Tuesday, July 1, 2025

VỀ CÂU KẾT 2 BÀI THƠ 'THĂM BẠN' VÀ 'ĐỒNG VỌNG' CỦA NHÀ THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC (DẶNG XUÂN XUYẾN)

 VỀ CÂU KẾT 2 BÀI THƠ 'THĂM BẠN' VÀ 'ĐỒNG VỌNG' CỦA NHÀ THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC

*

Khi đọc cảm nhận của tôi về bài thơ "Thăm Bạn" của nhà thơ Đồng Thị Chúc, nhà thơ Khang Minh có chút băn khoăn về câu kết bài thơ: “Phải chi nữ sĩ Đồng Thị Chúc cho thêm hai câu kết nữa thì hay quá Đặng Xuân Xuyến, vì đọc tới câu "Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua" có cảm giác thiêu thiếu cái gì đó, bài thơ chưa thể khép lại ở câu này được! Tiêng tiếc là!”. Tôi lại nghĩ khác anh, câu kết bài thơ như thế là hợp lý, tròn trĩnh mà còn gợi rất nhiều sau khi đã đọc bài thơ. Nếu nhà thơ Đồng Thị Chúc thêm một vài câu thơ nữa sẽ làm bài thơ kém duyên, mất hay.


Chuyện về một câu thơ, thậm chí cả bài thơ có những cảm nhận trái ngược là lẽ thường. Người này bảo hay, người kia bảo bình thường, hoặc người này hiểu thế này, người kia hiểu thế kia cũng là "chuyện thường ở huyện". Thơ mà! Thế nên dân gian mới gắn cho thơ, cho nhà thơ những cặp từ: “thơ thẩn”, “lẩn thẩn”,...

Trở lại chuyện câu kết bài thơ “Thăm Bạn” của nhà thơ Đồng Thị Chúc. 


Bài thơ thật ngắn, chỉ có 6 câu nhưng chứa đựng nhiều nỗi niềm:


THĂM BẠN 


Ghé nhà cửa đóng then cài 

Đầy sân lá rụng thềm ngoài rêu phong

Dạo quanh trong khoảng thinh không

Mắt đưa tìm bóng, nào trông bóng người


Đành lòng quay gót trở lui

Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua.

*.

ĐỒNG THỊ CHÚC


Nhất là câu kết: "Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua" gợi nhiều cảm xúc với tâm trạng hụt hẫng, chán chường xen lẫn chút hờn tủi, cộng thêm chút hoang mang, lo lắng khi nhà thơ chợt nghĩ chuyện không hay của tuổi già có thể đến với bạn mình... khiến người đọc gai gai người, cùng hụt hẫng, thảng thốt theo tâm trạng chới với, "bùi ngùi" của nữ sĩ họ Đồng. 

Một câu kết hợp lý, tròn trĩnh, vừa gợi cảm xúc để người đọc thăng hoa, vừa "đóng lại" để cảm xúc về chuyến "Thăm bạn" không lan man, loãng chuyện... Nếu nhà thơ thêm một vài câu thơ nữa sẽ phá mất bài thơ hay vì bố cục bài thơ đã chặt chẽ, câu kết bài thơ hợp lý và gợi được nhiều cảm xúc như thế, người có tay nghề sẽ không ai làm thế cả.

Hay như bài thơ "Đồng Vọng", một trong số những bài thơ hay của nhà thơ Đồng Thị Chúc, có câu kết lửng cũng thật hay, để lại nhiều ám ảnh với người đọc. 


Bài thơ lấy cảm xúc từ câu chuyện có thật: Một lần trên đường đến cơ quan làm việc, bà "gặp đôi anh chị tuổi trung niên nét mặt khắc khổ, anh mặc bộ quân phục sỹ quan đã cũ, chị mặc cái áo xanh đã bạc màu, đèo nhau trên chiếc xe đap cà tàng", "đang đi thì xe đạp của họ xịt lốp và họ phải xuống xe loay hoay xem xét.". Nhìn họ, bà trào dâng cảm xúc rất lạ, và sau đấy một thời gian, bài thơ "Đồng Vọng" được ra đời:


ĐỒNG VỌNG


Hai người tình

Ngồi bên nhau

Hai mái đầu

Điểm bạc.

Chiếc áo anh đang mang

Vương bụi thời trận mạc

Chị – thân hình khô xác

Nép bên bờ vai anh

Vẫn trong chiếc áo xanh

Bạc qua mùa chờ đợi.


Trăng soi từ vời vợi

Gió về từ xa xăm...

*.

Hà Nội, Tháng 02-1992

ĐỒNG THỊ CHÚC


Cũng theo kể lại của nhà thơ Đồng Thị Chúc thì "đôi anh chị" ấy đã già, đã quá cái tuổi sung sức để thực hiện ước mơ thay đổi số phận. Họ có gì để thay đổi số phận khi họ chỉ có "thân hình khô xác" với mái tóc "điểm bạc" cùng tài sản giá trị nhất cả về vật chất lẫn tinh thần là "chiếc áo xanh" "Bạc qua mùa chờ đợi" giờ đã là ký ức, là kỷ niệm tình yêu một thủa?! Với họ, một bữa cơm ngon, một giấc ngủ đằm sâu hơn khi bớt đi được một chút canh cánh chuyện cơm áo gạo tiền đã là xa xỉ với ước mơ của họ thì nói gì đến ước mơ đổi đời, được giàu sang phú quý viển vông ở tận đẩu đâu. Hai câu kết: "Trăng soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm... " chỉ gợi ký ức xa vời, chả có giá trị với thực tại. Đau nhưng mà thực và cũng vì cái đau ấy mà bài thơ mới nhiều ám ảnh.


Đọc "Đồng Vọng", với hai câu thơ thật hay: "Trăng soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm... ", thể hiện sự tìm tòi và sáng tạo của nhà thơ Đồng Thị Chúc, tôi chợt nhớ đến những câu thơ như những lát cắt trần trụi, đau đáu xót xa của nhà thơ Phạm Đức Mạnh:

"Tháng Tư

những người lính kiệt sức vì đạn bom

thoi thóp sống

lết tìm nhau

nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất

hàn rỉ sét chiến tranh

bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội."


(Tháng Tư Màu Nhớ)

Những câu thơ trần trụi đến phũ phàng, không chỉ gián tiếp lên án cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" mà còn là tiếng lòng nhà thơ Phạm Đức Mạnh xót xa trước chính sách đãi ngộ hoặc chưa thỏa đáng hoặc đã bị lãng quên của chế độ đối với những chiến binh vừa bước ra khỏi cuộc chiến. Những câu thơ: "những người lính kiệt sức vì đạn bom / thoi thóp sống / lết tìm nhau / bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội” thật đau và đắng ngắt.

Cả hai bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" và "Đồng Vọng" đều gián tiếp lên án cuộc nội chiến vô nghĩa, đều xót xa trước hiện thực cuộc sống "thoi thóp", mờ mịt, bị chế độ xã hội lãng quên chính sách đãi ngộ hoặc đãi ngộ chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, biểu tượng của những người lính vừa trở về sau cuộc chiến. Hai bài thơ với hai gam màu khác nhau, hai cách viết khác nhau: một bên mang gam màu "kỷ yếu ", thời sự của Hội chứng chiến tranh, và người viết đang cố gắng tìm tòi để làm mới diện mạo thơ mình theo cách viết "hiện đại", một bên là những lát cắt của cuộc sống thường nhật với gam màu dung dị của cuộc sống, và người viết chỉ nhẩn nha tìm tòi, sáng tạo theo lối viết nhẹ nhàng, nền nã đã định hình để phả vào thơ hương sắc chân thực của cuộc sống. Khác, nhưng cả 2 bài thơ đều là tiếng lòng của người cầm bút có trách nhiệm với tình yêu quê hương đất nước. 

Sở dĩ tôi nhắc đến bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" của nhà thơ Phạm Đức Mạnh bởi khi đọc những câu thơ tái hiện hình ảnh vợ chồng người cựu chiến binh trong bài thơ "Đồng Vọng" tôi chợt liên tưởng tới hình ảnh người lính trong Hội chứng chiến tranh đã được thể hiện ở nhiều thể loại văn học nghệ thuật, hoàn toàn không có ý như đặt lên bàn cân để so sánh giá trị nghệ thuật giữa 2 bài thơ và tài thơ của 2 nhà thơ.

Trở lại bài thơ "Đồng Vọng" với 2 câu thơ kết thật hay, và không quá lời nếu nói đây là 2 câu thơ tài hoa của nhà thơ Đồng Thị Chúc: 

"Trăng soi từ vời vợi

Gió về từ xa xăm..."


Một cái kết mở với những hình ảnh thật đẹp cho sáng tác thơ ca nhưng lại thật đau, thật đắt để bạn đọc liên tưởng tới tương lai vợ chồng người cựu chiến binh đã đợi chờ nhau suốt chiều dài cuộc nội chiến về ý thức hệ giữa 2 miền Nam Bắc: Phía trước vợ chồng họ là "Trăng", là "Gió", là những thứ chỉ dành cho thơ ca, những thứ chỉ dùng để "ru ngủ đời sống tinh thần", những thứ chẳng có chút giá trị với cuộc sống thực ở cõi người. Đã vậy "Trăng" còn "soi từ vời vợi", "Gió" còn "về từ xa xăm", lại thêm ba dấu chấm lửng ở câu thơ cuối bài như mũi kiếm xoáy thêm sâu vào tương lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến binh. Ôi! Phần thưởng - cái giá đắng chát dành cho “lý tưởng” của những người lính trở về sau cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" là đây sao?! 


“Đồng Vọng” đã vượt lên trên sự cảm thông của nhà thơ Đồng Thị Chúc trước tương lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến binh để cất lên tiếng nói chân thực, trách nhiệm của người cầm bút với quê hương đất nước!


Thật tiếc, khi tuyển chọn "Đồng Vọng" in trong thi phẩm "Những Gương Mặt Mới", cố thi sĩ Trinh Đường đã thêm 2 câu: "Tiếng chim gì da diết / Hay từ quy thương xuân.” vào cuối bài thơ, mà theo ông để “cho thêm phần da diết." nhưng ông đâu ngờ chính 2 câu thơ "thêm ấy" đã làm cho bài thơ mất đi tính "chiến đấu", giảm hẳn sự ám ảnh với người đọc vì thế mà bài thơ kém hay.

*.

Hà Nội, đêm 03 tháng 03.2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN


NGÔN NGỮ LÍNH SÀI GÒN TRƯỚC NĂM 75 (NGUYỄN NGỌC CHÍNH)

 Ngôn ngữ lính Sài Gòn trước năm 75


Có một sự thật đó là ngôn ngữ Sài Gòn ngay trước 75 mang đậm chất lính. Đó cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó đang trong thời kỳ “leo thang chiến tranh” với lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ. Vậy nên hôm nay chúng ta nói về ngôn ngữ lính Sài Gòn.

Thanh niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, chỉ trừ một số trường hợp được “hoãn dịch” vì lý do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn… “Đi lính” là một thuật ngữ xuất hiện thường xuyên trên đầu môi cũng như trong tâm thức của mọi người. Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu thơ này không biết có ai còn nhớ hay không:


Rớt tú tài anh đi trung sĩ,

Em ở nhà lấy Mỹ cho xong…


Thời nào cũng vậy, những thành phần COCC (chữ tắt của cụm từ Con Ông Cháu Cha), bao giờ cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân dịch”. Một trong những cách “trốn lính” là tìm đường cho các “quý tử” đi du học, hay cùng lắm, khi bị “bắt lính” các bậc cha mẹ lo “chạy” để con được phục vụ trong các đơn vị không tác chiến, làm “lính văn phòng”, hay còn được gọi bằng một thuật ngữ rất phổ biến là “lính kiểng”. Người ta thường chưng hoa kiểng, cây kiểng để làm đẹp căn nhà nhưng “lính kiểng” lại chính là một hình thức “tự làm đẹp đời mình” trước những viễn cảnh u ám của chiến tranh, bom đạn, chết chóc vẫn xảy ra hàng ngày.

Đôi khi “lính kiểng” còn được gọi qua cái tên nghe khá ngộ nghĩnh nhưng cũng rất thâm thúy: “lính cậu”. Chả là thứ lính này xuất thân từ những “cậu ấm” trong các gia đình quyền thế hoặc giàu có. Đây là loại “lính nhưng không phải là lính” nếu đem so sánh với những chiến binh ngày đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền đồn heo hút hay rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ chi binh” không phải lúc nào cũng đúng như ý nghĩa vốn có của nó.

Hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, kẻ trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ quần áo lính. Đó có thể là sắc áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như Nhảy dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt cách dù hay Thủy quân lục chiến đội trên đầu chiếc mũ “mũ bê-rê xanh” còn Biệt động quân thì lại chọn màu mũ nâu. Còn nhớ AirborneRanger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, trong trận chiến An Lộc đã nổi tiếng với 2 câu thơ:


An Lộc địa, sử ghi chiến tích,

Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.


Tuy nhiên, mũ bê-rê chỉ dùng khi về phép và các dịp đặc biệt. Khi ra trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót lớp “nũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc là vậy chứ nhiều khi đạn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần.

“Giày trận” được gọi là “bốt đờ sô” (botte de saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với những đôi giày bằng vải bố, được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn giày thường.


Ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh niên dù “đăng lính” hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một trong những thủ tục là làm “thẻ bài”. Tấm “thẻ bài” là vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời gian tại ngũ của quân nhân. “Thẻ bài” tựa như tấm lắc đeo ở cổ con chó nên người Mỹ gọi nó bằng cái tên… “dog tag” (Dịch là: Thẻ chó)! Mỗi quân nhân bắt buộc có 2 tấm “thẻ bài” bằng kim loại không gỉ, được đeo bằng sợi dây cũng bằng kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ bài được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm tài liệu báo cáo.


Bài hát “Tấm Thẻ Bài” qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy đã gây nhiều xúc động trong lòng người nghe và mãi đến bây giờ, mỗi lần được nghe lại bài hát nầy hoặc là nhìn thấy lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm ngùi và thương tiếc những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Nhạc sĩ Huyền Anh đã viết những câu thật xúc động:


Sau cuộc chiến này còn chi không anh?

Còn chi không anh?

Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài

Đã mờ mờ mang tên anh.

Anh đã đi, đã đi vào vùng biển đời người

Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa

Anh ơi sau cuộc chiến này

Có còn chi để lại

Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang tên anh


Và trong số các món quân trang, quân dụng được cấp phát, ngoài chiếc balô người lính còn có “poncho” là một tấm vải mưa trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho ngoài việc là áo mưa còn có một công dụng mà bất cứ người lính nào cũng chẳng muốn sử dụng: poncho sẽ được dùng để khâm liệm xác của tử sĩ bỏ mình trên chiến trường.

“Trốn lính” là chấp nhận sống bên lề xã hội, “trốn chui trốn nhủi” khi thấy bóng dáng cảnh sát, quân cảnh. Cuộc sống của người trốn quân dịch là những chuỗi ngày bấp bênh, không tương lai ngay giữa Sài Gòn đô hội. Cũng vì thế, có người tự chặt “ngón tay bóp cò” (ngón trỏ) để khỏi đi lính, có người “tự hành xác”, “ốm tong ốm teo” để được các trung tâm nhập ngũ trả về vì “không đủ sức khỏe”…


Nguyễn Ngọc Chính

Trích lược từ cuốn Hồi ức một đời người (chinhhoiuc.blogspot.com)

 

ĐẶC KHU RỪNG SÁT (THƠ- TRẦN QUỐC BẢO)

 


 Đặc khu Rừng Sát   

                       Thơ TrQuốc Bảo

Inline image

   Đặc khu Rừng Sát

 

Sài gòn thuyền ra biển Đông,

Thủy lộ quan trọng, là sông Nhà Bè.

Lưu thông, tấp nập buồm ghe,

Thương thuyền chiến hạm, tầu bè vãng lai.

 

Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về(ca dao)

Hai nhánh của sông Nhà Bè,

Hướng Tây Soài Rạp, có b hơi nông.

Inline image

Lỏng Tảo, chảy về hướng Đông,
Sông sâu, thuyền lớn lưu thông dễ dàng.
Hai  nhánh sông này băng ngang,
Đặc khu Rừng Sát, đất hoang sình lầy!

Thuộc vùng tứ giác Đồng Nai,

Chiến khu cộng sản, kề ngay Sài Gòn!

Việt cng, lũ giặc ác ôn!

Phóng tay tàn sát, vùi chôn xác người!

 

Trùng trùng tội ác ngập trời.

Cái tê“Rừng Sát” để đời, ô danh!

Suốt mấy chục năm chiến tranh,

Biết bao thân xác dân lành chết oan!

 

Inline image

 

Để ngăn hành động dã man,

Việt Nam  thành lập, Giang Đoàn Đặc Khu,

Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù.

Liên quân bảo vệ Thủ Đô Sài gòn.

 

Hết lòng gìn giữ Nước Non,

Để trong tao loạn, dân còn sống vui!

Than ôi! quốc vận mạt thời!

Ai ngờ đất nước, tới hồi nát tan!

 

Nhà Bè sóng vỗ nhặt khoan,

Có ai nghe tiếng khóc than vong hồn(!) ?

Biển Đông thuyền vô Sài Gòn,

Ngang qua “Rừng Sát” ai còn nhớ không?

 

          Trần Quốc Bảo

                   Richmond, Virginia

             Địa chỉ điện thư của tác giả:

         quocbao_30@yahoo.com


Monday, June 30, 2025

50 CÂU CA DAO DÂN GIAN BẤT HỦ ĐƯỢC LƯU TRUYỀN SAU 30/4 (NGUỒN- THỦ HOA HUÂN)

 


55 Câu Ca Dao Dân Gian Bất Hủ Được Lưu Truyền 

Sau Ngày 30/4


4271 CaDaoDanGianNgThgChuyen

 

1. Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do

2. Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai

3. Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta

4. Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy

5. Có miệng không nói lại câm
Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa

6. Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon.

7. Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh
Ba anh có biết dân tình cho không ?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.

8. Có áo mà chẳng có quần
Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ ?
Có đói mà chẳng có no
Lấy gì độc lập, tự do hỡi người ?

9. Bác Hồ chết phải giờ trùng
Nên bầy con cháu dở khùng dở điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng.

10. Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên?
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi.

11. Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông
Tớ ơi, mày có biết không ?
Chúng ông làm chủ mà không bằng mày!

12. Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui.

13. Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô (đô-la) thì được, đa nguyên thì đừng.

14. Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”
Chưa đi: phản động trăm chiều
Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng.

15. Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng Bác, đĩ nhiều hơn dân!

16. Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm.

17. Thầy giáo, lương lãnh ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thầy phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh?

18. Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi.

19. Trách ai sinh thứ họ Hồ
Để cho cả nước như đồ vất đi!

20. Bác Hồ đại trí, đại hiền
Chơi Minh Khai chán, gá liền Hồng Phong
Minh Khai phận gái chữ tòng
Bác Hồ sái nhất, Hồng Phong sái nhì.

21. Ngày xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày nay đảng bán dân ngu lấy tiền
Đảng ta là đảng cầm quyền
Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu.

22. Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui.

23. Bao giờ Hồ cạn, Đồng khô
Chinh rơi, Giáp rách, cơ đồ mới yên.

24. Tiên sư Cộng sản Việt Nam
Suốt đời bán cả giang san nước nhà !

25. Dân đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?

26. Hoan hô độc lập tự do
Để cho tớ nhá bo bo sái hàm

27. Nhân dân thì chẳng cần lo
Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cầy
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang

28. Bắt trồng mà chẳng thu mua
Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?
Tiền cày, tiền giống, tiền phân
Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò
Dân đói mà đảng thì no
Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh

29. Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lát sân

30. Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái l…

31. Công nhân, vợ ốm con côi
Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn bề
Bao giờ cho hết trò hề?

32. Ông Đồng, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than

33. Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em

34. Giỏi a đồng chí Đỗ Mười
Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư

35. Vẻ vang thay lãnh tụ ta
Đem dân xuất khẩu bán ra nước ngoài

36. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tàu

37. Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ hơn mười lần xưa
Ngày xưa đánh Mỹ không chừa
Ngày nay con cái lại lùa sang đây
Ngày xưa Mỹ xấu, Ðảng hay
Ngày nay Ðảng ngửa hai tay xin tiền !

38. Đảng ta chọn tướng họ Lê
Đức Anh thất đức nên bê lên ngồi

39. Liên bang Xô Viết vỡ rồi
Văng Linh, văng Kiệt, Đỗ Mười văng luôn

40. Nước ta bầu cử tự do
Lọc qua, lừa lại toàn lò Mác Lê

41. Không đi không biết Tam Đảo
Đi thì không biết nơi nào mà ngu.

42. Trung ương chỉ thị ba cùng
Đảng viên phải bám quần chùng nhân dân.

43. Tin đâu như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Tin đâu như sét đánh gần
Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang

44. Bác Hồ thuở nhỏ bồi Tây
Đến già Bác lại đu giây Nga Tàu.

45. Đảo kinh là cái đỉnh cao
Trí tuệ nên đảng hô hào văn minh
Đảng viên cán bộ thất... kinh
Văn minh cho lắm vẫn mình cán ngô

46. Chị em du kích giỏi thay
Bắn máy bay Mỹ rớt ngay cửa mình

47. Tin buồn noan báo trên đài
Xe tăng bác nái nật hai ba nần!

48. Tin thua như sét đánh ngang
Làm Bác chết cứng, lúc đang thay quần
Hôm qua còn sống sờ sờ
Mà nay bác đã cứng đơ cái mình

49. Khôn hồn thả cải tạo ra
Kẻo Ngụy trở lại chết cha Đỗ Mười

50. Tổ cha cái bọn đười ươi
Đỗ Tám, Đỗ Chín, Đỗ Mười ăn... "biu"

51. Trạch Dân có họ Giang mai
Này dân Trung Quốc đói dài vì ông

52. Đỗ Mười sang lạy Trung Hoa
Kính dâng quần đảo Trường Sa cho Tàu

53. Anh mò địa đạo Củ Chi
Củ chi là cái củ gì? Củ anh?!

54. Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm

55. Trồng mía, trồng ớt, trồng hành
Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng tiêu rồi lại trồng điều
Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành