa lo cho cả.
Khi lớn lên tôi mới nhận
biết rằng, má tôi là phụ nữ ít nói, thâm trầm và là người vợ hiền sanh con cho
ba để nối dòng nối giống họ hàng nhà nội, chỉ vậy thôi! Má tôi thích ăn sang, mặc
đẹp, trong nhà bà chỉ bế con khi chúng sạch sẽ... dòm ngó người làm, nhắc nhở
lo cho con bà chu đáo. Bà để ý và săn sóc chồng nhiều hơn cả con từ miếng ăn,
giấc ngủ và cách trang phục của ba... Lúc ba tôi tại nhiệm còn trẻ có địa vị
trong xã hội thời bấy giờ... má tôi thích theo chồng trong những lần có tiệc
tùng... Thích như vậy chỉ đi với ba tôi, chớ bà không thích đi ra ngoài một
mình. Bà cũng không có bạn bè tụm năm, tụm ba để trò truyên, ăn uống bên ngoài,
cũng không giao du thân thiết với những người phụ nữ ở tố như bà...
Mặc dù ngoại thương yêu
lo cho má tôi lúc còn trẻ sống chung với gia đình, cũng như lúc làm vợ ba tôi
và có con cái... Nhưng ông bà ngoại nhớ thì vào thăm con cháu chớ má không dắt
chúng tôi về thăm... Ngoại trừ đám cưới của các cậu, hay ông bà bất ngờ đau yếu.
Má tôi cũng không hay chuyện vãn, tâm sự với bà con bên chồng, hoặc các chị dâu
bên mình... Bà ngồi bên ba nghe hơn là góp chuyện vui, hay buồn, của đại gia
đình bên ngoại cũng như bên nội tôi mỗi lần có dịp họp mặt đoàn tựu. Họ hàng
thường bảo má tôi là một phụ nữ ít nói. Nhưng ba tôi lại là người đàn ông hoạt
bát, vui vẻ thân thương gần gũi anh chị, em, con, cũng như cháu. Ông là người
chồng thương yêu vợ nhứt trên cõi đời nhiều đổi thay, nhiêu khê... Để rồi sau nầy
lớn khôn, có lúc anh em chúng tôi len lén than phiền về má.
Anh Hai tôi bảo:
- Trong bọn anh em mình, đứa nào thiếu cái gì
thì xin hỏi ba. Ba đều lo cho, trong nhà cần thứ gì, hết thứ gì, mất cái gì nói
với ba... ba sẽ tìm kiếm có ngay, hoặc trước sau rồi cũng mua cho...
Anh
Ba tôi cười hí hí:
- Còn hỏi má, má nói “Sao trong nhà chuyện gì
cũng hỏi tao hết vậy? Hỏi ba tụi bây đi…”. Bởi vậy, năm đó ba đi công tác ở Đài
Loan chỉ có hai tuần mà tụi mình nhớ ba muốn chết, cứ đếm từng ngày mong ba về.
Chị
Tư tôi cười hí hí lấy tay che miệng, nói nhỏ như sợ ai nghe:
- Còn đi thăm ông ngoại bịnh ở cả tháng, khi má
về anh Hai mình hỏi “Sao má về mau quá vậy?” Chị Năm còn bảo sao má không ở
thêm vài tuần nữa với ông bà ngoại rồi về, tụi con không có chờ má về đâu... thế
là bị má vả cho mỗi đứa một bạt tay, khiến cả bọn chúng mình chạy tán loạn. Sau
nầy anh chị em khi có dịp nhắc lại… cả bọn vỗ tay cười ngã cười nghiêng, cười
muốn nín thở... Thiệt là xui xẻo, khi chúng tôi nói lén đến đó, bất chợt má lại
đi qua! Nghe mấy đứa con rù rì, bà đứng lại tra hỏi một hồi... Cả bọn anh tôi
vô số tội mà chối bai chối biến... Còn con em khờ dại nầy là tôi đây chỉ biết
khóc hu hú... rồi thành thật khai ra hết mọi thứ với má, để được tha không phải
bị đánh đòn...
Má tôi trợn mắt, phùng
mang đay nghiến nhìn lũ con khôi ngô tuấn tú
của mình... rồi quát cho một trận nên thân:
- Tụi bây là đồ vô ơn bạc nghĩa! Tao bụng mang
dạ chữa chín tháng mười ngày nặng nề đau đớn mới sanh bây ra... Sanh tụi bây được
vuông tròn tao quên hết cái đau đớn, yêu đuối như bún luộc của một sản phụ!
Sanh ra thì cho tụi bây bú mớm cho đến thôi nôi... Đêm đông lạnh lẽo, khi tối lửa
tắt đèn... bây bịnh hoạn... ba bây đi lính xa nhà... ai đã săn sóc thuốc thang,
trông chừng, thức sáng đêm với tụi bây đây? Mặc dù nhà có kẻ làm người giúp việc...
nhưng chỉ đỡ đần, giặt giũ áo quần, ẵm bồng thôi trong lúc bây khỏe mạnh... Chớ
làm sao tao dám giao lúc tụi bây bịnh cho họ trông coi hết được... Rõ ràng bọn
bây thật là những đứa con bất hiếu... tao sanh tụi bây uổng quá trời... Phải hồi
đó tao sanh trứng gà hay trứng vịt luộc ăn còn sướng và ngon cái miệng hơn sanh
lũ bây…
Với giọng hờn giận rung
rung, má tôi rươm rướm dòng lệ mỏng! Bà với lấy cái khăn máng trên vách gần bên
để lau nước mắt... Lúc đó tôi cảm thấy thương yêu má vô cùng, lòng se thắt và hối
hận đã hùa với các anh mình...
Má
tôi nghẹn lời, nói tiếp:
- Tụi bây là những đứa con uổng công tao thương
yêu chiều chuộng mà chẳng ra gì! Mấy đứa lớn xúm lại nói hành nói tỏi mẹ bây,
làm gương xấu bắc cầu cho lũ em... Cho nên con Hoàng Lan, con Hoàng Tâm mới nức
mắt mà tao nói cái gì chúng nó cũng xon xỏn cãi lại hết… Tao thật là vô phước
quá mà!
Rồi
má khóc lớn... nghe má rầy rất là phải, anh em chúng tôi cúi đầu không nói lời
nào mà nhận tội, mặt mày lộ vẻ sầu bi, và nước mắt rưng rưng... Họ quỳ xuống
cùng xin lỗi má sau nầy không dám nữa... còn tôi ôm chắc má mà khóc lớn hơn ai
hết, và thấy ghét anh chị mình quá trời đi thôi!
Sau 30 tháng 4 năm 1975, cùng chung số phận với quân, dân, cán,
chánh miền Nam. Ba tôi bị giặc bắt đày đi cải tạo ở các trại tù miền Nam rồi ra
miền Bắc... Lúc giặc mới vào thì má lấy đồ trong nhà đem ra bán là: xe, rồi áo
quần, chén bát, tủ bàn... Cái nhà giờ đây chỉ còn bốn tấm vách, từ nhà trên xuống
nhà dưới trống trơn, dù xe ba bánh cũng có thể chạy qua chạy lại thông thương
không có chướng ngại vật nào cản trở ráo trọi trơn...
Hai anh lớn của tôi lúc
đó đang học nghề chuyên môn ở một trường Đại học. Vì thời cuộc, và hoàn cảnh
gia đình... họ phải nghỉ học ra buôn bán để nuôi ba tôi kẹt trong tù, và giúp mẹ
nuôi mấy đứa em trong tuổi ăn chưa no lo chưa tới, chưa làm gì ra tiền...
Việt Cộng vào, má tôi
cho người làm về quê... vì gia đình không đủ gaọ ăn thì có đâu giữ người giúp
việc... Người làm nghỉ, trong nhà như nấu cơm nước và mọi việc khác giặt giũ,
gánh nước, đi chợ... giờ đây do má chỉ biểu cho chị em tôi đứa lớn làm việc lớn
đứa nhỏ làm việc nhỏ... chớ bà cũng không rớ tới. Mấy tháng đầu chúng tôi làm bếp
cơm sáng khét, chiều nhão, nấu canh cháy nồi... “vạn sự khởi đầu nan” mà, lần lần rồi đâu cũng vào đó cả! Tuy chúng
tôi nấu không khéo không ngon, nhưng mà nấu nướng khô lân chả phượng... mới
khó, chớ chặt to kho mặn miển nấu chín rồi thì cả nhà kẻ húp người chan ăn uống
ngon lành... Ăn ngon hơn ngày xưa về nội, về ngoại ăn giổ. Bởi khi đói thì cái
gì cũng ngon, và cũng nuốt trôi hết ráo!
Năm đó tôi mười ba tuổi,
chị tôi người mười bảy, người mười sáu. Thỉnh thoảng các chị em tôi cũng ra phụ
hai anh buôn bán chợ trời. Hoàn cảnh tang thương chung của đất nước, mọi gia
đình gần như chịu khốn đốn bởi việc sanh nhai... vì gần như gia đình nào cũng
có người bị tù cải tạo.
Nhưng gia đình chúng
tôi âm thầm sống khỏe, sống tốt... kể từ khi các anh tôi ra mánh mung buôn bán
có tiền vô, ra... Má tôi là người nắm giữ tiền bạc... và chỉ bảo mọi điều...
Chúng tôi thương yêu ba má thấu hiểu và luôn dè dặt trong hoàn cảnh đau thương,
nhiễu nhương và tình người đổi trắng thay đen dưới sự thống trị của chế độ Cộng
sản tràn vào cưỡng chiếm...
Anh chị tôi đi bán chợ
trời, gội nắng dầm mưa, đi sớm về tối... vất vả trăm chiều, tảo tần trong việc
buôn bán mới có miếng ăn... Má tôi vẫn quanh quẩn trong nhà chân giầy chân guốc
ăn no, ngủ kỹ... mấy tháng chưa bước ra khỏi cửa... cho dù ngoài trời có sập xuống
bà cũng không để ý!
Mỗi lần đi thăm ba ở
trong tù, ông thường nhỏ to dặn riêng chúng tôi:
- Má các con từ thuở nhỏ sống với cha mẹ có ăn
có để nên bả chưa bao giờ giặt cái áo hay nấu nồi cơm... Đến khi có chồng thì
ông bà ngoại con giúp đỡ tiền bạc hàng tháng, sợ con mình cực khổ nên mướn cả
hai người giúp việc để hầu hạ bả... khi sanh Hoàng Mai đứa con út của gia đình
má các con cũng chưa hề cực khổ... Bây giờ ba tù đày, tội nghiệp bả, mặc dù má
các con ra đời ở vùng nghèo nàn vì năm nào cũng bị thiên tai hạn hán, mưa lũ ngập
lụt gió bão mùa màng thất bát... Nhưng ông bà ngoại con khá giả, má con sống
sung sướng từ lúc lọt lòng mẹ quen rồi... Nay thì ông bà nội các con nay già yếu,
vườn tược cũng chia năm, xẻ bảy, và số còn lại cũng sang nhượng để nuôi gia
đình mình từ khi giặc vào. Ông bà ngoại cũng đã kiệt quệ, đang lâm cảnh khó
khăn, má các con ít nói, nên sự thương yêu lo lường bà ít để lộ ra ngoài, nhưng
là người mẹ tốt, người vợ thương yêu chồng... Thương ba, thì các con phải hiếu
thảo, giúp đỡ má và nghe lời má. Những gì các con có thể làm được… thì phải cố
gắng làm để má các con đỡ nhọc nhằng, và không khiến bả tủi thân buồn khổ sẽ dễ
gây bịnh...
Ở trong tù ba tôi chịu
bao nhiêu nỗi cực khổ, tủi hổ... nhưng ông vẫn canh cánh lo cho gia đình nhứt
là lo cho má chúng tôi! Người đã cho gia tộc hiếm muộn con trai của ông những đứa
con xinh, những đứa con ngoan hiền biết nghe lời cha mẹ... Chúng tôi đứa nào
cũng biết ở trong tù mà ba lo cho má còn hơn má lo cho ba đang bị giặc đày đọa
giam cầm, thiếu ăn thiếu mặc, lương tâm luôn bị kẻ vô ý thức, dốt nát, ngu đần...
tìm đủ mọi cách chà đạp và hủy hoại cho “chết
một con, nhòn một mũi...” để trả thù về sự thua kém của chúng...
Cho đến mười mấy năm
sau ba tôi mới được ra khỏi tù. Và mấy chị lớn của tôi lần lượt đã lập gia đình
ra sống riêng cũng chung thành phố.
Ba tôi ngày nào cũng
theo phụ với hai anh buôn bán. Còn tôi làm hết mọi việc từ vệ sinh trong nhà,
giặt giũ quần áo cho mọi thành viên trong gia đình cùng đi chợ nấu ăn hàng
ngày… Dù nhọc nhằn nhưng chúng tôi rất hạnh phúc ngấm ngầm, nhờ trong gia đình
sống gần gũi hôm sớm đùm bọc lẫn nhau... nhứt là các anh tôi buôn bán “Chợ Trời”
kiếm ăn cũng đỡ lắm.
Ba tôi là người đàn ông
thương vợ thương con rất mực. Gia đình chúng tôi khá cũng nhờ khéo léo bán buôn
của hai anh nên giờ đây không đến nổi khổ sở như lúc giặc mới vào... Riêng má
tôi trở lại sung sướng như ngày xưa mặc dù không sang, đẹp tân thời như xưa...
nhưng vẫn ấm, no mà không phải làm lụng chi cả, vì chồng và các con lo từ trong
ra ngoài...
Vậy mà đôi lúc má tôi
còn thở dài buồn bã rồi oán trách:
- Số phần tao thật hẩm hiu, tại lấy ba bây nên
giờ mới khổ...
Ba tôi cười hiền, nói
nhỏ với các con:
- Kệ bả, tội nghiệp lúc ba ở tù, bả ở nhà khổ
tâm mọi chuyện… Bả nói vậy chớ có làm gì đâu... các con nên thông cảm với bả mà
đừng có buồn má nghe chưa…
Thiệt
tình sao má tôi không chịu nghĩ suy mà tôi nghiệp cho chồng con lại đi thốt những
lời hết sức khó nghe như vậy! Nhưng rồi ngày lại ngày qua, cuộc sống của gia
đình chúng tôi lây lất theo thời gian trong lo âu sợ hãi, trước những kẻ khi cưỡng
chiếm được miền Nam rồi thì tự mãn cho là mình chiến thắng... muốn làm chi thì
làm “Phép vua thua lệ làng” ở thời buổi
nầy, và bất cứ ở nơi đâu trên quê hương khốn khổ cũng có thể xảy ra. Từ giặc thả
về sau những năm dài bị đày ải, ba tôi sống lặng lẽ, an phận với những công việc
hàng ngày chớ ít giao du với ai, kể cả người thân thì đừng nói chi bè bạn...
Ông luôn dặn dò các con: “Tai vách mạch rừng”
nhắc cho chúng tôi phải nhớ lại phim
“Chúng Tôi Muốn Sống” mà giữ mồm giữ miệng, kẻo tội va vào thân lúc nào
không hay biết, nhứt là sau ngày hai anh tôi vượt biên...
Số là có một hôm đẹp trời,
ba tôi được gia đình người cộng sự viên ngày xưa ở Gò Công đến thăm. Ông ta có
nhã ý giúp ba tôi rời Việt Nam bằng thuyền chài vượt biển Đông... Không cần
nghĩ suy, tội nghiệp ba tôi sụp lạy người ngỏ lời giúp mình... ông từ chối cho
ông mà năn nỉ người ơn nhờ giúp đỡ cho hai anh tôi theo gia đình ông ta vượt
biên... Ba tôi muốn như vậy là vì các anh tôi còn trẻ, tương lai còn dài không
thể nào chung sống trong chế độ Cộng sản vô thần, không nhân quyền, không tự
do... Và anh em chúng tôi sổ bộ đời ở chế độ Cộng sản vĩnh viễn nằm trong sổ
bìa đen là con của “ngụy quân...” đó
là thành phần khiến chúng lo sợ trả thù vì những chuyện gian ác chúng đã tạo nghiệp chắc chắn phải trả ở mai sau...
Ba má và mấy chị em tôi
mừng còn hơn trung số độc đắc mấy tỉ bạc Việt Nam Cộng sản hiện đại... khi được
tin hai anh tôi vượt biên đến Nam Dương. Chín tháng sau được vào Mỹ, các anh
tôi biên thư đại khái, về cho gia đình biết tin để yên lòng:
“........................................................................
Kính ba má, tháng đầu ở
xứ lạ quê người làm xong thủ tục giấy tờ, hai anh em con ngày đi học sinh ngữ.
Chiều về sớm ở không nên chúng con làm trong các chỗ bán đồ ăn liền... Công việc
không cực nhọc cho lắm... cứ hai tuần được lãnh tiền một lần, trang trải sở phí
ăn, ở... Chúng con dành dụm khá khá sẽ gởi về ba má tiêu dùng... Từ rày ba má
và các em cứ yên lòng, không phải lo sợ thiếu thốn, và đói nữa.
....................................................................................”
Khi có chương trình các
cựu quân bị tù cải tạo ba năm trở lên thì làm đơn xin đi Mỹ theo diện H.O... Ba
tôi không xin tỵ nạn Cộng Sản theo diện H.O, hay đoàn tựu gia đình do sự bảo
lãnh của anh tôi để sang Mỹ.
Ông bảo:
- Ba không đi đâu! Nếu có điều kiện, các con đứa
nào thoát ra khỏi nước thì ba mừng lắm. Các con ra đi là một việc hết sức chính
đáng, phải ra xứ người tự do mà bươn chải với đời... mới thấu hiểu trời cao đất
rộng... Chớ cả kiếp nầy sống ở đây chui rút làm thân tôi mọi cho một nhóm người
không ra gì thật uổng cho kiếp làm người lắm! Các con phải nhớ lấy lời ba dặn
dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải làm người lương thiện lúc nào bên mọi người
chúng ta cũng đều có hai bên vai vác, và trên đầu các con đều có thần linh, có
Thượng Đế... Hồi còn trẻ, trong quân ngũ, ba đã tu nghiệp ở Mỹ gần hai năm...
nay ba già rồi, xứ người không hợp với tuổi tác của ba đâu... Vả lại ba mong muốn,
những tháng ngày còn lại của đời mình được chứng kiến vòng xoay lịch sử của đất
nước ta...
Cũng nhờ có sự tiếp trợ
hàng tháng của hai anh, và gia đình các chị tôi sau nầy chịu cực chịu khổ nên
làm ăn sung túc sớm thăm tối viếng cận kề bên ba má tôi, còn kẹt ở quê nhà. Khi
mấy chị đem đến tặng ba con gà, con vịt, gạo ngon, nếp dẽo… Nên cuộc sống của
ba má tôi đỡ hơn và tâm tư cũng đỡ khắc nghiệt lo nghèo, lo đói nữa.
Riêng tôi theo chồng
sang Mỹ theo diện H.O cũng được bốn năm rồi. Thỉnh thoáng tôi cũng phụ hai anh
gởi về chút đỉnh trong những ngày giỗ, Tết … Ba má tôi có cuộc sống âm thầm và
khiêm tốn nhưng vật chất rất đầy đủ rất dồi dào... giữa đất nước nhiễu nhương,
ngữa nghiêng trong tay giặc. Một bọn tráo trở, nhân nghĩa, luân thường, đạo lý
coi như đã mất theo vận nước nổi trôi từ dạo chúng từ phương Bắc xâm nhập theo
làn sóng đỏ tràn vào Nam. Bởi người dân miền Bắc mấy mươi năm cuộc đời khốn khổ
bị nhồi sọ, bị kềm kẹp, bị ép bức, bị bốc lột... đại đa số thất học từ trong
chánh sách ngu dân của Cộng sản mà ra.
Ba tôi qua đời sau những
tháng ngày mang bịnh trầm kha, lúc còn trong tù đày cải tạo. Ngày tang lễ, anh
em tôi đều về để được nhìn mặt người cha khả kính lần cuối. Sau đó chúng tôi đề
nghị với má là bảo lãnh qua Mỹ, nhưng bà nhứt định không chịu đi. Vì ý má tôi
muốn khi trăm tuổi già được nằm cạnh mộ ba tôi, thế nên anh em tôi không nài nỉ
má đi qua Mỹ nữa.
Riêng tôi nhận thấy rằng,
người lớn tuổi có con cháu ở hải ngoại, thỉnh thoảng gởi tiền về tiêu dùng còn
sướng hơn ra nước ngoài. Vì người già mà sống trong cảnh trăm thứ đều khác biệt,
tối ngày ờ nhà đi ra đi vô với cái vô tuyến truyền hình và những bộ phim Tàu,
thì sẽ buồn chán lắm... Riêng má tôi nếu qua Mỹ thì có gia đình anh chị Hai,
gia đình anh Ba cùng cháu nội, và gia đình chúng tôi chắc cũng sẽ đỡ buồn.
Ba không còn, dĩ nhiên
là má tôi cảm thấy cô đơn! Hiện bà đang sống bên kia bờ đại dương nơi sinh ra
và lớn, trên cùng một con đường ngắn đi bộ chừng mười phút thì đến nhà vợ chồng
chị Tư của tôi. Chị có hai đứa con chạy tới chạy lui với ngoại... Và vợ chồng
chị Năm có hai đứa cháu xinh đẹp, ngoan bà cũng cảm thấy đỡ phần hiu quạnh...
Nên ba anh em chúng tôi ở xa cũng được an lòng hơn.
Anh em chúng tôi gần
như mỗi ba tháng đều gởi tiền về cho má tiêu dùng. Riêng hai anh tôi có sức nào
bỏ ra sức nấy, để lo cho má sống bên nhà an vui với các con và các cháu. Nhà má
tôi đang ở cũng còn tốt, bởi mấy năm ba còn sinh thời chúng tôi gởi tiền về, nhờ
anh chị ở bển sửa lại cho được tươm tất. Ngoài ra, trong nhà được trang bị đầy
đủ có cả máy điều hòa không khí… Tủ lạnh, máy giặt máy xấy áo quần... cầu vệ
sinh tự động, vòi nước tắm hiện đại... Hai anh tôi cố tình tạo cho bên trong
nhà tiện nghi như nhà ở Mỹ, cho ba má tiện dụng và thoải mái lúc tuổi về chiều
mà cả đời vất vả vì con cái.
Ba qua đời chưa giáp
năm, má tôi gọi điện thoại bảo chúng tôi mua thêm đất xây nhà cho rộng hơn… Hai
anh tôi nhiều lần khuyên má là anh em chúng tôi trong tương lai không về sống
bên đó… Vả lại má chỉ có một mình “Ăn nhiều
chớ ở bao nhiêu” thì cần gì mà phải cất lớn chi cho bừa bộn... Nhưng bà vẫn
nằng nằng quyết một... rồi tự mua lại cho được mấy thước đất chạy dọc, sát ranh
nhà của người hàng xóm.
Lúc chưa mua, có hôm má
tôi gay gắt, gọi điện thoại qua bảo:
- Bây coi, bà Năm, bác Bảy, thằng Tí, thằng
Tèo… Lúc xưa nghèo mạt sát, có áo không quần, có quần không áo… Họ qua Mỹ sau
bây mà cha mẹ họ, con cái họ bây giờ có nhà cửa cái ở, cái cho thuê… Mua xe,
mua đất, ì xèo… Tụi bây phải làm sao cho tao nở mặt nở mày với xóm diềng chớ.
Không thì họ sẽ cười chê tao, chồng “ngụy”
có con ở ngoại quốc mà “phèn” quá đi!
Họ sẽ kêu rêu là nhà cửa mẹ ở như cái chòi, không giống ai... Bộ tao già thì
không có mặt mũi sao mà để họ chê cười nhà cửa xập xệ... có con cái ba bốn đứa ở
Mỹ làm chi mà không lo cho mẹ...?
Chúng
tôi thương má, nên cũng chiều lòng bà… Nhưng thiệt tình mà nói, ai đời thời buổi
nầy họ hàng, xóm chòm đói khổ, nghèo rớt mồng tơi... Còn má tôi chỉ một mình mà
mướn hai người giúp việc! Một người đàn bà trọng tuổi làm việc nhà, nấu ăn...
còn cô cháu trẻ bà con xa theo hầu hạ mỗi khi bà đi ra ngoài… Công việc chánh của
cô gái nhỏ là mỗi tối đấm bóp trước khi bà ngủ...
Bà đã ỉ ôi than
van:
- Bây giờ tứ chi tao rũ riệt đau tay, nhức
chân, xương sống ê ẩm... Bởi tao phai mang nặng đẻ đau sanh và nuôi lũ con...
Nhưng toàn là lũ vô dụng bất hiếu, được ở xứ người giàu có ấm thân, phì da, lên
xe xuống ngựa mà trong lòng không có chút gì để mà trả công ơn sanh thành của mẹ
mình...
Sau mấy mươi năm Việt cộng chiếm miền Nam, phong trào người Việt
trong nước đi thăm thân nhân ở nước ngoài rầm rộ, và cũng có người xin gia hạn ở
lại làm chui giữ em, nuôi người bịnh, người già... Mỗi tháng họ cũng được trả cả
ngàn đô đỗi ra tiền Việt Nam, tệ lắm cũng mấy chục triệu chớ bộ!
Có một hôm, má ngỏ ý muốn
qua thăm anh em chúng tôi và ở chơi dài hạn... Bà còn bảo với đám con: “...Tao
đâu thèm muốn ở cái xứ vô tình mấy đứa con bạc nghĩa đó... Nhưng tao muốn đi
cho biết đó biết đây để khi theo ông theo bà không làm con ma nhà quê...”
Thế là thủ tục làm giấy
tờ được các anh tôi lo lường nhanh chóng nhứt. Để bà sớm được ra đi gặp con cái
bên phương trời Mỹ quốc, vùng đất hứa mà trên thế giới ai cũng ước muốn có một
lần đến thăm...
Chúng
tôi họp lại nhà anh Hai ở Washington (Vùng gia đình anh chị Hai sinh sống) để
đón rước má tôi. Anh chị Hai tôi có ba đứa con. Đứa lớn tám tuổi, đứa năm tuổi
và đứa được ba tuổi. Gia đình anh chị khá nhứt trong mấy đứa con của má sống ở
ngoại quốc. Vì chị Hai tôi là một phụ nữ tháo vác, thức thời, cần kiệm, biết
làm ăn... Chị đang coi sóc tiệm uốn tóc lớn có 4, 5 người thợ làm đẹp, dưỡng da
cho khách hàng... đại đa số là dân bổn xứ, ở vùng Mỹ trắng giàu sang. Khách của
chị phải hẹn trước mới có chỗ đến săn sóc dưỡng da mặt, trang điểm, làm móng
tay, gội đậu, chải tóc... nên việc làm ăn của chị Hai tôi khá lắm. Vì yêu
thương chồng nên chị đổ của cải về Việt Nam cho má và quà cáp cho các chị tôi
bên đó, chớ anh Hai tôi lương của một người thợ hai năm đại học thì có là bao
nhiêu, dựa vào sở làm anh Hai chỉ có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình anh chị
mà thôi.
Có con dâu biết điều,
thương chồng mới lo cho bà già chồng như vậy mà má tôi vẫn càm ràm... Có một
đêm bà điện thoại cho con gái út của mình đích thị là tôi đây phân trần đã đời
rồi thì trách móc, phàn nàn vợ anh Hai tôi. Mở đầu bà khóc lớn bên kia đầu dây
điện thoại.
Tôi hoảng hồn, không biết
chuyện gì, lật đật nói:
- Chuyên gì vậy má, tại sao khóc? Má hãy bình tỉnh
kể lại cho con nghe coi…
Tiếng nói má tôi sụt
sùi trong nước mắt, và bổn cũ cứ nói đi nói lại hoài khi nào má muốn việc gì đó
mà con cản ngăn:
- Má thiệt vô phước, sanh một bầy con để nối
dòng nối dõi cho ba bây. Tao cực khổ lúc ba bây ở trong tù… giờ qua đây ăn nhờ ở
đậu anh Hai bây bị vợ chồng nó rẻ rúng, khinh khi… Tao ở nhà giữ con cho nó chớ
có ở không đâu mà nói coi thường tao. Phải biết trước bị con dâu khi dễ như vậy
có đem võng lộng về rước tao cũng không thèm đi... Ở bên đó tao có kẻ hầu người
hạ… Thiệt ba bây ác lắm, nửa chừng ổng bỏ tao mà đi... theo lẽ ổng phải để tao
đi trước cho sướng cái thân, chuyến nầy về, tao sẽ ở luôn bên đó… Có chết tao
cũng không cho bọn nó hay, thiệt là thứ con bất hiếu thế nào cũng gặp quả báo… “Ngày xưa trả báo thì lâu/ Bây giờ trả báo
phút giây nhản tiền” đừng tưởng không có...
Tôi
nhăn mặt cắt ngang lời bà:
- Má à, mà chuyện gì nói thẳng vào điểm chánh
đi... cứ dong dài nên con không hiểu chuyện gì cả? Nhưng con không tin rằng anh
chị Hai dám hổn hào và khinh thường má...
Má
tôi nín khóc, mắng xối xả:
- Mầy là con ngu, chị Hai mầy là con sư tử Hà
Đông, là con hồ ly tinh... nó không nói nhưng xúi anh Hai mầy nói, anh Hai mầy
làm…
Tôi
nổi nóng:
- Nhưng chỉ xúi anh Hai nói gì má? Má đừng vòng
vo nữa, nói cho con nghe đi...
Đầu
dây bên kia, má tôi lại khóc rống lên, rồi tức tưởi như bị hiếp đáp dữ lắm:
- Có bà Tâm hàng xóm quen với tao. Bà sẽ về
thăm Việt Nam, tao nói với vợ chồng anh Hai bây tao cũng muốn về thăm mấy chị mầy
và tiện thể coi nhà cửa, rồi tháng sau sẽ trở qua.
Tôi ngắt lời, gắt giọng:
- Trời đất, bộ tiền in ra được sao, má mới về bốn
tháng trước, thì nay lại muốn về nữa vậy má?
- Bây căm họng đi... tao muốn đi hay ở là mặc
tao có mắc mớ gì đến chúng bây! Lúc tao nói, anh bây chỉ làm thinh, chắc đêm về
tâu với hoàng thái hậu (vợ) nên sáng nay, Trước khi anh Hai mầy đi làm nói với
tao: Con sẽ mua giấy máy bay một chuyến cho má đi về. Má khỏi qua nữa, để thỉnh
thoảng con dắt các cháu về thăm má... Mầy coi, con trưởng nam gì mà trời đánh
thánh đâm không, làm mọi cho vợ chồng nó thì được, còn muốn về thăm mồ mả ông
cha, nhà cửa thì nó không cho. Tao về kỳ nầy ở luôn, nếu có đói đi xin ăn...
tao sẽ ở bển chớ đương thèm qua đây nữa…
Tôi
thở dài ngao ngán! Tức má tôi muốn chết mà tại vì bà là mẹ nên tôi đành câm miệng
làm thinh! Tôi không hiểu má tôi thiệt tình không biết hay giả bộ để mà làm eo
làm sách anh chị Hai tôi? Đành rằng từ nhỏ má tôi sống sung sướng, cho dù lúc
ba tôi đi học cải tạo ở nhà cũng có anh chi em tôi lo lường từng li từng tí cho
má… Cuộc sống của bà được các con lo chu đáo cơm no, áo ấm hơn hẵn những bạn bè
có chồng đi học cải tạo như ba tôi. Nhưng bà cũng biết là có nhiều gia đình bị
Việt cộng đuổi đi kinh tế mới... chịu không nổi nước độc, gió núi, rừng rậm...
trốn trở về mất nhà, và đang sống lang thang đói khổ ở đầu đường xó chợ.
Giờ
đây nghe má nói tôi buồn quá, và cũng ngại miệng lưỡi người đời bảo là con hổn xược, bất hiếu... Nhưng
không nói ra thì thiệt là bất công cho anh chị tôi, nhứt là chị dâu vợ anh Hai
mình. Số là má tôi qua Mỹ sống với anh chị Hai, mỗi tháng anh chị cho má một
ngàn (1000) đô-la Mỹ, chớ không phải một ngàn đồng Việt Nam đâu nghen! Anh chị
nói để má bỏ túi cho má vui, khi nào muốn mua sắm gì má khỏi ngại phải hỏi con,
dâu... Người ta trông chừng ba đứa nhỏ cho anh chị cũng phải trả bằng với số tiền
đó nhưng không yên lòng, vì dù sao bà nội giữ cũng thương cháu hơn... Bà chỉ
trông chừng các cháu lúc ở nhà cho có người lớn và tới bữa ăn (cơm nước chị đã
làm sẵn) hối thúc chúng ăn. Quần áo giặt, sấy khô đều bằng máy, anh chị tôi làm
cả, ít khi má rớ tới…
Người
ngoài cuộc, xin quý vị nghĩ xem. Má tôi sang
Mỹ ở với anh chị Hai tôi mới có ba năm, sáu tháng, mà bà đã về thăm Việt Nam
mười ba (13) lần! Mỗi lần ít nhứt là ba tuần, thường thì một
tháng. Mỗi lần má về như vậy, anh chị đều lo mua gấy máy bay và cho tiền bạc dằn
túi để tiêu xài ở bên đó nữa.
- Mầy đang suy nghĩ cái gì mà câm họng nín
thinh, không nói lời nào hết vậy Hoàng Mai?
Giựt
mình đánh độp vì tiếng hỏi lớn của má tôi bên kia đầu điện thoại. Tôi cà lăm cà
lặp, trả lời:
-
Vậy má tính sao?
-
Tính ông nội mầy chớ tính sao cái gì? Thì tao về nhà tao, chớ không lẽ
tao ra ngoài đường sống vô gia cư ở đây sao? Tụi bây toàn là lũ con bất hiếu
không hà…
Tôi cố dằn lòng, ngọt ngào khuyên
bà :
-
Má à, má thấy bên nầy làm việc vất vả lắm… Anh chị Hai may mắn ăn nên,
làm ra có tiền, chớ như con, hay các anh chị Ba cũng đâu có ai lo cho má như
anh chị Hai con đâu. Chị Hai là người hiền lành, con nhà gia giáo có đạo đức mới
lo cho má như vậy. Má còn càm ràm ta thán nỗi gì nữa? Ai có nói má ra ngoài đường
ở đâu, ảnh chỉ sợ má cứ đi qua đi lại... đường xa mệt thôi! Ở xứ Mỹ, con dâu tốt
như chị Hai tuyệt giống hết rồi, không có người thứ hai đâu… Má có đốt đuốc đỏ
trời tìm khắp năm Châu bốn bể... cũng không có con dâu như vậy đâu...
-
À, bây giờ cả mầy cũng binh cho bọn nó nữa hả?
Tức quá, tôi không còn sợ nữa:
-
Binh cái gì mà binh? Không phải má thường bảo con dữ như con gấu chó
sao? Chị Hai mà dám hổn hào với má, con để yên cho chỉ à? Con là con gái của
má, nếu con không nói cho má biết, má hiểu thì ai dám nói? Má đã về Việt Nam
còn hơn con đi chợ mua quần áo cho mấy đứa nhỏ nữa. Tiền bạc làm ra cực khổ lắm...
Anh chị Hai có tiền, nhưng má coi có lúc nào ảnh chỉ ngồi chung ăn tròn được bữa
cơm với gia đình chưa? Giờ giấc không đủ để ngủ, để săn sóc con cái… Đáng lẽ má
thấy vậy phải thương ảnh chỉ nhiều và phụ ảnh chỉ hơn mới phải chớ. Tối ngày má
cứ phân bì với ông nầy bà kia đi đi, về về Việt Nam xài tiền bạc như bươmbướm
bay… Má ích kỷ quá đi! Tại lúc sanh thời ba nuông chiều nên má lúc nào cũng sống
cho mình chớ không nghĩ đến con cái… Có ai đời thời buổi nầy bà con, chòm xóm
nghèo khổ, còn một mình má mướn hai người làm... tiền đâu má nuôi họ ăn và trả
lương cho họ, cũng tiền của anh chị Hai gởi về... Má hãy bình tâm nghĩ xem con
nói vậy có đúng không?
- Câm miệng đi con gấu chó nịnh bợ bốn mùa! Tao
phải chờ mầy dạy khôn hả? Từ rày sắp tới đừng gọi tao bằng mẹ nữa nghe con kia.
Tao sanh tụi nó ra, nuôi lớn khôn nó mới có vợ con mới làm ra tiền. Không có
tao làm sao có bọn nó… Tiền của nó làm ra gốc gác cũng từ tao mà có... với tao,
nó trả bao nhiêu cũng không đủ…
-
Trời! Nồi đồng nồi đất ơi má đừng có vô lý như vậy có được không? Anh
Hai má sanh ra, còn chị Hai má có sanh đâu... Má ở với con cũng không được như
vậy chớ đừng nói chi ở với con dâu… Con thấy anh Hai nói đúng, má nên về bên
nhà ở luôn là tốt hơn...
Má
tôi dằn điện thoại một cái cụp, không thèm nghe nữa... Tôi cũng buông điện thoại
ngồi xuống thấn thờ, hai dòng nước mắt chảy dài. Hôm sau tỉnh mỉnh, tôi gọi người
chị bà con, tâm sự:
- Chị Hà ơi, mấy hôm rày em buồn quá không tâm
sự với ai. Vì chung quanh đây toàn là bên chồng em không hà. Tội nghiệp ba má
chồng em cao tuổi hơn má em mà hàng ngày phải giữ một bầy vừa cháu nội vừa cháu
ngoại bảy đứa, (trong đó có hai đứa con em). Ông bà không đòi hỏi lấy một cắc
giữ các cháu của mình. Cuối tuần bà còn nấu món ăn ngon kêu lại ăn, đứa nào
không đến được có lý do ômg còn lái xe đem tới nhà cho. Đứa nào không đến mà
không có lý do ổng bả còn hờn giận nữa kìa. Thiệt tình, còn má em là vậy đó, từ
nhỏ đến bây giờ bà chỉ biết có bà, ngoài ra không cần biết đến người khác…
Nhưng em tự trách đã biết má mình như vậy rồi thì còn nói làm chi để bả giận,
mai kia má có chuyện gì em sẽ ân hận suốt đời… Hôm nay sáng gọi nói cho chị
nghe, vì bên nầy ngoài mấy anh của em ra thì có chị là người ruột thịt, hiểu và
thương em nên sẽ thông cảm và cho em biết thêm ý kiến của chị…
Đó
là điện thoại của Hoàng Mai từ tiểu bang xa lơ xa lắc, mới sáng sớm gọi qua tâm
sự với người chị em cô cậu ruột đó là Cẩm Hà. Thở dài ngao ngán cho bà mợ Hai,
vốn là chị dâu con nhà bác của má Cẩm Hà. Hoàng Mai là con nhà cậu thứ hai, má
nàng là con gái thứ ba trong gia đình bên họ ngoại của Cẩm Hà và là nhà nội của
Hoàng Mai (có nghĩa là hai nàng Hà và Mai là chị em cô cậu họ với nhau).
Nhưng Hoàng Mai nhỏ hơn Cẩm Hà gần mười tuổi nên thay vì gọi Cẩm Hà bằng em
theo vai vế gia đình, nhưng Hoàng Mai lúc nào cũng gọi Cẩm Hà bằng chị và xưng
em ngọt sớt... Nghe chị Hoàng Mai kể lễ về má chị, tức là mợ Hai của Cẩm Hà mà
nao lòng. Người đời thường bảo: «Mợ dâu nấu
đầu trâu lủng trả» nhưng đem ra so sánh với mợ Hai mình thì không đúng cho
lắm... Bởi mợ chưa làm điều gì sái quấy để ông bà ngoại, và họ hàng nhà chồng
buồn lòng. Má của Cẩm Hà thường bảo khi trong nhà có chuyện gì nhắc đến cậu mợ
Hai (ba, má của Hoàng Mai).
Má
tôi thở dài và mỉm cười, bảo:
- Nói đến mợ Hai bây là có chuyện để nói dài
dài, vui có buồn có. Hồi lúc cậu Hai về xin ông bà ngoại cưới mợ, từ cha mẹ và
các em không ai vui vẻ bằng lòng cả. Nhưng vì thương cậu Hai nên ông bà ngoại
nhắm mắt cưới đại. Biết rằng chỉ con nhà giàu gia đình đàng hoàng, và đẹp lắm...
Chị ấy có dáng người mảnh mai cao sang quý phái, nước da trắng, môi má hồng tự
nhiên khi ra nắng một lúc. Mắt to đen láy, tóc mây mịn và nặng bồng bềnh xoã
trên bờ vai thon... Mợ Hai thuở thanh xuân đẹp hơn cả những bức tranh vẽ của
các phụ nữ đẹp nổi tiếng của báo Đông Phương. Cậu Hai nói cũng đúng phần nào,
vì gia đình giàu và quá cưng chiều con, nên chị không biết gì cả từ trong nhà
cũng như ngoài xã hội. Mà bà ngoại đã nói. «Cưới con đó về anh Hai bây phải
đóng cái tủ kiếng để chưng, và ngắm nhìn... » Tuy có chút học vấn, hiền
lành gia đình giàu... nhưng phụ nữ mà nồi cơm không biết nấu, cái chén không biết
rửa, cái áo không biết giặt thì tệ quá!
Dừng
lại uống hớp nước, mắt nhìn trời xa vắng như cố nhớ lại chuyện xưa lơ xưa lắc,
má tôi tiếp:
- Gia đình ông bà ngoại của Hoàng Mai biết điều
lắm. Biết con mình dở lấy được người chồng tốt nên họ mua cho nhà cửa khang
trang khi ảnh đổi vô Sài Gòn. Họ còn mướn cho người làm để làm việc thay con
gái cơm nước và làm việc nhà, giữ em. Trong năm có những ngày lễ Tết, hoặc cúng
giỗ lớn phải về bên chồng, thì theo chỉ lúc nào cũng có hai người làm, người nấu
nướng trong gia đình hàng ngày thì phụ với gia đình chồng xắt, xào, nấu nướng,
còn đứa nhỏ giữ em và phụ rửa chén... Bà già chồng với các cô em chồng lúc đầu
cũng thấy chướng mắt và bực bội lắm... nhưng dần dần rồi quen đi, bởi cậu Hai tụi
bây thương yêu bả quá chừng đi thôi... Cha mẹ nào cũng vậy hễ thương con thì
thương dâu, thương rể... vả lại bả sanh cho nhà chồng liên tục mấy đứa cháu nội
trai có gái có... đứa nào cũng ngộ, và ngoan đó là bửu bối của cha mẹ chồng, và
họ nhà chồng thương yêu cháu hết biết...
Má
tôi bật cười thành tiếng nhớ đến mợ Hai tôi đi bắt ghen:
- Thỉnh thoàng cậu Hai bây đi công tác ở tỉnh
không cho vợ theo. Bả sanh nghi câu Hai có mèo... nên lần mò cùng đứa ở đi bắt
ghen. Hôm đó ba bây họp chung với cậu Hai nên mời ảnh về nhà ăn cơm, vì có ông
bà ngoại qua ở nhà mình mấy ngày để dự lễ cưới con người bạn. Nhà đang sửa soạn
ăn cơm, thì con nhỏ ở của mợ sầm sầm ngoài cửa đi vào, tay cầm thanh tre dài,
tay kia cầm cây chổi...
Cả
nhà chưng hửng, cậu Hai ngạc nhiên lớn tiếng hỏi:
- Bây làm gì ở đây, còn mợ Hai đâu, bộ có chuyện
gì sao?
Con
nhỏ ở như tỉnh, vội bụm mặt khóc ồ rồi bỏ chạy ra ngoài... Cả nhà không ai bảo
ai cùng đi nhanh theo con nhỏ ở xem chuyện gì đã xảy ra?
Thì
ra mợ Hai bây đang ngồi trốn trên xe vì sợ, vì mắc cỡ... không dám cùng đi với
con nhỏ ở vào bắt ghen chồng! Tôi nghiệp cậu Hai bây cười như mếu với cha mẹ và
gia đình em, cháu... còn mợ thì vừa e thẹn, vừa khóc lớn, vừa đánh thùm thùm
vào vai cậu Hai... Ông ngoại lắc đầu thở ra! Để đỡ cho con dâu yêu quý của
mình, bà ngoại rầy cậu ăn ở thế nào mà để cho vợ sanh lòng nghi ngờ rồi ghen...
Chị
Hai của mẹ không thích và không chịu làm việc nhà, hoặc nấu ăn... đó là việc hết
sức bình thường của phụ nữ... Lúc cậu Hai đi học cải tạo anh em Hoàng Mai còn
đi học, nhà cửa công chức, quân nhân... miền Nam đều lâm vào cảnh túng thiếu...
Tội nghiệp anh chị nó nghỉ học ra bán chợ trời, con Hoàng Mai mới mười ba, mười
bốn tuổi... mà làm hết những việc trong nhà kể cả nấu ăn cho cả gia đình... Còn
chỉ thì cái chén cũng không rữa giúp con... ở không đi tới đi lui trong nhà chắc
lưỡi hít hà, than không tiền, than mệt... Bả là thế đó không chịu làm lụng mà
muốn ăn ngon mặc đẹp, nếp sống xa hoa trên gấm lụa... Hễ cha mẹ, chồng con...
ai có tiền cho thì bả tiêu xài thơm tay lắm, không cần biết, không bao giờ nghĩ
suy đến sự cự nhọc của kẻ làm ra tiền cho bả tiêu dùng. Chắc là bả luôn nghĩ đó
là bổn phận và trách nhiệm phải cung phụng cho bả... Nói tóm lại má của anh em
Hoàng Mai, mợ Hai bây không thức thời... Bả thiệt đúng là một phụ nữ có phước,
có cách sống của người thượng đẳng!
Bà
chị dâu của má dở đủ mọi thứ nhưng bả được cái là thật tình và hiền lắm... Cả đời
bả chỉ biết nhỏng nhẻo với chồng, ăn diện... thuở cậu Hai còn tại nhiệm, cứ mỗi
hai tuần bả đi tiệm gội đầu làm tóc, và sơn phết móng tay móng chân... Ở nhà rầy
la các con thôi, chớ người làm bả cũng chưa xéo xắt hay nặng lời với họ... Bả tốt
bụng hay giúp đỡ người lỡ chân, trái bước túng cùng... Có lẽ nhờ vậy mà trước
tình thế đất nước ngã nghiêng tang thương sau cuộc đổi đời... ở vào thời đại
nào, hoàn cảnh như vậy... mà má thấy bả cũng được chồng có nghĩa tình, con có
hiếu, cha mẹ anh chị thương, họ hàng không nở ghét... Bả thiệt đúng là một người «Thượng đẳng»...
- Còn đó không chị Cẩm Hà?
Giọng sũng buồn của Hoàng Mai bên kia đầu
dây... khiến tôi quay về thực tế, mau mắn trả lời người chị em cô cậu luôn gọi
tôi bằng chị nầy.
Tôi nhẹ giọng, cười hí hí:
-
Tôi đây, đừng buồn nữa Hoàng Mai. Chị nói với mợ như đã kể trên, nếu ai
không biết thì nghĩ là có vẻ nặng lời, nhưng biết về mợ thì chị nói vậy cũng chẳng
oan ức chút nào, thật đúng quá chớ có gì sai quấy với mợ chút nào đâu mà lo...
Tại vì khi còn ấu thơ mợ luôn được «nâng
như nâng trứng/ Hứng như hứng hoa» quen rồi. Tôi nghĩ, giờ đây nghe chị
nói... biết đâu mợ Hai thức tỉnh, suy nghĩ lại lời con gái mình mà sửa đổi tánh
tình... Còn nếu mợ không thay đổi thì thôi cũng chẳng sao, má tui bảo năm nay mợ
cũng đã bảy mươi, tuổi tác lớn cũng dễ thay đổi tâm tính lắm chị ơi. Thôi thì kẻ
làm con, mấy anh chị hãy chiều mợ đi... Má tui còn bảo mợ Hai bây từ hồi nào đến
giờ, bả sống đúng cung cách của người «Thượng
Đẳng».
Bên kia đầu dây điện thoại Hoàng Mai bật
cười thành tiếng:
-
Chị nói nói gì, cô Ba (má của Cầm Hà) bảo má em là người «thượng đẳng» hả? Vậy là chúng em đã có
bà «Má Thượng Đẳng», thế mà hồi nào đến
giờ không biết chớ...
Mợ Hai tôi bây giờ chân tay cũng
đã yếu, chớ không còn khỏe mạnh như xưa nữa. Mợ cũng không chịu trở qua Mỹ với
con, mặc dù con trai lớn của mợ đã về rước mẹ mấy lần. Ở Việt Nam mợ có con
cháu... ra đường ai cũng nói tiếng Việt, từ ăn ở nhứt nhứt cái gì cũng quen...
và còn có hai người giúp việc mà mợ nhứt hô, thì được bá ứng ngay! Mợ cùng người
hầu đi chu du thiên hạ nơi nào có phong cảnh đẹp, viếng thăm những di tích lịch
sử nổi tiếng... Từ vịnh Hạ Long cho đến
mũi Cà Mau, Phú quốc, Hà Tiên... Và còn qua cả xứ người du lịch, như: Trung quốc,
Miên, Thái lan, Đài Loan, Singabo... Đi ra nước ngoài mợ còn đi trực thăng để
nhìn biển, hồ núi non hùng vỉ đẹp, tiền vé phải trả cho mợ và con nhỏ theo bả mỗi
lần lên xuống trực thăng dạo chơi cũng mất mấy trăm đola một người chớ không tiền
bác Hồ đâu ! Đó cũng nhờ có các con ở Mỹ chu cấp tiền bạc dồi dào cho mợ.
Thiệt hết ý với mợ Hai tôi, mợ có cuộc sống hiện tại trong nước chỉ thua những
bà có chồng tai to mặt bự, các đại gia đỏ của thời đại... chớ không thua kém bất
cứ một ai ở hoàn cảnh như mợ...
Kể
từ đó trong gia đình chị em chúng tôi (cháu chồng của mợ) nói chuyện với
nhau... luôn gọi mợ dâu mình là «Mợ Hai
Thượng Đẳng». Ba má, dì dượng chúng tôi luôn gọi mợ là «Chị Hai Thượng Đẳng», các con mợ gọi mợ Hai tôi là bà «Má Thượng Đẳng». Hai chữ «thượng đẳng» có nhiều nghĩa, tùy theo
trường hợp và hoàn cảnh áp dụng của nó. Thường khi áp dụng trong sự cười ngạo,
châm biếm, chế diễu... cho những đối tượng hay hách dịch, hay khinh thường người,
và tự coi mình cao sang hơn những người khác... Nhưng hai chữ «thượng đẳng» áp dụng cho mợ Hai chúng
tôi ý nghĩa của nó có khác biệt. Như ba má và dì dượng chúng tôi gọi mợ là «Chị Hai Thương Đẳng» các cháu con của
các em chồng gọi «Mợ Hai Thượng Đẳng»,
các con của mợ gọi là «Má Thượng Đẳng»....
Với đại gia đình chúng tôi hai chữ «thượng
đẳng» đó, có tính cách trong thân thương, quý mến... chớ không phải xem thường,
chê bai hay ghét bỏ bà «Má Thương Đẳng»
của anh em chị Hoàng Mai.
Mùa Thu California
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email: dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment