Đuổi Gà Cho Vợ
Tràm Cà Mau
Ông
cụ Tom ngồi ho sù sụ. Mái đầu ông bạc trắng, tóc lưa thưa, hai vai xuội lơ, và
cái mông teo rí trong vùng quần rộng rãi. Ông Tư nhìn cụ Tom mà thương xót nói:
“Về
hưu đi ông Tom ơi. Nghỉ ngơi cho khỏe, ông nhiều tiền dành dụm quá rồi. Tội chi
mà đi làm mãi cho mệt?”
Ông
cụ Tom cười, nụ cười hiền, với cái miệng già, da kéo nhăn nhúm, nói mà hơi
trong cổ ra nhiều hơn âm thanh:
“Tội
chi mà về hưu cho mệt. Về hưu, vợ sai làm việc nầy, việc kia, tối tăm mặt mũi,
mệt lắm. Đi làm khỏe hơn ở nhà nhiều.”
“Vợ
sai làm việc? Thì đừng làm. Bà ấy có đánh đập, có giết chết đâu mà sợ?”
“Nói
thì dễ lắm. Không làm thì còn mệt hơn nữa. Bà ấy lải nhải cho mà nghe, nhức tai
lắm.”
“Người
hùng đệ nhị thế chiến mà cũng thế cơ à?”
Ông
cụ Tom cười hóm hỉnh trả lời:
“Hùng
ở đâu, chứ về nhà thì hùng chi nổi.”
Tuổi cao, mà cụ còn sáng suốt, trí nhớ tinh anh. Cụ cần mẫn, chăm chỉ như con
kiến. Làm việc không nghỉ ngơi. Bao nhiêu chương trình mới của máy vi tính, cụ
biết rành rẽ, và thường chỉ dẫn cho bạn đồng sự trẻ hơn.
Một lần bị gãy tay, cụ mang cái băng vải quàng qua cổ, treo cánh tay trái băng
bột lên trước ngực, tay phải lái xe đi làm. Bạn đồng sở hốt hoảng, giục cụ về
nhà nghỉ ngơi. Cụ cười nói:
“Đi làm khỏe hơn các ông ạ.”
Nếu chưa gặp cụ bà, thì người ta tưởng đâu bà là thứ chằn lửa, rồng ăn trăn quấn,
đến nỗi ông gãy tay, mà không ưa ở nhà nghỉ ngơi, thích đi làm hơn. Mấy lần đi
ăn chung, ông Tư thấy bà cụ cũng hiền khô, nói chuyện vui vẻ. Bà vốn gốc quân đội,
về hưu khi ở cấp bậc đại úy.
Ông Tư thường kể cho cụ Tom nghe rằng, về nhà ông không phải làm gì cả. Mọi sự
đã có vợ lo lắng, chăm sóc, và chu toàn. Cụ Tom nheo mắt hỏi:
“Thế thì mùa đông, khi đi làm về, vợ anh có cởi giày cho anh, rồi áp đôi bàn
chân lạnh vào da bụng ấm của bà, như “bọn dã man” đó hay không?”
Ông cụ Tom nguyên là phi công chiến đấu, máy bay bị bắn rơi, địch bắt làm tù
binh, lính Nhật hành hạ quá khủng khiếp, nên tránh không muốn nhắc đến danh từ
“Nhật Bản”, mà dùng nhóm từ “bọn dã man” để ám chỉ. Tôi đáp:
“Đàn bà Việt Nam chúng tôi không làm vậy bao giờ. Nhưng rất thương chồng, chìu
chồng, việc gì họ làm được, thì dành lấy mà làm, không biết tị nạnh, không biết
phân chia việc nầy anh làm, việc kia tôi làm.”
“Bất công. Thế thì trong gia đình, đàn ông các anh làm việc gì?”
“Làm những việc mà đàn bà không làm được, và không ưa làm.”
“Cho ví dụ đi!”
Ông Tư cười toét miệng, trả lời:
“Cưng vợ, đánh đuổi kẻ cướp, đánh quần vợt, xem quyền Anh, xem đá banh, chơi cờ
tướng…”
“Thế thì cây cối trong vườn ai cắt? Ai dọn rác, quét lá, ai trồng cây hoa nầy,
dời gốc hoa kia theo lệnh của bà?”
“Cây thì có người chuyên môn cắt. Hoa thì ở đâu, cho nó yên vị nơi đó. Bà có
sai bảo dời qua bên nầy, trồng lại bên kia, thì mình cứ lờ tít đi, hoặc lần
khân cho qua chuyện thì thôi.”
Ông Jack ngồi ở phòng kế cận, nghe lóm chuyện của ông Tom và ông Tư, vui tai chạy
qua góp lời. Ông Jack hỏi:
“Nầy anh Tư, nếu anh có bà chị vợ, hay em vợ chưa lập gia đình, thì giới thiệu
cho tôi đi, tôi cũng mong có một người vợ như vợ anh, thì tôi cũng hy sinh cái
đời độc thân nầy đi cho rồi.”
Ông Tư cười nói lớn, như không phải đang ngồi trong sở:
“Thôi ông Jack ơi. Ông đã “tử thủ” được vị thế độc thân trong sáu mươi năm, sướng
quá trời, đừng dại dột đi vào con đường mê muội muôn đời của thế gian.”
“Con đường mê muội ?”
“Ông biết quá rồi, còn giả vờ. Ở xứ tôi có câu nói rằng: “Cá trong lờ đỏ hoe
con mắt, cá ngoài lờ quay quắt muốn vô.” Nầy, tôi hỏi ông, bây giờ mà về hưu,
thì ông còn được lãnh tiền nhiều hơn đi làm, vậy đi làm để cho khổ tấm thân ư?
Ông không muốn nghỉ ngơi sau bốn mươi năm làm việc, bốn mươi năm dài vì cơm áo
mà để cho cái thân bị buộc ràng?”
Ông Jack thở dài, tiếng thở dài nhè nhẹ:
“Ở nhà buồn lắm, không biết làm gì cho hết ngày giờ. Đi chơi xa, du lịch một
mình cũng buồn, lẻ loi. Có người xúi tôi rủ bạn gái đi chơi xa, mà thấy bị ràng
buộc, phải theo ý người khác mất cả tự do, mất vui. Mình độc thân lâu rồi,
không quen làm đuôi mấy bà đi chờn vờn trong các cửa hàng mà không có mục tiêu
gì rõ ràng cả. Muốn đến nhà bạn bè chơi, thì ai rảnh mà chơi với mình? Đọc sách
thì già, mắt kém, đọc lâu đau mắt. Xem phim, nghe nhạc hoài cũng chán. Đi làm
là vui nhất, mừng nhất là chiều thứ sáu, biết được hôm sau có hai ngày nghỉ.
Cũng lạ, một tuần có bảy ngày nghỉ không vui bằng một tuần chỉ có hai ngày nghỉ
thôi.”
Ông Jack ngừng lại một chốc, rồi nói tiếp:
“Anh thấy ông Moe không? Về hưu chưa được nửa năm, ở nhà bị vợ gây gổ suốt
ngày, chán quá, xin trở lại làm việc. Mấy ông bà già không có việc chi làm, suốt
ngày dòm mặt nhau, dễ nổi sùng, dễ gây gổ nhau. Một ngày kia, một trong hai người
lăn quay ra chết, thì người kia tiếc nuối và ân hận là sao ngày còn sống cứ cắng
đắng nhau vì những chuyện không đâu.”
Ông Tư nói như gằn giọng:
“Các ông có thấy chết gục trên bàn làm việc như ông Henry, chết trong thang máy
như ông Paul, thì có uổng không? Chưa kịp về hưu thì đã chết, uổng quá. Về hưu
là cái phần thưởng quý báu nhất đời sau mấy chục năm làm việc, khước từ cái ân
huệ đó, thì có uổng không?”
Rồi
cũng đến ngày vui của ông Tư. Ông được nghỉ hưu. Thời gian ngắn ngủi còn lại,
ông bùi ngùi tiếc bạn bè, tiếc cái văn phòng nơi ông đã ngồi bao nhiêu năm.
Nhưng nỗi vui mừng biết từ nay dứt bỏ mọi công việc hàng ngày, làm ông sung sướng
hơn.
Ông Tư về hưu, nhưng bà còn nhỏ tuổi hơn, chưa đủ điều kiện hưu trí. Bà năn nỉ
ông, chờ thêm vài năm nữa, cùng về hưu một lần cho vui. Ông không thể chờ, nóng
ruột quá rồi. Từ ngày mới tốt nghiệp đại học, vừa đúng hai mươi ba tuổi, đi làm
ngày đầu tiên, ông về nhà nói với mẹ: “Biết bao giờ con mới được về hưu hở mẹ?”
Mẹ ông cười, bảo ông đừng nói chuyện tào lao. Thế mà cũng vèo một cái, đã đến
tuổi về hưu thật. Hai đứa con ông, đã vỗ cánh bay xa theo gia đình chúng, theo
công việc làm ăn. Ông không thể dài cổ ra, chờ đợi để cùng bà về hưu một lần,
ông mạnh dạn nói với bà rằng:
“Từ nay anh hoán vị cho em, anh ở nhà làm việc nội trợ. Đi chợ, nấu ăn, giặt rửa,
chăm sóc nhà cửa, tưới bón vườn tược. Em chỉ đi làm, và chiều về ngồi gác chân
xem báo, nghe tin tức trên đài truyền hình. Anh dọn cơm, em ăn xong, anh sẽ lo
rửa bát, lau bếp. Em đọc sách, xem thể thao, và đi ngủ. Mọi việc khác anh sẽ lo
làm, cho đến ngày em về hưu. Bây giờ em đóng vai chồng, và anh đóng vai vợ.
Mình chơi trò hoán vị vài năm xem sao."
Bà biết tính ông ham vui, thích hài hước, cười gật đầu bằng lòng. Buổi sáng đầu
tiên sau khi nghỉ hưu, ông dậy sớm, nấu cho bà một tô cháo gạo tẻ, pha một ly
cà phê, một ly nước cam trộn mật, nướng thêm hai lát bánh mì dẹp và cắt mấy
khoanh xúc xích. Khi bà rửa mặt xong, ông ỏn ẻn giả giọng đàn bà nói:
“Mời anh ra ăn điểm tâm kẻo nguội, em đã dọn sẵn rồi.”
Bà háy ông một cái, và mỉm cười, giả giọng đàn ông ồm ồm nói:
“Bà mầy đảm đang quá. Tôi tốt phước có người vợ giỏi lo toan việc nhà.”
Ông bà cùng ăn sáng. Ăn xong ông dọn bàn, bưng chén dĩa vào bếp. Chạy vội ra,
chìa má cho bà hôn trước khi bà leo lên xe hơi lái đi làm. Hai ông bà nhìn nhau
và cười hinh hích.
Ông Tư vào giường lại, nằm nghỉ một lúc, rồi vùng dậy, đi một vòng quanh nhà,
nhìn lên, nhìn xuống, từ trần nhà đến những góc nhà, tay cầm viết ghi một danh
sách việc cần làm trong ngày hôm nay. Ghi được mười bảy mục, việc đâu mà lắm thế
nhỉ, ông tự hỏi. Rồi ông ghi thứ tự ưu tiên, việc nào cần làm trước, việc nào
làm sau.
Trước tiên, ông cầm chổi quơ ngang, quơ dọc cái phòng khách có sàn lát ván đánh
dầu bóng. Bụi bay lên mù tung. Ông đùa bụi bặm rác rến giấu dưới gầm ghế dựa,
dưới gầm bàn, và các góc khuất lấp. Thế là xong việc quét nhà. Ông quay qua đám
bàn ghế, lấy chổi lông gà phang qua phang lại như múa gươm, lâu lâu ông dừng lại,
chân trước, chân sau, người nghiêng nghiêng như ở vị thế đang đánh kiếm, rồi vụng
về dùng chổi lông gà đi vài đường gươm, mà ông đã quên luyện tập từ mấy chục
năm trước. Bụi bay lăn tăn trong không khí, làm ông ho sặc sụa.
Chổi của ông đánh rơi cái bình hoa, nước đổ ra sàn lênh láng. Bình hoa chỉ bị một
vết sứt mẻ nhỏ thôi. Ông cắm lại hoa, và lấy lá che khuất chỗ sứt, che rồi, có
ai thấy đâu mà sợ. Lại thêm một mục chùi, hút nước sàn nhà. Sau khi chùi vắt hết
nước loang trên sàn, thì những nơi khác, cái vết dép ông in rõ mồn một với dấu
dơ bẩn từ trong ra ngoài, từ ngoài vô trong. Thế là ông phải lau lại toàn diện
căn phòng, sau khi lau nước, thì phải lau khô. Tìm mãi không có khăn, ông lôi một
mớ áo lót cũ ra dùng. Lau xong, thì mồ hôi đã toát, ướt áo, ướt quần. Nhìn lại,
còn những mười lăm mục cần làm, mà dường như đã gần trưa rồi. Thế là ông lại
thay đổi ưu tiên các việc cần làm. Phải đi chợ trước.
Ông định ghi xuống danh sách những gì cần mua, nhưng nhớ lại, có lần nghe các
bà nói rằng, đi chợ thấy món nào ngon, rẻ thì mua, không định trước được. Vợ
ông đi chợ có bao giờ ghi trước đâu? Thế là ông lái xe vèo ra chợ. Ông định đi
một vòng xem có gì ngon, rẻ, và sau khi có cái nhìn tổng quát về hàng hóa trong
chợ hôm nay, ông sẽ quyết định rõ ràng hơn. Đi đã ba vòng, mà trong đầu ông
chưa nảy ra được quyết định nào. Vì thật sự, ông không biết món nào ngon, món
nào dở, và giá cả đắt, rẻ ra sao cả.
Bí quá, ông cứ mua đại hai cân thịt bò, hai cân thịt heo, hai con gà, hai cân
tôm, ba cân cá, và hai con cua to. Nếu có bà nội trợ nào nhìn thấy các món ông
mua, thì tưởng đâu ông định nấu cho mười mấy miệng ăn, chứ không phải nấu riêng
cho hai ông bà mà thôi. Ông cho rằng, cứ bò thì xào, heo kho, gà nướng, tôm nấu
canh, cá hấp, cua thì rang muối. Dễ ợt.
Về
nhà, ông thay áo quần, mang tạp dề, đội cái nón đầu bếp trắng cao, cho ra vẻ
trang trọng. Ông quyết định nấu canh tôm trước. Nhìn cái gói tôm còn vỏ, ông
không biết làm sao mà bóc cho tiện. Thôi thì cứ kiên nhẫn cắt đầu, cắt đuôi, để
lại phần thân mà nấu canh. Cắt từng con lâu quá, ông chập ba bốn con làm một mà
chém đầu, chém đuôi, chém hăng quá, làm đứt tay, chảy máu. Ông nghĩ, chắc mấy
bà nội trợ, có cách nào đó bóc tôm cho mau, chứ bóc từng con, thì biết đời nào
mới xong. Hai cân tôm, ông cắt xong thì còn hơn một.
Bỏ tôm vào nồi để nấu canh, ông lúng túng, không biết phải nêm bằng xì dầu tàu,
hay xì dầu tây, hay nước mắm, hay là muối đây. Cả bốn thứ đều là chất mặn cả.
Không lẽ ba cái chuyện nhỏ nhặt lẻ tẻ nầy, mà phải kêu điện thoại hỏi các bà? Xấu
hổ lắm. Lấy cái trí thông thường ra mà suy luận, ông cứ bỏ một ít muối, một ít
nước mắm, một ít xì dầu tàu, một ít xì dầu tây. Thế nầy thì không trật đâu được.
Lửa đã cháy bừng bừng, ông hốt hoảng, tự hỏi nấu canh tôm với gì đây? Không lẽ
nấu canh tôm suông.
Ông mở tủ lạnh, lục lạo, may quá, có trái bầu tươi. Ông vội vã rửa, và lấy dao
gọt vỏ. Gọt xong thì trái bầu thành ốm tong teo, hầu như chỉ còn lại phần ruột,
mà phần cơm của trái bầu đã dính gần hết vào đống vỏ. Ông cắt thành từng khoanh
nhỏ, bỏ vào nồi. Cái nồi đầy vun, và sau một hồi sôi sùng sục, thì ông nhận ra
món đang nấu không phải là canh, mà là món xào. Canh thì phải có nhiều nước chứ,
đâu phải là sền sệt, toàn cả tôm với bầu. Ông tự an ủi rằng, định nấu canh, mà
thành ra món xào, thì cũng chẳng sao. Khi nếm một miếng, thì ông nhăn mặt. Vị
giác cũng như khứu giác của ông chưa bao giờ mếm được cái mùi vị lạ lùng như thế
nầy, mùi của xì dầu Tây, Tàu và nước mắm trộn lẫn nhau hăng hăng, không dễ chịu
chút nào.
Ông thì thầm tự phán: “Thất bại lớn”. Đổ món “canh xào” ra dĩa. Mới một món, mà
đã hai dĩa đầy, nếu nấu hết thịt, cá nầy thì hai vợ chồng e phải ăn cả tuần
cũng chưa hết. Ông cắt thịt bò để xào, thịt bùng nhùng, cứa hoài không đứt,
không cắt mỏng được. Ông Tư thử đến bốn con dao khác nhau, mà vẫn rất khó khăn,
cắt khó khăn. Đang lúng túng, ông nhìn thấy có cái kéo răng cưa, ông dùng kéo cắt
thịt thành từng miếng khối vuông. Mau lẹ, nhẹ nhàng, không có bùng nhùng chạy tới
chạy lui. Đã có chút kinh nghiệm khi nấu canh tôm, lần nầy, ông chỉ dùng một phần
tư thịt, cho vào nồi, đổ thêm nước, và chỉ dùng muối, không nước mắm, không xì
dầu.
Ông tưởng nấu càng lâu, thì thịt càng mềm, cứ năm ba phút, gắp một miếng nếm thử,
mà ông nhận ra, càng nấu lâu, thì thịt càng dai. Rồi ông không nếm nữa, vì nếu
cứ mếm mãi, thì e no bụng mất. Nồi thịt xào thành lõng bõng, ông chợt nghĩ, tại
sao không đổ thêm nhiều nước, cho nó thành canh, để thay vào món canh tôm mà
ông đã thất bại. Để canh ngon, ông cho thêm hai cục xúp viên, và khi nếm canh,
thì ông nhăn mặt vì mặn chát. Lại thất bại thêm một lần nữa. Đồng hồ đã chỉ mười
hai giờ trưa, ông Tư xới cơm ra ăn với hai món vừa nấu xong. Chưa bao giờ ông
có một bữa ăn dở khủng khiếp như hôm nay. Cố gắng hết sức, mặt mày nhăn nhó, mới
thanh toán được hai chén cơm. Ông lắc đầu, không thể cho bà vợ ăn những món ăn
khủng khiếp như thế nầy được. Ông ra vườn, đào lỗ, đổ cả món xào lẫn canh xuống,
vùi đất lại. Phải chôn mau mau, sợ vợ về, biết được thì mất mặt lắm.
Ông trở vào, hấp lại hai con cua, và nấu một nồi nước luộc thịt heo. Thế nầy
thì không thể nào hỏng được. Luộc thịt heo, thì phải thành công chắc bắp. Nhưng
ông lại lầm, thịt heo ông luộc quá lửa, dai nhách, khô khốc và cứng xải. Thôi
thì cũng xem như tạm được, không đòi hỏi gì hơn.
Trời chiều đã xế bóng, mà ông mới làm được một phần ba công việc ghi trong danh
sách. Thì ra, công việc nhà cũng không phải dễ dàng, mau chóng như ông tưởng.
Cũng túi bụi đi chứ, mà cũng chưa đâu vào đâu cả.
Ông Tư chạy vội vào phòng tắm, lấy áo quần mặc ở nhà, máng sẵn lên cho bà, lấy
khăn tắm, thay cục xà bông mới, và để sẵn chai thuốc gội đầu bên cạnh bồn tắm.
Tiếng xe bà đi vào sân nổ rền. Ông chạy ra đón bà, đưa hai tay ra, ôm bà và ỏn ẻn
giả giọng đàn bà nói:
“Anh của em đi làm về. Anh có mệt không? Tắm rửa sạch sẽ, ra ngồi xem tin tức
buổi chiều, em làm cơm xong là ăn cho nóng sốt.”
Trong khi bà thay áo quần, thì ông đã mở vòi, pha nước ấm đầy bồn cho bà ngâm
mình tắm. Khi bà Tư vào phòng tắm, thấy nước ấm đã đầy bồn, khăn tắm áo quần đã
máng sẵn, bà cười toe toét, và mở cửa chạy ra háy ông một cái dài. Thấy ông
đang lom khom cắt thịt heo thành từng lát mỏng. Bà quay trở lại phòng tắm mà
không nói gì. Tắm xong, bà xuống bếp để phụ, ông đuổi bà đi, nhái đúng cái giọng
xưa kia bà thường hay nói:
“Lên phòng khách mà nghe tin trong ngày, xem thể thao, đừng làm rộn, để người
ta nấu ăn. Chừng mười lăm phút nữa là có cơm đó.”
Khi ông mời bà vào bàn, thì trên bàn đã dọn sẵn ba món: Một dĩa rau sống, một
dĩa thịt heo luộc đầy vun, thịt thái lát dày cộm, hai con cua lớn. Bà hỏi:
“Chỉ có món mặn và rau. Không có canh, không có xào sao?”
“Hôm nay ăn tạm các món dã chiến. Ngày mai có đủ ba món, canh, xào, mặn. Thường
người ta nấu canh, muốn ngon, thì bỏ thêm nước mắm hay xì dầu?”
Bà cười hăng hắc:
“Anh hỏi thật hay đùa đấy? Ai mà cho xì dầu vào canh bao giờ. Canh thì phải cho
nước mắm thật ngon vào. Nghe đâu ở miền Trung, có nơi không cho nước mắm vào
canh, vì sợ có vị chua. Họ cho mắm tôm vào canh, và khi nào không đủ lượng mắm
tôm, thì họ kêu là canh “ỏn”. Không biết “ỏn” là cái gì nhỉ? Hay là canh không
vừa ý, nên ỏn ẻn, xấu hổ?”
Ông Tư ghi nhận nước mắm và mắm tôm, để lần sau nấu canh. Ăn hết một con cua,
bà đã no, không đụng đến món thịt heo luộc lạt nhách, xải và cứng ngắt. Ông Tư
cũng mừng. Ăn xong, ông đuổi bà đi lên phòng khách, ông dọn dẹp, lau bàn, rửa
chén bát, lau bồn rửa chén, lau sàn nhà, tắt đèn. Ông ra ghế bành ngồi với bà
và nói:
“Ừ, việc nội trợ cũng lu bù lắm chứ? Lâu nay anh đâu biết công khó của em. Em
không cho anh phụ việc, cho nên bây giờ làm gì cũng loạng quạng. Theo anh nghĩ,
các bà xưa thường không cho đàn ông con trai xuống bếp, cũng là một chính sách
ngu dân, để dễ trị, để phải phụ thuộc vào các bà mãi. Hình như mình còn mấy xâu
hạt sen hồ Tịnh Tâm Huế của bác Thái cho mấy năm trước chưa dùng .
Ngày mai anh sẽ nấu chè hạt sen cho em ăn. Em có nhớ câu ca dao “Thương chồng nấu
cháo le le. Nấu canh bông bí, nấu chè hột sen” không? Ngày mai, em sẽ có chè hạt
sen, có cháo le-le mà ăn. Anh làm nội trợ, thì nhất định hai đứa mình tình tứ
như trong ca dao.”
Bà Tư cười, hỏi:
“Chim le-le đâu mà anh có? Anh định ra ngoài hồ của thành phố bắt chăng? Ở tù đấy.”
“Làm sao có thì thôi. Em đừng lo.”
Ngày hôm sau, ông Tư chạy ra chợ Tàu, mua sáu con chim cút đã làm sẵn, về chặt mỗi con làm bốn miếng, nấu với cơm nguội, hy vọng thành cháo le-le. Ông rửa sạch bốn xâu hạt sen khô, bỏ vào nồi nấu. Nấu cả hai ba giờ, mà hột sen vẫn còn cứng ngắt bên trong. Nấu cho cạn nồi, ông châm thêm nước. Hơi nước bay mịt mù đầy nhà, đọng lại mờ tất cả cửa kiếng phòng trong, phòng ngoài. Nấu mãi từ sáng đến chiều, mà vẫn còn sượng, cứng, nhai trong miệng nghe rộp rộp, chứ không phải bỏ vào lưỡi là mủn tan ra như ông từng ăn chè do bà nấu. Nấu mãi mà hạt sen không mềm, ông hạ lửa, để đó. Định hôm sau nấu thêm một ngày nữa, ông tin rằng dù cho là gỗ lim, nấu mãi cũng phải mềm huống là hạt sen.
Phần cháo le-le, ông nếm thử, thấy lạt nhách, nước cháo lờ nhờ, không mùi vị gì cả. Giận quá, ông kêu điện thoại đường dài cho một cô em họ từ tiểu bang xa. Hỏi cô làm sao cho nồi cháo ăn được. Nhờ cô chỉ dẫn, anh đổ vào nồi cháo nửa lon xúp gà, mấy muỗng nước mắm, và nếm thử, thấy ngon thật, ăn có mùi vị cháo ngay, chứ không phải ngây ngấy. Ông tự biết, chưa thể nấu ăn được, nấu món nào hư món đó. Phải học bài, cho có căn bản mới nấu, chứ không phải cứ tưởng tượng ra mà làm được. Ông lái xe ra nhà sách, mua một lúc năm cuốn sách dạy nấu ăn của Mỹ, Tàu, Nhật, Việt. Ông quyết tâm học cho rành, rồi mới nấu. Ông đem sách dấu dưới gầm kệ, sợ bà thấy. Để có thức ăn buổi tối, ông vào tiệm Mỹ, mua hai phần ăn đem về.
Chiều hôm đó, ông tắt đèn điện, vặn nhạc cổ điển êm dịu, thắp đèn cầy, trải khăn bàn, đem bộ chén đĩa quý ra, cùng với đũa mun, muỗng nĩa bằng bạc. Trên bàn có hai dĩa thịt bò chiên tảng lớn, thêm rau xà lách, đậu, khoai tây nghiền, bánh mì nướng giòn, và xúp cháo le-le. Bà vợ ông tròn mắt ra ngạc nhiên nói:
“Sang như ăn tiệc tại nhà hàng. Em không ngờ anh giỏi như vậy. Lạ quá nhỉ? Anh nấu được mấy món khó khăn nầy?”
“Ăn đi , đừng hỏi lôi thôi."
“Thịt bò chiên mềm và ngọt. Em cũng không làm được ngon như thế nầy. Anh chiên thịt cách nào vậy?”
Ông cười vui, và nói theo kinh nghiệm của những lần đi ăn tiệm, bị bồi bàn hỏi:
“Thịt bò chiên có ba loại, thật chín, vừa chín, và còn sống. Thật chín thì thịt hơi dai. Vừa chín thì cắt ra thấy còn màu hồng, ăn vừa. Còn sống thì khi cắt, thịt màu đỏ, và còn ứa huyết thanh.
Phải biết chọn ngọn lửa cao hay thấp, thời gian chiên lâu hay mau. Thế thôi, dễ lắm.”
Hôm nay
ông nhất định dành cho bà một ngạc nhiên thích thú. Nấu phở. Ông đã từng thưởng
thức món phở vô cùng đặc biệt của hai ông bạn, ông Hà ở tiểu bang Washington
State, và ông Tôn ở thành phố San Francisco. Phở hai ông nầy nấu cùng một công
thức, một bí quyết, hai ông giấu nghề, nhưng vì thân tình, nên chỉ nói riêng
cho ông Tư nghe mà thôi, còn dặn dò ông Tư đừng tiết lộ bí quyết cho ai nghe.
Nước phở của hai ông nầy nấu trong veo, thanh tao, ngọt dịu, không có bột ngọt
mà vẫn ngon lành. Bí quyết đó là:
"Nấu
phở, không đổ thêm nước, cho thêm một ít xương gà, dùng đường phèn thay bột
ngọt". Ý hai ông nầy nói, khi nấu phở, đổ nước một lần thôi, không châm
thêm nước khi nồi cạn. Nhưng cái bí quyết đọc vắn tắt quá, ông Tư hiểu lầm là
nấu xương bò, mà không đổ nước thêm vào, xương bò tự nhiên sẽ ra nước như khi
nấu bí, nấu bầu. Ông Tư mua cả đống xương bò to tướng, thêm một con gà, một nắm
đường phèn, như bí quyết dạy. Cho tất cả vào cái nồi lớn, cao, bắc lên bếp, cứ
thế mà nấu. Nấu mãi, dở ra thăm dò hoài mà không thấy nước phở đâu cả. Nhưng
ông tin tưởng vào hai ông bạn có tài nấu nướng nầy. Có lẽ nấu chưa đủ lâu đó mà
thôi.
Ông yên
tâm xuống kho sau nhà, tìm vài thứ vật dụng, nhưng chợt thấy cuốn sách về tình
dục mà ông cất giấu, không muốn cho bà biết, ông mở ra say sưa đọc. Rồi ông kéo
ghế xếp ra nằm xem sách, và quên mất nồi phở đang nấu trên nhà. Bỗng ông ngủ
thiếp đi lúc nào không biết. Ông thức giấc khi chuông báo động cháy nhà reo om
sòm. Khói trong bếp ùn ùn bốc ra từ cửa sổ, cửa lớn. Ông Tư phóng vội vào bếp,
tắt lửa, khói đen bốc lên mù mịt từ trong nồi phở, mùi khét rẹt. Ông Tư mở nắp
nồi nhìn vào, thấy cháy đen và có thứ nước bầy nhầy lợn cợn .
Ông lầm
bầm: “Cao hổ cốt, nấu cao chứ không phải nấu phở”. Ông ôm bụng cười một mình,
ông cứ nghĩ là vì ngủ quên, nên cạn nước, chứ không phải nấu sai công thức. Cái
nồi nhôm như muốn chảy mủn ra dưới sức nóng của lò ga. Ông lại ra vườn hì hục
đào lỗ chôn giấu tang tích của thất bại. Chôn luôn cả cái nồi nhôm. Cháy xém
như thế nầy, thì làm sao chùi cho sạch được, không tội chi mà chùi cho mệt. Ông
vội vã xì thuốc xịt khử mùi hôi, xịt đầy nhà. Nhưng không sao trừ hết được. Ông
mở toang tất cả các cửa, vặn quạt điện vận tốc tối đa để đuổi mùi khét rẹt ra
khỏi nhà. Đầu, mặt, tay chân, thịt da ông, áo quần ông đều nặng mùi của lò
thiêu xác bên quê nhà. Ông đi tắm, tắm thật lâu, mà ngửi lên da mà vẫn mãi
không hết hẳn mùi hôi.
Để có
thì giờ đọc sách dạy nấu ăn và nghiên cứu, trong một tuần liên tiếp, ông Tư mua
thức ăn từ các tiệm sang và ngon trong thành phố về dọn cho bà mỗi buổi chiều.
Ngày nào cũng có thắp đèn cầy, uống rượu nho, bữa ăn đầy cả lãng mạn, tình tứ,
hạnh phúc. Ông chăm chỉ nghiên cứu các cuốn sách nấu ăn, gạch xanh gạch đỏ, làm
tóm tắt cách nấu, cách dọn cỗ bàn, trang trí dĩa thức ăn. Cần mẫn, chịu khó như
hồi học thi ngày xưa. Bây giờ ông đem cái óc khoa học thực nghiệm của một
chuyên viên kỹ thuật ra áp dụng cho việc nấu bếp. Món nào ông cũng nấu thử
trước, làm thí nghiệm với liều lượng nhỏ, xem kết quả, ăn thử, ghi chú phân
lượng, ghi chú thành quả, rồi thêm bớt từng thành phần, thêm bớt lửa, thay đổi
thời gian nấu nướng, xem kết quả mới, giống như một nhà hóa học điều chế trong
phòng thí nghiệm, chứ không phải làm việc nội trợ nấu ăn.
Mỗi món
ăn ông dọn ra cho bà, là kết quả của nhiều thử nghiệm, nhiều sách vở gom lại.
Càng ngày bà càng ngạc nhiên về khả năng của ông chồng, mà lâu nay bà xem như
một loại người vụng về, nấu một nồi nước sôi không chín.
Hai năm
liền dành công việc nội trợ của bà vợ, ông Tư trở thành đam mê nghệ thuật nấu
ăn. Bạn bè chê ông Tư ham làm việc tủn mủn của đàn bà. Ông cười và nói rằng, có
người về hưu thích trồng hoa, xới vườn, cho đau lưng, có người thích nặn óc
viết hồi ký để thiên hạ chửi bới, chê bai cho khổ thân, có người ngày ngày chơi
bài đánh bạc, làm giàu các hãng sản xuất thuốc trị bệnh trĩ, mỗi người mỗi sở
thích, không ai đúng, mà cũng chẳng ai sai. Nhưng cái sở thích của ông, làm cho
đời sống sung sướng hơn, hạnh phúc nhiều, được ăn ngon, được khoái lạc.
Trong
vòng hai năm, ông nấu toàn những món ăn béo bổ, thịt thà, làm cho cái mặt bà Tư
càng ngày càng bành ra theo chiều ngang, chiếc cằm thành ba lớp, thân thể mập
mạp, áo quần chật chội, bụng lớn, mông phì, áo quần phải thay đổi hoài. Ông vui
vì thành quả nấu ăn, và vẫn thấy bà đẹp trong cái dáng thịt thà đầy đặn, u nần.
Trong
lần khám sức khỏe định kỳ, kết quả thử nghiệm cho biết bà Tư bị áp huyết cao
gấp rưỡi, liều lượng chất mỡ trong máu gấp đôi con số bình thường. Bác sĩ gầm
gừ hăm dọa rằng, nếu không kiêng cữ, không tập thể dục, thì có thể bị tai biến
mạch máu não, bị đứng tim chết bất thần. Nguy lắm.
Ông Tư
nắm tay bà mà than:
“Chính
anh đầu độc em, chứ không ai cả. Cứ ăn uống các món béo bổ hoài, mà em không
tập thể dục, không hoạt động, thì nguy lắm lắm. Lâu nay, anh vẫn nhớ và thèm
những món ăn dân gian như canh rau muống nấu tôm tươi, rau muống xào tỏi, canh
bầu nấu tôm, canh rau dền, canh mướp đắng dồn thịt, các món xào rau, đậu, mướp
hương, và mắm chưng, tàu hủ kho tương, nhưng sách vở không dạy các thứ nầy. Cho
nên anh nấu toàn các thứ độc địa, không tốt cho cách giữ gìn sức khỏe. Thôi,
anh trả lại nhiệm vụ nội trợ cho em. Anh sẽ đốt hết sách nấu ăn, bôi bỏ các
cuộn băng nhựa dạy nấu ăn của các đầu bếp trứ danh trên thế giới. Các thứ nầy,
cũng độc hại không thua chi cái chủ thuyết chính trị không tưởng trong thế kỷ
hai mươi vừa qua. Giết người như chơi."
Buổi
sáng, sau khi bà Tư nắm lại quyền nội trợ, bà dọn ra hai tô cháo gạo tẻ ăn với
cá bống kho khô. Hai ly trà xanh bốc khói nghi ngút thơm mùi trà đắng. Ông bà
Tư xì xụp húp ăn ngon lành. Ông Tư nói rằng, cao lương mỹ vị cũng không ngon
bằng. Ông rót thêm trà xanh vào ly cho bà, rồi khe khẽ ngâm nga:
“Tạ ơn
còn được sum vầy
Mai sau
thiếu vắng rót đầy tiếc thương”./.
Tràm Cà Mau
No comments:
Post a Comment