Mẹ...
Khi tôi vừa tròn 6 tháng tuổi mẹ
tôi đã bỏ cha con tôi để đi theo một người đàn ông khác vì không chịu nổi cơ
cực. Cha tôi làm nghề hớt tóc dạo nuôi tôi khôn lớn học hành. Đó là chỗ trống
lớn lao mà suốt cả tuổi thơ bất hạnh tôi phải chịu đựng. Đã bao lần tôi hình
dung, tự tạo cho mình hình ảnh một bà mẹ của riêng tôi. Tôi thèm khát hạnh phúc
của con Thủy, bạn tôi, mỗi khi nó sà vào lòng mẹ vòi vĩnh. Cha mất sớm, mẹ nó
tảo tần với gánh hàng trái cây vất vả nuôi nó. Dáng người thấp đậm, nụ cười
phúc hậu, xuề xòa, bà mẹ mà tôi tưởng tượng ra cũng có dáng dấp như dì Năm, mẹ
Thủy. Lần nào đến chơi tôi cũng có quà. Bà tỉ mỉ gọt xoài, gọt cóc chia phần
cho hai đứa. Những lần như thế tôi lại tủi thân muốn khóc.
Cũng may trời còn nhìn lại. Tôi
học hành đến nơi đến chốn, lo lắng chăm sóc cha một thời gian trước khi cha
nhắm mắt. Cha tôi ra đi chẳng có gì ân hận. Tôi đã nên gia nên thất vững vàng.
Ông không trối trăn gì, chỉ nở một nụ cười thỏa mãn rồi trút hơi thở cuối cùng,
thanh thản ra đi. Tội nghiệp người cha thật thà chất phác của tôi! Gả được tôi
ông mừng quýnh quáng. Chàng rể vốn học thức, đàng hoàng, con nhà nề nếp. Chẳng
thế, vốn tính xởi lởi, bộc trực, ông đã thẳng thừng tuyên bố cho không con gái
trước mặt bà con hai họ. Người ta cười xòa vui vẻ. Quê chồng tôi ở ngoài Trung.
Đám cưới tôi, để giản tiện, chỉ có bà mẹ và vợ chồng người anh trai đại diện
vào làm lễ. Chúng tôi yêu nhau và cưới nhau. Tính chồng tôi lại rất quyết đoán
nên những trở ngại nào đó, nếu có, phía gia đình chồng tôi không hề hay biết.
Tết năm đó, lần đầu tiên tôi về
quê chồng, ngỡ ngàng lạ cảnh, lạ người. Trời thì cứ mưa dầm dề ướt át lạnh cắt
da. Tôi mặc đến năm bảy lớp áo mà vẫn không chịu nổi. Lại thêm tiếng nói của
vùng này! Phải mất dăm bữa tôi mới hiểu lỏm bỏm những người quanh tôi nói gì.
Chiều hôm đó, chiều cuối năm cả nhà đoàn tụ, hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy lạc
lõng, bơ vơ. Nhà trên, quanh chiếc sập gụ, đàn ông đủng đỉnh ngồi uống trà, đàm
đạo; nhà dưới, đàn bà tụm năm, tụm ba hối hả lo bếp núc.
Tôi cũng thuộc loại đàn bà nên
không thể bám theo chồng, người thân thiết duy nhất của tôi. Đang xớ rớ bên
cánh cửa không biết làm cách nào để hội nhập với các bác, các thím, tôi nghe
tiếng mẹ chồng tôi chắc lưỡi nói về tôi: “Tội nghiệp, mới 6 tháng tuổi... mạ mô
mà nở bỏ con...” Ai đó dấm dẳng: “Nghĩ chú Thuận nhà mình cũng dại. Lấy vợ thì
phải xem tông chớ..” Bà chị dâu tôi thở dài đánh sượt: “Chán chi thu, vược,
bình thiên. Tham con cá mại rẻ tiền dễ mua”. Tôi lẫn ra ngoài hè ngó mãi trời
mưa. Bụi chuối ngoài vườn tả tơi gió dập. Thì ra tôi là một con cá mại, thứ cá
rẻ tiền chẳng đáng mấy xu.
Nhưng đó chỉ là những ngày đầu
tiên. Dần dà thì tôi cũng có đủ nanh, đủ vuốt để thỉnh thoảng nhẹ nhàng “trả
miếng” cho cái tập đoàn chuyên đố kỵ bươi móc chuyện người. Cũng may tôi theo
chồng làm ăn, sinh sống ở xa. Thỉnh thoảng mới phải về ngoài đó đôi lần cho
phải phép. Cơ ngơi của mẹ chồng tôi là một ngôi nhà nhỏ lọt thỏm trong mảnh đất
um tùm giàn mướp, giàn bầu. Chồng mất sớm, bà nức tiếng trong ngoài vì tảo tần
ở vậy nuôi con. Trước khi gom góp vốn để có căn nhà này và tạo được một chỗ bán
thuốc Cẩm lệ ở chợ Đông Ba, bà phải còng lưng gánh lúa gạo với nghề hàng xáo.
Bằng đồng tiền lao nhọc đó, chồng tôi lớn lên…
Người anh trai rớt tú tài phải
vào lính; sau giải phóng cưới vợ rồi phụ vợ bán buôn. Chồng tôi, may mắn và cần
mẫn, đã vượt trội hơn anh nhiều về học vấn. Có lẽ “chồng khôn vợ được đi giày”,
nhờ vị trí anh trong gia đình mà tôi cảm thấy mình có chỗ đứng trước bà con họ
hàng. Mà người ta còn đòi gì nữa ở tôi. Tính tôi không tham lam, không nhòm ngó
của nả bên chồng. Vợ chồng người anh chiếm hết căn nhà của mẹ coi như của mình,
ngang nhiên sử dụng mọi thứ trong nhà như chính tay mình tạo dựng. Bà mẹ chồng
tôi chẳng mảy may phản ứng, coi đó như chuyện bình thường. Bà cứ than thở mãi
về nỗi nhọc nhằn hồi bà về làm dâu, mà là dâu trưởng.
Làm dâu trưởng có nghĩa là “đội
mũ rơm mà chữa nhà cháy”, cực nhọc lắm kia! Tôi không hiểu cặn kẽ ý nghĩa sự ví
von so sánh đó, cũng chẳng hình dung nổi hồi xưa bà đã từng “chữa nhà cháy” thế
nào, chỉ biết bà dâu trưởng nhà tôi “chữa cháy” bằng cách nhanh nhạy lợi dụng
thời cơ tự tiện sửa nhà cho đại lý nước ngọt thuê lấy tiền xài. Chén bát của mẹ
chồng gom góp thản nhiên đem ra dùng, thản nhiên đập vỡ. Cái sập gụ, cái tủ thờ
lần lượt bị “đẩy” đi. Thế chỗ trong nhà là các vật dụng mới hiện đại hơn, sang
trọng hơn. Kể ra về việc biến của công thành của tư thì bà chị dâu tôi là số
một.
Mẹ chồng tôi vốn hay lam hay làm.
Mảnh đất quanh nhà bao giờ cũng xanh um bầu mướp hoa trái và đủ thứ rau bán
quanh năm. Bà chị dâu keo kiệt nào có đối xử với mẹ chồng ra gì. Quanh năm bao
giờ cũng thấy bà mặc mấy chiếc áo ngắn cũ xì với chiếc quần đen lam lũ. Tính rõ
ra bà còn nuôi thân bà được, đâu phải cậy nhờ con. Thế mà trước mặt bà con họ
hàng lúc nào bà chị dâu cũng lên mặt hiếu đạo một tay nuôi nấng mẹ chồng.
Còn ông chồng tôi, ông chồng khờ
khạo của tôi cứ ngây thơ tin tưởng những đồng tiền tháng tháng mình gởi ra đã
thực sự làm đời mẹ sung sướng. Tôi vạch trần ra cho anh ấy thấy, không phải
mình so đo nhưng cái gì cũng một vừa hai phải thôi chứ. Nhún quá người ta bảo
mình ngu. Không nhượng bộ, anh cương quyết lắc đầu: “Mặc anh chị ấy. Bổn phận
mình thì mình phải làm”. Nhưng như vậy thì những đồng tiền tôi đã thực sự chảy
vào đâu? Tôi ấm ức vì đã phải thua con người quá quắt ngoài đó.
Mỗi lần gặp mặt nhau bà dâu
trưởng đố kỵ nhà tôi không để tôi yên, cứ bóng gió gần xa so đo vì tôi sướng,
không một ngày làm dâu, trong khi chồng tôi hưởng của mẹ quá nhiều. Chả là nhờ
mẹ, anh ấy mới có mảnh bằng Đại học để mở mặt với đời. Bà ấy quay sang xỉa xói
thằng con kế bên: “Coi gương chú Thuận đó mà bắt chước. Ba mẹ đổ hết tiền của
cho con học hành cũng không tiếc. Mà để bao nhiêu của cũng không bằng để chữ
cho con.” Tôi không phải tay vừa, chỉ vào hai đứa con gái: “Em cũng nghĩ như
chị vậy. Nhà có hai đứa đó. Thế mà con chị lại không bằng con em. Này con, ba
mẹ cho ăn học như nhau nhé! Không biết lo thì sau này đừng than thân trách phận
nhé! Đừng bảo mẹ đối xử không công bằng nhé!”…
Cứ thế chiến tranh ngấm ngầm, âm
ỉ rồi đôi lúc có dịp lại bùng lên. May mà còn cách núi xa sông. Nhưng mới đây,
ngoài đó lại bắn đại bác vào đây bằng một tin sốt dẻo. Sức khỏe mẹ chồng tôi
dạo này sút kém, khổ mãi vì bệnh đau lưng và lại ho nhiều. Anh chị có ý kiến
đưa mẹ vào Nam chữa chạy xem sao. Tôi lại bắt đầu tức lồng lộn lên. Quyền lợi
thì cứ vơ vào, còn trách nhiệm lại né tránh, tìm cách đùn đẩy. Thử hỏi người
già nào lại chẳng ho với lại đau lưng. Vả lại bệnh ấy ai chữa chẳng được mà cần
vào tận đây kiếm thầy, kiếm thuốc. Khéo viện lý do! Chẳng qua tôi chỉ là con cá
mại rẻ tiền. Bởi rẻ tiền nên dễ xài, mọi thứ cứ đổ lên đầu nó là xong tất. Ông
chồng tôi thì hí hửng: “Phải rồi, mẹ cần phải vào đây thay đổi không khí”. Tôi
cười khẩy: “Chắc mẹ bị hóc xương rồi. Hóa ra thu, vược với lại bình thiên tuy
đắt tiền mà cũng nhiều xương xóc”. Chồng tôi rên rỉ: “Em quên bớt đi, quên bớt
đi cho anh sống với”.
*******
Thế là trong nhà tôi bây giờ có
thêm sự hiện diện thường trực một người mà tôi gọi là “mẹ”. Tôi chưa hề vẽ vời
mơ ước một bà mẹ thơm tho sang trọng nhưng quả thực hơn một tuần lễ hình bóng
gầy còm, khuôn mặt khắc khổ khó đăm đăm đó với tiếng “mẹ” tôi gọi hình như
chẳng ăn nhập gì với nhau. Ngay từ hôm đến nhà, tôi tự tay sắp xếp áo quần bà
vào ngăn tủ và đã tức uất người lên. Vẫn mấy cái áo cũ rích, vẫn mấy cái quần
đen, được thêm cái áo dài màu lam nhạt xem còn tươm tất. Như đọc được ý nghĩ
của tôi bà cười ngượng nghịu ý chừng muốn binh vực dâu con: “Vợ chồng thằng
Hiếu đòi sắm sửa mà mạ không ưng.
Đi vô đây ở với con cháu chớ ở
với ai mà sợ người ta cười”. Tôi chẳng nói gì nhưng ngay hôm sau mua về một lố
vải đủ màu, đủ loại bỏ cho người ta may theo đúng kích cỡ của bà. Cứ áo màu và
quần trắng, năm bảy cái quần trắng tha hồ mặc xem bà có tươm tất hơn không. Tôi
muốn cho bà chị dâu keo kiệt một bài học. Nếu “mạ không ưng” thì phải biết làm
gì. Tôi chờ đợi ở chồng tôi sự tán thành, một điều gì gần như biết ơn nhưng lần
đầu tiên thấy bà xúng xính trong quần là áo lượt anh chỉ hơi ngạc nhiên rồi mỉm
cười không ý kiến.
Chỉ được ba ngày đi vô đi ra lúng
túng trước mặt dâu con, đến ngày thứ tư khi vợ chồng tôi đi làm về đã thấy bà
lột hết mọi thứ lại đánh cái quần đen, cái áo cánh với hai túi to đùng đựng bao
thuốc Cẩm lệ lê la kéo chậu lau hết nhà trên xuống lau nhà dưới. Chồng tôi lại
quay sang tôi cười cười không ý kiến. Sợ tôi giận, bà ngượng nghịu: “Để mấy bộ
áo quần đẹp mạ mặc đi đây đi đó. Ở trong nhà… không quen.” Tôi thực sự đầu hàng
vì chẳng biết làm gì hơn.
Trà, con gái lớn của tôi, nhận
nhiệm vụ đưa nội đi tham quan cho biết thành phố hoa lệ này. Thôi thì cứ xem
như để bà đi du lịch một chuyến. Nể lời con cháu bà thay áo quần tươm tất lên
ngồi sau yên cho Trà chở. Con bé thi hành công việc như một bổn phận, không hí
hửng, không cằn nhằn. Sau một lần vui chơi giải trí như thế bà trở về nhà xơ
xác hơn, mệt mỏi hơn làm như vừa chịu đựng một việc gì quá sức. Con Trà thì cứ
cười ngất: “Đưa nội đi khắp mà nội không chịu xem gì cả. Cứ kiếm gốc cây ngồi
lột nón lá ra quạt suốt rồi hỏi có chỗ mô ít người một chút không con.” Hình
như với bà thành phố hoa lệ này cũng na ná như cái chợ Đông Ba ngoài đó. Chỉ có
một việc bà thích nhất là quanh quẩn trong nhà sắp xếp hết mọi chuyện.
Trước hết, sàn nhà phải sáng
bóng. Trước ngưỡng cửa, giày dép xếp ngay hàng. Áo quần không được quăng bừa
bãi. Bà không chịu nỗi khi mở ti-vi mà không có người ngồi xem. Mỗi tối, sau
bữa cơm, tôi có tật chồng chén bát vào chậu, mai dậy sớm hẵng rửa,để thì giờ
nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng. Có bà thì không thể làm thế. Bà sà
vào ngay đống chén bát. Thế là tôi không thể ngồi đọc báo xem ti-vi với chồng
trong khi mẹ chồng rửa bát như một bà vú em. Tôi bực bội và khó chịu. Tôi đâu
phải ở tuổi con Trà để suy nghĩ đơn giản rằng có bà thì đỡ chân đỡ tay. Áo
quần tôi phơi ngoài dây đôi khi vài ba ngày mới lấy vào xếp cất. Chưa tắt mặt
trời bà đã săm soi từng cái rồi dạy dỗ: “Chạng vạng tối áo quần đàn bà không
được để ngoài trời.” Cứ dạy, dạy và dạy.
Bà dạy tôi đủ thứ trên đời, nhất
là tính cần kiệm. “Ngoài mình người ta ăn tiêu dè sẻn lắm con”. “Ngoài mình”!
Tôi đến chết mất vì cái “ngoài mình”. Cái gì “ngoài mình” cũng hay, cũng tốt.
Hạt sen “ngoài mình” bở hơn. Con cá “ngoài mình” thơm thịt hơn. Mà dè sẻn, tằn
tiện để làm gì? Bởi dè sẻn tằn tiện nên mới coi đồng tiền to như bánh xe bò,
mới sinh ra hạng người tham lam biển lận như bà chị dâu tôi. Tốt đẹp gì mà dạy
với dỗ! Nể chồng, tôi cố nén bất bình, chìu ý mẹ chồng. Buổi tối bà vét sạch sẽ
cơm thừa đem cất, tất cả thức ăn thừa cho vào tủ lạnh. Buổi sáng cứ thế lấy ra
ăn, mặc vợ chồng tôi mời mọc thứ này, thứ nọ.
Tôi cố đóng vai dâu hiền ngồi sớt
chung với bà một tí. Được chừng ba bữa không hơn tôi khám phá ra cổ mình không
trầy cũng sướt vì cứ nuốt mãi mà cơm không chịu trôi. Thế là tôi viện cớ vội đi
làm sớm để ra ngoài ăn phở. Nhưng có lẽ câu nói làm tôi bực nhất là bà dạy tôi
không nên xài phí bởi chồng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được tiền. Hay
chưa! Bà không thấy tôi cũng nai lưng ra cày bừa vật lộn với cuộc sống sao? Bà
không thấy cơ ngơi này một phần là công sức của tôi sao?
Dần dần thấy tôi không thiện chí
tiếp thu bất kỳ bài học nào bà thôi không dạy nữa, chỉ lẳng lặng làm, lẳng lặng
vui cùng con bé Thảo, gái út của tôi, mới học lớp ba. Con bé không gọi bà là
“nội” như chị nó. Nó thương nhất là “mệ” của nó cơ. Hột gà của mệ lớn nhất.
Trái cây của mệ ngon nhất. Chẳng là sáng nào bà cũng ra chợ sớm chọn trứng khi
mới bày hàng và mua một số trái cây có dấu hơi dập một tí mà giá lại rẻ. Nhất
là lê, thứ trái cây Thảo thích. Bà tỉ mỉ gọt sạch sẽ để sẵn vào tủ lạnh.
Con bé đi học về tha hồ ăn, cứ
thích mê đi. Nó thường sà vào lòng nội mân mê sợi dây chuyền vàng có tượng Phật
Bà nhỏ xíu nói rất vô tư: “Khi nào mệ qua đời mệ cho con sợi dây này nhé!” Tôi
quay ngoắt đi: “Bùa hộ mệnh của mệ đó con. Nếu không...” Bỏ lửng câu nói, tôi
bước đi cố kìm giữ lại phần cuối “Nếu không người ta đã lột hết rồi”. Nghe đâu
sợi dây đó bà đã giữ từ hồi còn con gái. Khi chồng mất, đêm nào bà cũng ôm con
cúi xuống bức tượng vừa khóc vừa niệm Quan Thế Âm.
Lạ lùng thay, loay hoay suốt ngày
như thế mà bệnh bà bớt hẳn dù không cần thuốc thang mấy tí. Chuyện này làm
chồng tôi sung sướng phấn khởi ra mặt. Anh bảo: “Tại thời tiết Huế khắc nghiệt
quá” và không hề có ý để mẹ trở ra ngoài đó. Bà quay quắt đòi về bằng được
nhưng chồng tôi cương quyết gạt đi. Tôi chán nản nhìn xấp tiền dày cộm trong
hộc tủ, xấp tiền tôi đã chuẩn bị sẳn sàng đưa bà tẩm bổ thuốc thang khi trở về
để người ta không đánh đong tôi cũng thuộc vào loại dâu keo kiệt.
Một vài con bạn đến nhà, thấy bà
lê la trong chiếc áo cánh, cái quần đen, hết việc nọ đến việc kia, đã tủm tỉm
nháy mắt lấp lửng “Sướng nhỉ!” Tôi đỏ mặt. Chắc tụi nó nghĩ trong nhà tôi đang
xảy ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai” muôn kiếp giữa nàng dâu, mẹ chồng. Tôi ngán
ngẩm và chán nản vì tình trạng mất tự do này không biết còn kéo dài đến bao lâu
nữa. Bà tồn tại cứ như tấm bảng “Tiết Hạnh Khả Phong” tróc sơn loang lổ mà thậm
chí bây giờ người ta nhìn cũng không biết chữ gì. Tấm bảng vừa chướng mắt vừa
đáng thương đó đang hiện hữu trong căn nhà tràn trề sức sống của tôi.
Tối nay, đọc xong lá thư chồng
tôi hí hửng đưa ngay cho tôi:
- Em xem đi. Anh chị cũng đồng ý
với mình đó.
Mới lướt qua một đọan tôi đã tức
đến uất người nhưng cố kìm lại. Giọng điệu thơn thớt cứ đập vào tôi đến gai cả
người. “...Vắng mẹ nhà cửa quạnh hiu lắm nhưng sức khỏe của mẹ là trên hết.
Thôi thì ở đâu cũng là ở với con cháu. Mẹ sống ngày nào thì ngày đó anh em mình
còn mẹ...”
Tôi nghẹn ngang cổ mà chẳng biết
phản ứng bằng cách nào. Họ ngang nhiên tọa hưởng hết ngoài đó rồi lên giọng
hiếu đạo họ đẩy gánh nặng vào đây cho tôi. Và tôi… tôi phải gánh với thời gian
vô hạn định. Chẳng thà chồng tôi là con một.
Tôi chẳng biết bắt đầu làm sao,
phản đối làm sao. Chừng như đoán được một phần ý nghĩ của tôi, ý nghĩ của hầu
hết con dâu đối với mẹ chồng, chồng tôi xuống giọng:
- Để mẹ sống với mình thảnh thơi
một thời gian em ạ. Đời mẹ khổ…
Tôi đột nhiên cướp lời ngay:
- Mẹ khổ là tại mẹ không biết
quản lý những gì mình có. Mẹ không biết tổ chức cuộc sống… Nếu em là mẹ, em sẽ
lấy một phần tiền thuê nhà ngoài đó cộng với tiền hoa trái trong vườn, trả tiền
cơm sòng phẳng cho con cái, chẳng phải bắt đứa nào nuôi nấng, đứa nào chu cấp
mà mang tiếng. Nếu em là mẹ, em sẽ biết sử dụng đồng tiền, em sẽ đi chơi chỗ
này, chỗ kia thăm con cháu. Nếu em là mẹ…
Chồng tôi nhìn xoáy vào mắt tôi:
- Em không phải là mẹ. Không đời
nào em là mẹ cả.
Tôi sững người lại. Giọng điệu
nhấn từng tiếng một của chồng xúc phạm đến bản năng phụ nữ của tôi. Anh có ý gì
vậy? Tôi chẳng sinh cho anh hai con đó ư? Anh muốn bảo tôi không biết hy sinh,
thiếu trách nhiệm bổn phận với con, không xứng đáng làm mẹ ư? Chẳng lẽ anh muốn
tôi quê mùa lam lũ như thế mới thật sự là “mẹ”. Anh muốn tôi tự đày đọa tấm
thân sao. Sao anh ích kỷ thế? Chẳng qua là cái giống đàn ông… Không muốn sinh
chuyện lôi thôi tôi quày quả bước lên lầu.
Như một cái máy, tôi đếm lui đếm
tới hoài xấp tiền vẫn thấy thiếu mất hai trăm ngàn. Xấp tiền hồi sáng mới lãnh
lương. Tôi có tiêu gì không nhỉ? Đầu óc nóng bừng không nhớ ra điều gì cả, tôi
thét hai đứa con:
- Trà, Thảo, có đứa nào lấy hai
trăm ngàn trong tủ không?
Tụi nhỏ đang ở nhà dưới. Khi tôi
thét đến lần thứ hai thì chồng tôi xuất hiện:
- Em ăn nói cẩn thận!
- Việc gì phải cẩn thận. Tôi mất
tiền thì tôi bảo mất tiền.
Chồng tôi nghiến răng:
- Nhưng gào lên như thế là thiếu
giáo dục.
- Thì anh cứ bảo thẳng là tôi mất
dạy. Anh biết rõ tôi không phải con giòng cháu giống mà, tôi vốn là con cá mại
rẻ tiền mà. Tại anh tham…
- Cô im ngay!
- Tôi không im. Tôi không ở nhà
từ đường hương hỏa. Đây là nhà tôi.
Anh thẳng tay xáng hai bạt tai
nảy lửa làm tôi lảo đảo. Tôi ngã xuống giường. Chồng tôi bước ra ngoài đóng sầm
cửa lại.
Ba hôm rồi, bầu không khí nặng nề
ám lấy gia đình tôi. Không ai nói với ai một lời. Người lớn tránh mặt nhau. Bé
Thảo ý thức được chuyện gì đó nghiêm trọng lặng lẽ bám theo bà nhưng không dám
vòi, dám quấy. Mỗi người một tâm trạng riêng tư. Chồng tôi đi về âm thầm như
cái bóng. Khuôn mặt mẹ chồng tôi càng khắc khổ hơn, tưởng chừng những nếp nhăn
đã hằn sâu vào da thịt. Bà lầm lủi làm việc, lầm lủi ra vào, suốt ngày lóng
ngóng nhìn ra cửa. Không biết bà nghĩ những gì. Tôi len lén nhìn bà với đôi mắt
phạm tội. Quả tình tôi không cố ý. Nhà tôi không có người lạ nên không bao giờ
tôi khóa cửa tủ. Đôi khi Trà cần đóng tiền học thêm mà không kịp hỏi xin nó cứ
việc lấy rồi nói lại sau. Và lần này tôi cũng tưởng…
Có lẽ trong cơn bực tức giọng tôi
gắt hơn, lớn tiếng hơn dễ gây sự hiểu lầm, nhưng… Thì tôi đã chẳng trả giá rồi
sao. Trả quá đắt là đằng khác. Cay đắng thật! Hai bạt tai đích đáng! Hai bạt
tai đó là lần đầu tiên từ ngày cưới nhau đến nay tôi mới được lãnh. Mà vì đâu?
Vì đâu chứ? Tôi đâu ác ý. Anh thừa biết điều này mà. Ngày thường tôi vẫn la lên
như thế. Tại sao tôi không còn tự do? Còn cái tập đoàn quá quắt ngoài kia nữa.
Ngang nhiên hưởng thụ rồi đổ mọi khó khăn lên đầu lên cổ tôi, đẩy hạnh phúc gia
đình tôi vào chỗ bế tắc này. Không, tại sao tôi phải xin lỗi? Tôi không có lỗi
gì cả. Người xin lỗi là chồng tôi. Anh phải làm gì khi đã xử sự như một kẻ vũ
phu chứ?...
Tôi mở tủ đựng thức ăn và bất
chợt đứng thừ người. Những chén chè xếp đều đặn cạnh nhau trông đến là ngon
mắt. Chè đậu ván! Không biết hỏi mua ở đâu được loại đậu này, chiều hôm qua bà
lúi húi luộc sôi, cắm cúi ngồi bóc vỏ. Cứ từng hạt một! Cái xứ gì mà khổ. Cho
đến món chè nấu để ăn chơi cũng tự đày đọa tấm thân. Tôi lặng nhìn bà cúi tấm
lưng còng xuống lột từng hạt đậu trên bàn tay khô gầy thô ráp, cảm thấy mình
cần phải làm một điều gì đó như ngồi xuống cạnh bà vốc lên một nắm đậu để thay
lời xin lỗi. Lưỡng lự một hồi tôi lại quay đi. Cuối cùng, tính ngoan cố, bướng
bỉnh trong tôi lại thắng. Tôi lại để bà một mình lọm cọm với công việc suốt buổi.
Lột xong rỗ đậu tôi thấy bà kéo lê bước chân chậm chạp nặng nề hơn. Rồi chừng
như bị đau lưng, bà trở về giường nằm xuống quay mặt vào tường…
Không biết nghĩ gì tôi cắn môi
bưng hai chén chè bước lên nhà. Chồng tôi đang cầm tờ báo đọc vội vàng trước
khi đến sở. Tôi đặt chén chè xuống bàn, đầu hơi cúi:
- Anh ăn sáng… Chè mẹ nấu…
Một giây yên lặng. Tiếng chồng
tôi xa xăm:
- Chè đậu ván!
Tự nhiên tôi nghe cay cay ở mắt.
Anh vẫn thường kể cho tôi nghe về món chè này. Ở quê anh người ta nấu đặc quánh
đến nỗi gói được trong lá chuối. Ngày nào buôn bán có tiền chợ mẹ về
lôi trong đôi quang thúng ra hai gói chè là hai anh em mừng hí hửng chia nhau…
Tôi múc một thìa, lặng nghe hạt
đậu vừa ngọt vừa bùi tan dần trên đầu lưỡi. Anh hỏi nhỏ:
- Mẹ đâu rồi em?
- Chắc mẹ mệt. Hồi tối con Thảo
ho nhiều, quấy lắm. Cứ để hai bà cháu nghỉ.
Chồng tôi không vội đi làm như
mọi bữa, cứ im lặng như thế một hồi rồi ngập ngừng bảo tôi:
- Em vào thăm mẹ giùm anh nhé!
Tiếng xe anh đã xa. Tôi quay vào
tự nhiên nhận thấy một chỗ trống trước ngưỡng cửa. Đôi dép nâu không còn ở đó.
Chắc bà lại ra chợ. Tôi lại nhìn lên tường. Cái nón lá sỉn màu cũng không còn ở
đó. Tôi tái mặt đi khi bắt gặp cái giỏ đi chợ đỏ chót một màu nhức nhối trong
góc bếp. Tôi phóng lên lầu mở cửa. Bé Thảo ngủ ngon lành một mình. Như một
người điên, tôi mở tủ. Quần là áo lượt y nguyên nhưng mấy cái áo cánh, mấy cái
quần đen không còn nữa. Hộc tủ đóng im ỉm. Trong đó hẳn còn nguyên xấp tiền tôi
đã để riêng phần bà tẩm bổ thuốc thang để chứng minh tấm lòng “thơm thảo” của
tôi! Tôi buốt lòng khi nghĩ đến số tiền hai trăm ngàn gây ra sóng gió. Hai trăm
ngàn mà khi bình tĩnh ra tôi mới nhớ là đã rút đưa ngay cho bạn sau khi lãnh
lương để nhờ mua giùm cái quần jean tôi thích...
Không, không thể như thế này
được. Tôi lại nhìn con. Một vật lấp lánh trên bàn tay trẻ thơ. Tôi bước đến. Đó
là sợi dây có bức tượng Phật Bà.. “Khi nào mệ qua đời...” Tiếng nói trong veo
của con vọng lại.. Nước mắt lăn dài trên má, tôi mở cửa. Vấp phải dụng cụ tập
thể dục sáng bóng của tôi cuối góc phòng, tôi khựng lại. Kia là chồng dĩa với
những bản nhạc mà tôi thích; một lô váy ngắn, váy dài thay ra chưa kịp giặt.
Son phấn của tôi, giày dép của tôi... Tôi nhìn lên, bắt gặp bức chân dung phóng
lớn của mình mỉm cười, đội mắt ngời lên, tràn trề niềm vui cuộc sống... “Em
không phải là mẹ. Không đời nào em là mẹ cả.” Câu nói của chồng xoáy vào lòng
tôi. Anh đã có một người mẹ, một người mẹ như thế. Mẹ của anh, người đó là duy
nhất!
Tôi xách xe chạy ra khỏi nhà
phóng một mạch đến ga. Chập chờn trước mắt, tôi thấy hình ảnh bà cắm cúi vét
từng hạt cơm thừa đem cất. Bàn tay nhăn nheo vuốt từng chiếc áo gấp lại cẩn
thận phẳng phiu. Dáng ngồi co ro chịu đựng cắm cúi bóc từng hạt đậu... Suốt một
đời bà chắt chiu nhặt nhạnh để rồi cuối đời không giữ lại một chút gì trên đôi
tay cho riêng mình. Ôi tấm thân gầy! Tấm thân gầy đã gánh, đã gồng, đã dầm mưa,
dãi nắng vì con. Tôi chợt nhận ra rằng vị trí nhỏ bé của đôi dép nâu, của cái
nón lá nếu mất đi sẽ là những khoảng trống không thể nào bù đắp nổi trong ngôi
nhà của tôi và cả trong tôi…
Gởi xe xong tôi hớt hải ngơ ngác
chạy khắp nơi tìm kiếm. Một vài người ngó tôi lạ lùng. Đầu tôi nóng bừng, mắt
tôi hoa lên. Kia rồi, không thể nào nhầm lẫn được. Cái dáng dấp nhỏ thó quê mùa
đó, cái áo dài màu khói hương tươm tất nhất của bà, cái nón lá sỉn màu, cái
quần đen lam lũ... cái xách tay không xách mà kẹp khư khư một bên nách như sợ
người cướp mất... Tôi thấy bà níu tay một người đàn bà xa lạ mặc áo vàng. Và giọng
bà, vẫn chất giọng nằng nặng quê mùa ấy sao bây giờ cứ rõ ràng từng chữ một rót
vào lòng tôi, xiết chặt trái tim tôi:
- O ơi, o cho tui hỏi thăm. Mua
vé tàu ra Huế ở chỡ mô o?
Chỉ cần ba sải chân, tôi ôm gọn
thân hình còm cõi đó. Gục đầu vào bầu ngực lép kẹp cạn khô của bà, nơi đã từng
tuôn trào ra lai láng giòng sữa thương yêu, tôi hít lấy một hơi dài mùi mồ hôi
vừa lạ, vừa quen quyện lẫn mùi thuốc Cẩm lệ hăng nồng. Như một đứa trẻ con, tôi
nấc lên:
- Mẹ!
Tôi cảm thấy bàn tay khô gầy, thô
ráp của bà mơn man mãi mấy sợi tóc mướt mồ hôi trên trán tôi. Hình như xung
quanh người ta xầm xì bàn tán. Tiếng ai đó cười xòa vui vẻ:
- À, hóa ra là bà cụ giận con!
Ngô
Thị Ý Nhi