Thursday, August 31, 2023

MỤC LIÊN THANH ĐỀ (DIỆU PHƯƠNG)

 

Lời nói đầu

Bà Thanh Đề là mẹ của ngài Mục Kiền Liên (cũng gọi là Mục Liên). Bà tính tình tham lam, độc ác, không tin Tam Bảo, tạo ra nhiều tội lỗi nặng nề, gây ra nhiều “nhân” xấu nên khi chết đi chịu “quả” ác, bị đày vào ác đạo, sinh làm loài ngạ quỷ, đói khát triền miên trong đại địa ngục.

 

Ngài Mục Liên là một trong số mười đại đệ tử của Đức Phật, tài giỏi hàng đầu về thần thông. Một ngày ngài dùng “đạo nhãn” xem trong thế gian và nhận thấy mẹ mình bị sinh vào con đường đói khổ trong chốn địa ngục thẳm sâu, chịu bao nhiêu cực hình. Ngài thương xót nên mang cơm đến dâng cho mẹ. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên nên khi bà mẹ đưa cơm vào miệng thì cơm hóa thành ra than hồng, bà không ăn được. Ngài Mục Liên hết sức đau buồn, trở về bạch với Phật mọi sự tình và cầu xin Phật chỉ dạy cho phương cách cứu độ mẹ mình. Phật dạy rằng mặc dù lòng hiếu thảo của ngài vô cùng lớn lao và tuy rất giỏi về thần thông ngài cũng không thể một mình mà cứu độ được lực gia trì của chư tăng, ni trong mười phương, mới mong giải thoát được cho mẹ.

 

Ngài Mục Liên đã thực hiện đúng những lời Phật dạy, vào ngày RẰM tháng BẢY, ngày lễ VU LAN, thành tâm kính lễ trai tăng nên mẹ mới thoát khỏi kiếp quỷ đói và sinh về cảnh giới an lành. Truyện MỤC LIÊN – THANH ĐỀ nhấn mạnh đến luật “nhân quả”, đến lòng hiếu thảo chí thành của ngài Mục Liên và công đức trì trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng an cư kiết hạ của chư tăng, ni. Tất cả cùng thành tâm chú nguyện mà tạo ra sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn bà Thanh Đề, làm bà tự bản thân mình thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện và do đó thoát khỏi hình phạt khổ cực nơi địa ngục.

 

Kinh Phật dạy rằng: “Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp.” Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếu và báo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục. * Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm để mình thành tâm sám hối nên Phật rất vui vì tinh thần phục thiện, hối cải đó. Ngày Vu Lan cũng là ngày “Báo Hiếu”, gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật. Nhân dịp này Phật tử nhớ lại công ơn cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng cực khổ mà nhờ đến sức chú nguyện của chư tăng, ni để phụ lực mà độ cho cha mẹ. Cha mẹ quá vãng dù đã qua bảy đời thì nếu có sa vào đường khổ cũng nhờ phúc đức này mà được thoát khỏi, được siêu thăng. Còn nếu cha mẹ không đi trong đường khổ thì nhờ phúc đức này mà được tăng trưởng thiện căn. Nếu cha mẹ còn sống, chưa qua đời, thời nhờ phúc đức đó mà tăng trưởng tuổi thọ và phát tâm Bồ Đề. 

Ngày lễ Vu Lan cũng là ngày “Xá Tội Vong Nhân”, ngày cầu siêu độ cho tiền nhân quá cố. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm. Mọi người đều ăn năn, xin cải đổi sám hối. Chư tăng, ni cầu nguyện cho các vong nhân được thoát khỏi cảnh đọa đày của ba đường ác là “địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh”. Hiếu thảo thường được hiểu là lo đầy đủ mọi thứ về vật chất cho cha mẹ. Nhưng cha mẹ sẽ qua đời một ngày nào đó.

 Theo Đạo Phật, chúng ta không chỉ có mặt ở một đời này mà còn có mặt ở vô số kiếp về trước và sau nữa, mất thân này sẽ mang thân khác. Bởi vậy người con hiếu còn phải lo cho cha mẹ cả về tinh thần, làm sao thức tỉnh cha mẹ hướng về đường thiện, tin vào nhân quả tội phước, quy y tam Bảo, niệm Phật làm lành để trong đời hiện tại cha mẹ được yên vui và khi mất đi sẽ được hạnh phúc, an lành trong đời sau. “Tâm hiếu là tâm Phật. Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với truyền thống người Việt ta, hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết, rất thiêng liêng và cao cả. Có hiếu trong gia đình thì mới có thể là một công dân tốt ngoài xã hội. Hiếu là bước đầu để xây dựng một gia đình tốt đẹp, một xã hội văn minh và tiến lên thành một quốc gia cường thịnh. 

* Soạn giả đã dựa vào một số tài liệu xưa và nay mà viết lại toàn bộ truyện MỤC LIÊN – THANH ĐỀ bằng những dòng thơ “lục bát” nhẹ nhàng, trong sáng và bình dị để độc giả dễ đọc, dễ hiểu và dễ cảm nhận. Mong rằng ý nghĩa của truyện xưa này sẽ là ngọn đuốc tuệ soi sáng cho con người nương vào đó để vượt qua những con đường vô minh, hành phép sám hối mà diệt tội, hầu vượt qua biển khổ sinh tử mà ghé bờ giải thoát thơm hương. 

Diệu Phương (2009& 2020)





CÒN TIẾP...

NGÀY CỦA MẸ (THÁI LAN- CHUYỂN NGỮ)

 

La Fête Des Mamans(Anonyme) - 

Ngày của Mẹ(Thái Lan)

 

La Fête Des Mamans

Pendant des années,
Tu es venu me chanter
« A la volette » ou m'offrir des tas de présents
--- dessins, fleurs, cadeaux...
Aujourd'hui, tu es si grand,
Que tu ne peux plus m'offrir tes dessins
Tu peux m'acheter des fleurs, et des présents,
Mais le plus beau des cadeaux,
Serait que tu me prennes dans tes bras,
Et que tu me dises,
Maman, je t'aime !!
Tu n'es plus le bébé
qui venait se nicher au creux de mon épaule,
Tu n'es plus le grand gamin
Qui frimait à la sortie du lycée avec les copains,
Mais tu es, et tu resteras toujours,
Mon enfant adoré........

Anonyme

***
Bài Dịch:

Ngày của Mẹ

Trong nhiều năm,
Con đã hát cho mẹ nghe
"Em có Ba là em có Má" và tặng mẹ rất nhiều quà
--- bao nhiêu là hình vẽ, hoa, quà, thật nhiều...
Hôm nay con của mẹ đã lớn khôn,
Nên con không còn gởi cho mẹ những hình vẽ ngây ngô của con nữa
Con chỉ mua cho mẹ hoa, và quà,
Nhưng món quà có ý nghĩa và quan trọng nhất,
Đối với mẹ,
đó là con ôm mẹ trong vòng tay của con,
Và con chỉ cần nói với mẹ,
Mẹ ơi, con yêu mẹ!!

Con không còn là đứa bé
Chỉ muốn nép mình trên vai mẹ,
Con không còn là đứa nhóc vừa mới trổ mã
Luôn ba hoa chích chòe cùng với bạn trung học,
Nhưng con là và vẫn luôn mãi
Là đứa con muôn vàn yêu dấu của Ta.

Thái Lan

CHỖ NẰM CỦA MẸ (SÔNG HƯƠNG)

 

Chỗ Nằm Của Mẹ

 

Mẹ nằm giữa chăn nệm thơm,
nghe kinh Bát Nhã lòng thêm an bình,
bầy con của mẹ vây quanh,
xúm bên giường bịnh lăng xăng quạt hầu.
Mẹ nằm suốt những đêm thâu,
chờ con chim nhỏ vườn sau hót chào,
tóc mây trên gối ngã màu,
bàn tay sen ngó ngày nào, héo hon.
Mẹ nằm đau những lòng con,
thoảng hơi giá lạnh vào hồn mười lăm,
đêm nào xưa, dưới trăng rằm,
mẹ ngồi in bánh, bầy con cười đùa …
Tuổi lo đã tới hay chưa?
những năm mẹ bịnh xin chừa hồn nhiên,
Mẹ nằm một chỗ ưu phiền
bầy em năm đứa chở chuyên gánh đời.
Xin mẹ cứ nằm một nơi,
nhìn bầy con nhỏ vào đời theo nhau,
dẫu mai có vạn ngày đau,
trong lòng con, vẫn nghìn sau mẹ nằm.

Sông-Hương

MẸ...(NGÔ THỊ Ý NHI)

 


Mẹ...

Khi tôi vừa tròn 6 tháng tuổi mẹ tôi đã bỏ cha con tôi để đi theo một người đàn ông khác vì không chịu nổi cơ cực. Cha tôi làm nghề hớt tóc dạo nuôi tôi khôn lớn học hành. Đó là chỗ trống lớn lao mà suốt cả tuổi thơ bất hạnh tôi phải chịu đựng. Đã bao lần tôi hình dung, tự tạo cho mình hình ảnh một bà mẹ của riêng tôi. Tôi thèm khát hạnh phúc của con Thủy, bạn tôi, mỗi khi nó sà vào lòng mẹ vòi vĩnh. Cha mất sớm, mẹ nó tảo tần với gánh hàng trái cây vất vả nuôi nó. Dáng người thấp đậm, nụ cười phúc hậu, xuề xòa, bà mẹ mà tôi tưởng tượng ra cũng có dáng dấp như dì Năm, mẹ Thủy. Lần nào đến chơi tôi cũng có quà. Bà tỉ mỉ gọt xoài, gọt cóc chia phần cho hai đứa. Những lần như thế tôi lại tủi thân muốn khóc.

Cũng may trời còn nhìn lại. Tôi học hành đến nơi đến chốn, lo lắng chăm sóc cha một thời gian trước khi cha nhắm mắt. Cha tôi ra đi chẳng có gì ân hận. Tôi đã nên gia nên thất vững vàng. Ông không trối trăn gì, chỉ nở một nụ cười thỏa mãn rồi trút hơi thở cuối cùng, thanh thản ra đi. Tội nghiệp người cha thật thà chất phác của tôi! Gả được tôi ông mừng quýnh quáng. Chàng rể vốn học thức, đàng hoàng, con nhà nề nếp. Chẳng thế, vốn tính xởi lởi, bộc trực, ông đã thẳng thừng tuyên bố cho không con gái trước mặt bà con hai họ. Người ta cười xòa vui vẻ. Quê chồng tôi ở ngoài Trung. Đám cưới tôi, để giản tiện, chỉ có bà mẹ và vợ chồng người anh trai đại diện vào làm lễ. Chúng tôi yêu nhau và cưới nhau. Tính chồng tôi lại rất quyết đoán nên những trở ngại nào đó, nếu có, phía gia đình chồng tôi không hề hay biết.

Tết năm đó, lần đầu tiên tôi về quê chồng, ngỡ ngàng lạ cảnh, lạ người. Trời thì cứ mưa dầm dề ướt át lạnh cắt da. Tôi mặc đến năm bảy lớp áo mà vẫn không chịu nổi. Lại thêm tiếng nói của vùng này! Phải mất dăm bữa tôi mới hiểu lỏm bỏm những người quanh tôi nói gì. Chiều hôm đó, chiều cuối năm cả nhà đoàn tụ, hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy lạc lõng, bơ vơ. Nhà trên, quanh chiếc sập gụ, đàn ông đủng đỉnh ngồi uống trà, đàm đạo; nhà dưới, đàn bà tụm năm, tụm ba hối hả lo bếp núc.

Tôi cũng thuộc loại đàn bà nên không thể bám theo chồng, người thân thiết duy nhất của tôi. Đang xớ rớ bên cánh cửa không biết làm cách nào để hội nhập với các bác, các thím, tôi nghe tiếng mẹ chồng tôi chắc lưỡi nói về tôi: “Tội nghiệp, mới 6 tháng tuổi... mạ mô mà nở bỏ con...” Ai đó dấm dẳng: “Nghĩ chú Thuận nhà mình cũng dại. Lấy vợ thì phải xem tông chớ..” Bà chị dâu tôi thở dài đánh sượt: “Chán chi thu, vược, bình thiên. Tham con cá mại rẻ tiền dễ mua”. Tôi lẫn ra ngoài hè ngó mãi trời mưa. Bụi chuối ngoài vườn tả tơi gió dập. Thì ra tôi là một con cá mại, thứ cá rẻ tiền chẳng đáng mấy xu.

Nhưng đó chỉ là những ngày đầu tiên. Dần dà thì tôi cũng có đủ nanh, đủ vuốt để thỉnh thoảng nhẹ nhàng “trả miếng” cho cái tập đoàn chuyên đố kỵ bươi móc chuyện người. Cũng may tôi theo chồng làm ăn, sinh sống ở xa. Thỉnh thoảng mới phải về ngoài đó đôi lần cho phải phép. Cơ ngơi của mẹ chồng tôi là một ngôi nhà nhỏ lọt thỏm trong mảnh đất um tùm giàn mướp, giàn bầu. Chồng mất sớm, bà nức tiếng trong ngoài vì tảo tần ở vậy nuôi con. Trước khi gom góp vốn để có căn nhà này và tạo được một chỗ bán thuốc Cẩm lệ ở chợ Đông Ba, bà phải còng lưng gánh lúa gạo với nghề hàng xáo. Bằng đồng tiền lao nhọc đó, chồng tôi lớn lên…

Người anh trai rớt tú tài phải vào lính; sau giải phóng cưới vợ rồi phụ vợ bán buôn. Chồng tôi, may mắn và cần mẫn, đã vượt trội hơn anh nhiều về học vấn. Có lẽ “chồng khôn vợ được đi giày”, nhờ vị trí anh trong gia đình mà tôi cảm thấy mình có chỗ đứng trước bà con họ hàng. Mà người ta còn đòi gì nữa ở tôi. Tính tôi không tham lam, không nhòm ngó của nả bên chồng. Vợ chồng người anh chiếm hết căn nhà của mẹ coi như của mình, ngang nhiên sử dụng mọi thứ trong nhà như chính tay mình tạo dựng. Bà mẹ chồng tôi chẳng mảy may phản ứng, coi đó như chuyện bình thường. Bà cứ than thở mãi về nỗi nhọc nhằn hồi bà về làm dâu, mà là dâu trưởng.

Làm dâu trưởng có nghĩa là “đội mũ rơm mà chữa nhà cháy”, cực nhọc lắm kia! Tôi không hiểu cặn kẽ ý nghĩa sự ví von so sánh đó, cũng chẳng hình dung nổi hồi xưa bà đã từng “chữa nhà cháy” thế nào, chỉ biết bà dâu trưởng nhà tôi “chữa cháy” bằng cách nhanh nhạy lợi dụng thời cơ tự tiện sửa nhà cho đại lý nước ngọt thuê lấy tiền xài. Chén bát của mẹ chồng gom góp thản nhiên đem ra dùng, thản nhiên đập vỡ. Cái sập gụ, cái tủ thờ lần lượt bị “đẩy” đi. Thế chỗ trong nhà là các vật dụng mới hiện đại hơn, sang trọng hơn. Kể ra về việc biến của công thành của tư thì bà chị dâu tôi là số một.

Mẹ chồng tôi vốn hay lam hay làm. Mảnh đất quanh nhà bao giờ cũng xanh um bầu mướp hoa trái và đủ thứ rau bán quanh năm. Bà chị dâu keo kiệt nào có đối xử với mẹ chồng ra gì. Quanh năm bao giờ cũng thấy bà mặc mấy chiếc áo ngắn cũ xì với chiếc quần đen lam lũ. Tính rõ ra bà còn nuôi thân bà được, đâu phải cậy nhờ con. Thế mà trước mặt bà con họ hàng lúc nào bà chị dâu cũng lên mặt hiếu đạo một tay nuôi nấng mẹ chồng.

Còn ông chồng tôi, ông chồng khờ khạo của tôi cứ ngây thơ tin tưởng những đồng tiền tháng tháng mình gởi ra đã thực sự làm đời mẹ sung sướng. Tôi vạch trần ra cho anh ấy thấy, không phải mình so đo nhưng cái gì cũng một vừa hai phải thôi chứ. Nhún quá người ta bảo mình ngu. Không nhượng bộ, anh cương quyết lắc đầu: “Mặc anh chị ấy. Bổn phận mình thì mình phải làm”. Nhưng như vậy thì những đồng tiền tôi đã thực sự chảy vào đâu? Tôi ấm ức vì đã phải thua con người quá quắt ngoài đó.

Mỗi lần gặp mặt nhau bà dâu trưởng đố kỵ nhà tôi không để tôi yên, cứ bóng gió gần xa so đo vì tôi sướng, không một ngày làm dâu, trong khi chồng tôi hưởng của mẹ quá nhiều. Chả là nhờ mẹ, anh ấy mới có mảnh bằng Đại học để mở mặt với đời. Bà ấy quay sang xỉa xói thằng con kế bên: “Coi gương chú Thuận đó mà bắt chước. Ba mẹ đổ hết tiền của cho con học hành cũng không tiếc. Mà để bao nhiêu của cũng không bằng để chữ cho con.” Tôi không phải tay vừa, chỉ vào hai đứa con gái: “Em cũng nghĩ như chị vậy. Nhà có hai đứa đó. Thế mà con chị lại không bằng con em. Này con, ba mẹ cho ăn học như nhau nhé! Không biết lo thì sau này đừng than thân trách phận nhé! Đừng bảo mẹ đối xử không công bằng nhé!”…

Cứ thế chiến tranh ngấm ngầm, âm ỉ rồi đôi lúc có dịp lại bùng lên. May mà còn cách núi xa sông. Nhưng mới đây, ngoài đó lại bắn đại bác vào đây bằng một tin sốt dẻo. Sức khỏe mẹ chồng tôi dạo này sút kém, khổ mãi vì bệnh đau lưng và lại ho nhiều. Anh chị có ý kiến đưa mẹ vào Nam chữa chạy xem sao. Tôi lại bắt đầu tức lồng lộn lên. Quyền lợi thì cứ vơ vào, còn trách nhiệm lại né tránh, tìm cách đùn đẩy. Thử hỏi người già nào lại chẳng ho với lại đau lưng. Vả lại bệnh ấy ai chữa chẳng được mà cần vào tận đây kiếm thầy, kiếm thuốc. Khéo viện lý do! Chẳng qua tôi chỉ là con cá mại rẻ tiền. Bởi rẻ tiền nên dễ xài, mọi thứ cứ đổ lên đầu nó là xong tất. Ông chồng tôi thì hí hửng: “Phải rồi, mẹ cần phải vào đây thay đổi không khí”. Tôi cười khẩy: “Chắc mẹ bị hóc xương rồi. Hóa ra thu, vược với lại bình thiên tuy đắt tiền mà cũng nhiều xương xóc”. Chồng tôi rên rỉ: “Em quên bớt đi, quên bớt đi cho anh sống với”.

*******

Thế là trong nhà tôi bây giờ có thêm sự hiện diện thường trực một người mà tôi gọi là “mẹ”. Tôi chưa hề vẽ vời mơ ước một bà mẹ thơm tho sang trọng nhưng quả thực hơn một tuần lễ hình bóng gầy còm, khuôn mặt khắc khổ khó đăm đăm đó với tiếng “mẹ” tôi gọi hình như chẳng ăn nhập gì với nhau. Ngay từ hôm đến nhà, tôi tự tay sắp xếp áo quần bà vào ngăn tủ và đã tức uất người lên. Vẫn mấy cái áo cũ rích, vẫn mấy cái quần đen, được thêm cái áo dài màu lam nhạt xem còn tươm tất. Như đọc được ý nghĩ của tôi bà cười ngượng nghịu ý chừng muốn binh vực dâu con: “Vợ chồng thằng Hiếu đòi sắm sửa mà mạ không ưng.

Đi vô đây ở với con cháu chớ ở với ai mà sợ người ta cười”. Tôi chẳng nói gì nhưng ngay hôm sau mua về một lố vải đủ màu, đủ loại bỏ cho người ta may theo đúng kích cỡ của bà. Cứ áo màu và quần trắng, năm bảy cái quần trắng tha hồ mặc xem bà có tươm tất hơn không. Tôi muốn cho bà chị dâu keo kiệt một bài học. Nếu “mạ không ưng” thì phải biết làm gì. Tôi chờ đợi ở chồng tôi sự tán thành, một điều gì gần như biết ơn nhưng lần đầu tiên thấy bà xúng xính trong quần là áo lượt anh chỉ hơi ngạc nhiên rồi mỉm cười không ý kiến.

Chỉ được ba ngày đi vô đi ra lúng túng trước mặt dâu con, đến ngày thứ tư khi vợ chồng tôi đi làm về đã thấy bà lột hết mọi thứ lại đánh cái quần đen, cái áo cánh với hai túi to đùng đựng bao thuốc Cẩm lệ lê la kéo chậu lau hết nhà trên xuống lau nhà dưới. Chồng tôi lại quay sang tôi cười cười không ý kiến. Sợ tôi giận, bà ngượng nghịu: “Để mấy bộ áo quần đẹp mạ mặc đi đây đi đó. Ở trong nhà… không quen.” Tôi thực sự đầu hàng vì chẳng biết làm gì hơn.

Trà, con gái lớn của tôi, nhận nhiệm vụ đưa nội đi tham quan cho biết thành phố hoa lệ này. Thôi thì cứ xem như để bà đi du lịch một chuyến. Nể lời con cháu bà thay áo quần tươm tất lên ngồi sau yên cho Trà chở. Con bé thi hành công việc như một bổn phận, không hí hửng, không cằn nhằn. Sau một lần vui chơi giải trí như thế bà trở về nhà xơ xác hơn, mệt mỏi hơn làm như vừa chịu đựng một việc gì quá sức. Con Trà thì cứ cười ngất: “Đưa nội đi khắp mà nội không chịu xem gì cả. Cứ kiếm gốc cây ngồi lột nón lá ra quạt suốt rồi hỏi có chỗ mô ít người một chút không con.” Hình như với bà thành phố hoa lệ này cũng na ná như cái chợ Đông Ba ngoài đó. Chỉ có một việc bà thích nhất là quanh quẩn trong nhà sắp xếp hết mọi chuyện.

Trước hết, sàn nhà phải sáng bóng. Trước ngưỡng cửa, giày dép xếp ngay hàng. Áo quần không được quăng bừa bãi. Bà không chịu nỗi khi mở ti-vi mà không có người ngồi xem. Mỗi tối, sau bữa cơm, tôi có tật chồng chén bát vào chậu, mai dậy sớm hẵng rửa,để thì giờ nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng. Có bà thì không thể làm thế. Bà sà vào ngay đống chén bát. Thế là tôi không thể ngồi đọc báo xem ti-vi với chồng trong khi mẹ chồng rửa bát như một bà vú em. Tôi bực bội và khó chịu. Tôi đâu phải ở tuổi con Trà để suy nghĩ đơn giản rằng có bà thì đỡ chân đỡ tay. Áo quần tôi phơi ngoài dây đôi khi vài ba ngày mới lấy vào xếp cất. Chưa tắt mặt trời bà đã săm soi từng cái rồi dạy dỗ: “Chạng vạng tối áo quần đàn bà không được để ngoài trời.” Cứ dạy, dạy và dạy.

Bà dạy tôi đủ thứ trên đời, nhất là tính cần kiệm. “Ngoài mình người ta ăn tiêu dè sẻn lắm con”. “Ngoài mình”! Tôi đến chết mất vì cái “ngoài mình”. Cái gì “ngoài mình” cũng hay, cũng tốt. Hạt sen “ngoài mình” bở hơn. Con cá “ngoài mình” thơm thịt hơn. Mà dè sẻn, tằn tiện để làm gì? Bởi dè sẻn tằn tiện nên mới coi đồng tiền to như bánh xe bò, mới sinh ra hạng người tham lam biển lận như bà chị dâu tôi. Tốt đẹp gì mà dạy với dỗ! Nể chồng, tôi cố nén bất bình, chìu ý mẹ chồng. Buổi tối bà vét sạch sẽ cơm thừa đem cất, tất cả thức ăn thừa cho vào tủ lạnh. Buổi sáng cứ thế lấy ra ăn, mặc vợ chồng tôi mời mọc thứ này, thứ nọ.

Tôi cố đóng vai dâu hiền ngồi sớt chung với bà một tí. Được chừng ba bữa không hơn tôi khám phá ra cổ mình không trầy cũng sướt vì cứ nuốt mãi mà cơm không chịu trôi. Thế là tôi viện cớ vội đi làm sớm để ra ngoài ăn phở. Nhưng có lẽ câu nói làm tôi bực nhất là bà dạy tôi không nên xài phí bởi chồng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được tiền. Hay chưa! Bà không thấy tôi cũng nai lưng ra cày bừa vật lộn với cuộc sống sao? Bà không thấy cơ ngơi này một phần là công sức của tôi sao? 

Dần dần thấy tôi không thiện chí tiếp thu bất kỳ bài học nào bà thôi không dạy nữa, chỉ lẳng lặng làm, lẳng lặng vui cùng con bé Thảo, gái út của tôi, mới học lớp ba. Con bé không gọi bà là “nội” như chị nó. Nó thương nhất là “mệ” của nó cơ. Hột gà của mệ lớn nhất. Trái cây của mệ ngon nhất. Chẳng là sáng nào bà cũng ra chợ sớm chọn trứng khi mới bày hàng và mua một số trái cây có dấu hơi dập một tí mà giá lại rẻ. Nhất là lê, thứ trái cây Thảo thích. Bà tỉ mỉ gọt sạch sẽ để sẵn vào tủ lạnh.

Con bé đi học về tha hồ ăn, cứ thích mê đi. Nó thường sà vào lòng nội mân mê sợi dây chuyền vàng có tượng Phật Bà nhỏ xíu nói rất vô tư: “Khi nào mệ qua đời mệ cho con sợi dây này nhé!” Tôi quay ngoắt đi: “Bùa hộ mệnh của mệ đó con. Nếu không...” Bỏ lửng câu nói, tôi bước đi cố kìm giữ lại phần cuối “Nếu không người ta đã lột hết rồi”. Nghe đâu sợi dây đó bà đã giữ từ hồi còn con gái. Khi chồng mất, đêm nào bà cũng ôm con cúi xuống bức tượng vừa khóc vừa niệm Quan Thế Âm.

Lạ lùng thay, loay hoay suốt ngày như thế mà bệnh bà bớt hẳn dù không cần thuốc thang mấy tí. Chuyện này làm chồng tôi sung sướng phấn khởi ra mặt. Anh bảo: “Tại thời tiết Huế khắc nghiệt quá” và không hề có ý để mẹ trở ra ngoài đó. Bà quay quắt đòi về bằng được nhưng chồng tôi cương quyết gạt đi. Tôi chán nản nhìn xấp tiền dày cộm trong hộc tủ, xấp tiền tôi đã chuẩn bị sẳn sàng đưa bà tẩm bổ thuốc thang khi trở về để người ta không đánh đong tôi cũng thuộc vào loại dâu keo kiệt.

Một vài con bạn đến nhà, thấy bà lê la trong chiếc áo cánh, cái quần đen, hết việc nọ đến việc kia, đã tủm tỉm nháy mắt lấp lửng “Sướng nhỉ!” Tôi đỏ mặt. Chắc tụi nó nghĩ trong nhà tôi đang xảy ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai” muôn kiếp giữa nàng dâu, mẹ chồng. Tôi ngán ngẩm và chán nản vì tình trạng mất tự do này không biết còn kéo dài đến bao lâu nữa. Bà tồn tại cứ như tấm bảng “Tiết Hạnh Khả Phong” tróc sơn loang lổ mà thậm chí bây giờ người ta nhìn cũng không biết chữ gì. Tấm bảng vừa chướng mắt vừa đáng thương đó đang hiện hữu trong căn nhà tràn trề sức sống của tôi.

Tối nay, đọc xong lá thư chồng tôi hí hửng đưa ngay cho tôi:

- Em xem đi. Anh chị cũng đồng ý với mình đó.

Mới lướt qua một đọan tôi đã tức đến uất người nhưng cố kìm lại. Giọng điệu thơn thớt cứ đập vào tôi đến gai cả người. “...Vắng mẹ nhà cửa quạnh hiu lắm nhưng sức khỏe của mẹ là trên hết. Thôi thì ở đâu cũng là ở với con cháu. Mẹ sống ngày nào thì ngày đó anh em mình còn mẹ...” 

Tôi nghẹn ngang cổ mà chẳng biết phản ứng bằng cách nào. Họ ngang nhiên tọa hưởng hết ngoài đó rồi lên giọng hiếu đạo họ đẩy gánh nặng vào đây cho tôi. Và tôi… tôi phải gánh với thời gian vô hạn định. Chẳng thà chồng tôi là con một. 

Tôi chẳng biết bắt đầu làm sao, phản đối làm sao. Chừng như đoán được một phần ý nghĩ của tôi, ý nghĩ của hầu hết con dâu đối với mẹ chồng, chồng tôi xuống giọng:

- Để mẹ sống với mình thảnh thơi một thời gian em ạ. Đời mẹ khổ…

Tôi đột nhiên cướp lời ngay:

- Mẹ khổ là tại mẹ không biết quản lý những gì mình có. Mẹ không biết tổ chức cuộc sống… Nếu em là mẹ, em sẽ lấy một phần tiền thuê nhà ngoài đó cộng với tiền hoa trái trong vườn, trả tiền cơm sòng phẳng cho con cái, chẳng phải bắt đứa nào nuôi nấng, đứa nào chu cấp mà mang tiếng. Nếu em là mẹ, em sẽ biết sử dụng đồng tiền, em sẽ đi chơi chỗ này, chỗ kia thăm con cháu. Nếu em là mẹ…

Chồng tôi nhìn xoáy vào mắt tôi:

- Em không phải là mẹ. Không đời nào em là mẹ cả.

Tôi sững người lại. Giọng điệu nhấn từng tiếng một của chồng xúc phạm đến bản năng phụ nữ của tôi. Anh có ý gì vậy? Tôi chẳng sinh cho anh hai con đó ư? Anh muốn bảo tôi không biết hy sinh, thiếu trách nhiệm bổn phận với con, không xứng đáng làm mẹ ư? Chẳng lẽ anh muốn tôi quê mùa lam lũ như thế mới thật sự là “mẹ”. Anh muốn tôi tự đày đọa tấm thân sao. Sao anh ích kỷ thế? Chẳng qua là cái giống đàn ông… Không muốn sinh chuyện lôi thôi tôi quày quả bước lên lầu.

Như một cái máy, tôi đếm lui đếm tới hoài xấp tiền vẫn thấy thiếu mất hai trăm ngàn. Xấp tiền hồi sáng mới lãnh lương. Tôi có tiêu gì không nhỉ? Đầu óc nóng bừng không nhớ ra điều gì cả, tôi thét hai đứa con:

- Trà, Thảo, có đứa nào lấy hai trăm ngàn trong tủ không?

Tụi nhỏ đang ở nhà dưới. Khi tôi thét đến lần thứ hai thì chồng tôi xuất hiện:

- Em ăn nói cẩn thận!

- Việc gì phải cẩn thận. Tôi mất tiền thì tôi bảo mất tiền.

Chồng tôi nghiến răng:

- Nhưng gào lên như thế là thiếu giáo dục.

- Thì anh cứ bảo thẳng là tôi mất dạy. Anh biết rõ tôi không phải con giòng cháu giống mà, tôi vốn là con cá mại rẻ tiền mà. Tại anh tham…

- Cô im ngay!

- Tôi không im. Tôi không ở nhà từ đường hương hỏa. Đây là nhà tôi.

Anh thẳng tay xáng hai bạt tai nảy lửa làm tôi lảo đảo. Tôi ngã xuống giường. Chồng tôi bước ra ngoài đóng sầm cửa lại.

Ba hôm rồi, bầu không khí nặng nề ám lấy gia đình tôi. Không ai nói với ai một lời. Người lớn tránh mặt nhau. Bé Thảo ý thức được chuyện gì đó nghiêm trọng lặng lẽ bám theo bà nhưng không dám vòi, dám quấy. Mỗi người một tâm trạng riêng tư. Chồng tôi đi về âm thầm như cái bóng. Khuôn mặt mẹ chồng tôi càng khắc khổ hơn, tưởng chừng những nếp nhăn đã hằn sâu vào da thịt. Bà lầm lủi làm việc, lầm lủi ra vào, suốt ngày lóng ngóng nhìn ra cửa. Không biết bà nghĩ những gì. Tôi len lén nhìn bà với đôi mắt phạm tội. Quả tình tôi không cố ý. Nhà tôi không có người lạ nên không bao giờ tôi khóa cửa tủ. Đôi khi Trà cần đóng tiền học thêm mà không kịp hỏi xin nó cứ việc lấy rồi nói lại sau. Và lần này tôi cũng tưởng…

Có lẽ trong cơn bực tức giọng tôi gắt hơn, lớn tiếng hơn dễ gây sự hiểu lầm, nhưng… Thì tôi đã chẳng trả giá rồi sao. Trả quá đắt là đằng khác. Cay đắng thật! Hai bạt tai đích đáng! Hai bạt tai đó là lần đầu tiên từ ngày cưới nhau đến nay tôi mới được lãnh. Mà vì đâu? Vì đâu chứ? Tôi đâu ác ý. Anh thừa biết điều này mà. Ngày thường tôi vẫn la lên như thế. Tại sao tôi không còn tự do? Còn cái tập đoàn quá quắt ngoài kia nữa. Ngang nhiên hưởng thụ rồi đổ mọi khó khăn lên đầu lên cổ tôi, đẩy hạnh phúc gia đình tôi vào chỗ bế tắc này. Không, tại sao tôi phải xin lỗi? Tôi không có lỗi gì cả. Người xin lỗi là chồng tôi. Anh phải làm gì khi đã xử sự như một kẻ vũ phu chứ?...

Tôi mở tủ đựng thức ăn và bất chợt đứng thừ người. Những chén chè xếp đều đặn cạnh nhau trông đến là ngon mắt. Chè đậu ván! Không biết hỏi mua ở đâu được loại đậu này, chiều hôm qua bà lúi húi luộc sôi, cắm cúi ngồi bóc vỏ. Cứ từng hạt một! Cái xứ gì mà khổ. Cho đến món chè nấu để ăn chơi cũng tự đày đọa tấm thân. Tôi lặng nhìn bà cúi tấm lưng còng xuống lột từng hạt đậu trên bàn tay khô gầy thô ráp, cảm thấy mình cần phải làm một điều gì đó như ngồi xuống cạnh bà vốc lên một nắm đậu để thay lời xin lỗi. Lưỡng lự một hồi tôi lại quay đi. Cuối cùng, tính ngoan cố, bướng bỉnh trong tôi lại thắng. Tôi lại để bà một mình lọm cọm với công việc suốt buổi. Lột xong rỗ đậu tôi thấy bà kéo lê bước chân chậm chạp nặng nề hơn. Rồi chừng như bị đau lưng, bà trở về giường nằm xuống quay mặt vào tường…

Không biết nghĩ gì tôi cắn môi bưng hai chén chè bước lên nhà. Chồng tôi đang cầm tờ báo đọc vội vàng trước khi đến sở. Tôi đặt chén chè xuống bàn, đầu hơi cúi:

- Anh ăn sáng… Chè mẹ nấu…

Một giây yên lặng. Tiếng chồng tôi xa xăm:

- Chè đậu ván!

Tự nhiên tôi nghe cay cay ở mắt. Anh vẫn thường kể cho tôi nghe về món chè này. Ở quê anh người ta nấu đặc quánh đến nỗi gói được trong lá chuối. Ngày nào buôn bán có tiền chợ mẹ về lôi trong đôi quang thúng ra hai gói chè là hai anh em mừng hí hửng chia nhau…

Tôi múc một thìa, lặng nghe hạt đậu vừa ngọt vừa bùi tan dần trên đầu lưỡi. Anh hỏi nhỏ:

- Mẹ đâu rồi em?

- Chắc mẹ mệt. Hồi tối con Thảo ho nhiều, quấy lắm. Cứ để hai bà cháu nghỉ.

Chồng tôi không vội đi làm như mọi bữa, cứ im lặng như thế một hồi rồi ngập ngừng bảo tôi:

- Em vào thăm mẹ giùm anh nhé!

Tiếng xe anh đã xa. Tôi quay vào tự nhiên nhận thấy một chỗ trống trước ngưỡng cửa. Đôi dép nâu không còn ở đó. Chắc bà lại ra chợ. Tôi lại nhìn lên tường. Cái nón lá sỉn màu cũng không còn ở đó. Tôi tái mặt đi khi bắt gặp cái giỏ đi chợ đỏ chót một màu nhức nhối trong góc bếp. Tôi phóng lên lầu mở cửa. Bé Thảo ngủ ngon lành một mình. Như một người điên, tôi mở tủ. Quần là áo lượt y nguyên nhưng mấy cái áo cánh, mấy cái quần đen không còn nữa. Hộc tủ đóng im ỉm. Trong đó hẳn còn nguyên xấp tiền tôi đã để riêng phần bà tẩm bổ thuốc thang để chứng minh tấm lòng “thơm thảo” của tôi! Tôi buốt lòng khi nghĩ đến số tiền hai trăm ngàn gây ra sóng gió. Hai trăm ngàn mà khi bình tĩnh ra tôi mới nhớ là đã rút đưa ngay cho bạn sau khi lãnh lương để nhờ mua giùm cái quần jean tôi thích...

Không, không thể như thế này được. Tôi lại nhìn con. Một vật lấp lánh trên bàn tay trẻ thơ. Tôi bước đến. Đó là sợi dây có bức tượng Phật Bà.. “Khi nào mệ qua đời...” Tiếng nói trong veo của con vọng lại.. Nước mắt lăn dài trên má, tôi mở cửa. Vấp phải dụng cụ tập thể dục sáng bóng của tôi cuối góc phòng, tôi khựng lại. Kia là chồng dĩa với những bản nhạc mà tôi thích; một lô váy ngắn, váy dài thay ra chưa kịp giặt. Son phấn của tôi, giày dép của tôi... Tôi nhìn lên, bắt gặp bức chân dung phóng lớn của mình mỉm cười, đội mắt ngời lên, tràn trề niềm vui cuộc sống... “Em không phải là mẹ. Không đời nào em là mẹ cả.” Câu nói của chồng xoáy vào lòng tôi. Anh đã có một người mẹ, một người mẹ như thế. Mẹ của anh, người đó là duy nhất!

Tôi xách xe chạy ra khỏi nhà phóng một mạch đến ga. Chập chờn trước mắt, tôi thấy hình ảnh bà cắm cúi vét từng hạt cơm thừa đem cất. Bàn tay nhăn nheo vuốt từng chiếc áo gấp lại cẩn thận phẳng phiu. Dáng ngồi co ro chịu đựng cắm cúi bóc từng hạt đậu... Suốt một đời bà chắt chiu nhặt nhạnh để rồi cuối đời không giữ lại một chút gì trên đôi tay cho riêng mình. Ôi tấm thân gầy! Tấm thân gầy đã gánh, đã gồng, đã dầm mưa, dãi nắng vì con. Tôi chợt nhận ra rằng vị trí nhỏ bé của đôi dép nâu, của cái nón lá nếu mất đi sẽ là những khoảng trống không thể nào bù đắp nổi trong ngôi nhà của tôi và cả trong tôi…

Gởi xe xong tôi hớt hải ngơ ngác chạy khắp nơi tìm kiếm. Một vài người ngó tôi lạ lùng. Đầu tôi nóng bừng, mắt tôi hoa lên. Kia rồi, không thể nào nhầm lẫn được. Cái dáng dấp nhỏ thó quê mùa đó, cái áo dài màu khói hương tươm tất nhất của bà, cái nón lá sỉn màu, cái quần đen lam lũ... cái xách tay không xách mà kẹp khư khư một bên nách như sợ người cướp mất... Tôi thấy bà níu tay một người đàn bà xa lạ mặc áo vàng. Và giọng bà, vẫn chất giọng nằng nặng quê mùa ấy sao bây giờ cứ rõ ràng từng chữ một rót vào lòng tôi, xiết chặt trái tim tôi:

- O ơi, o cho tui hỏi thăm. Mua vé tàu ra Huế ở chỡ mô o?

Chỉ cần ba sải chân, tôi ôm gọn thân hình còm cõi đó. Gục đầu vào bầu ngực lép kẹp cạn khô của bà, nơi đã từng tuôn trào ra lai láng giòng sữa thương yêu, tôi hít lấy một hơi dài mùi mồ hôi vừa lạ, vừa quen quyện lẫn mùi thuốc Cẩm lệ hăng nồng. Như một đứa trẻ con, tôi nấc lên:

- Mẹ!

Tôi cảm thấy bàn tay khô gầy, thô ráp của bà mơn man mãi mấy sợi tóc mướt mồ hôi trên trán tôi. Hình như xung quanh người ta xầm xì bàn tán. Tiếng ai đó cười xòa vui vẻ:

- À, hóa ra là bà cụ giận con!

Ngô Thị Ý Nhi 

MÓN QUÀ VU LAN (MẠC PHƯƠNG ĐÌNH)/ MY VU LAN PRESENT (TRANSLATION BY THANH THANH)

 


MÓN QUÀ VU LAN

 

mở cuốn an bum nhìn thấy mẹ

bóng mẹ năm nào nay đã xa   
đêm nằm nghe gió lùa thao thức

mưa gõ vào tim nỗi nhớ nhà

 

đời sống hôm nay  đầy đủ  lắm            
mà con không mẹ, chẳng còn cha   
ngày xưa con sống ngu ngơ vậy

giờ biết thương yêu thiếu mẹ già

 

mẹ đã ra đi thời khó nhọc  
quê nghèo nặng trĩu gánh bôn ba

sắn khoai nuôi mẹ ngày sau cuối  
con mắc tù lao phải vắng nhà

 

gian khó một đời cha mẹ gánh   
ơn dày nghĩa nặng chẳng phôi pha   
mẹ ơi sầu tũi đường xa xứ    
xin gửi hôm nay một chút quà ?

 

tháng bảy Vu Lan mùa báo hiếu

âm dương cách trở mấy đường xa

nén nhang ngọn nến lung linh gió

chẳng khóc mà sao mắt lệ nhòa

 

MẠC PHƯƠNG ĐÌNH

 


 

MY VU LAN  PRESENT

 

I gazed in the album at my dear Mom’s picture
And realized that now is so far-off her figure
I listened to the rain as if on my heart flick

The wind blow making me agitatedly nostalgic

 

Although is abundant my current subsistence
Neither my Mom nor my Dad stays in existence
As a child I was so dull being by Mom kissed

Now that I know whom to love, Mom is missed

 

Mom departed this life during a difficult time
Scurrying beneath the burden in our poor clime

Until your last days on manioc hand to mouth
While I was in prison as a “puppet” of the South

 

Such a hard period Dad and Mom bore your part
That feeling of gratitude I bury deep in my heart
Dear Mom please accept from this sad son adrift
On this commemorative day my little humble gift

 

Vu Lan mid-seventh month, the filial duty event

Between life and death how far to suffer torment

Joss-sticks and candles spark, the wind uprears

I don’t cry but why my eyes get wet with tears

 

Translation by THANH-THANH

Tám Mươi Năm Làm Thơ


TUY HÒA QUÊ ANH MỜI EM GHÉ THĂM (NHẠC SĨ TRẦN CHÍ PHÚC/ CA SĨ HƯƠNG LAN- TRÌNH BÀY)

 

 

NHẠC SĨ TRẦN CHÍ PHÚC.

TUY HÒA QUÊ ANH MỜI EM GHÉ THĂM

                                                Trần Chí Phúc

Khoảng đầu thập niên 1990, tôi nghĩ là nên viết một bài hát tả Tuy Hòa, nơi chôn nhau cắt rún của mình. Tuy Hòa là thành phố, thủ phủ tỉnh Phú Yên, nằm giữa hai cái đèo. Đèo Cù Mông phía bắc, qua khỏi đèo là Qui Nhơn tỉnh Bình Định. Đèo Cả phía nam, qua khỏi đèo là bãi biển Đại Lãnh, rồi Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Ba tỉnh Bình Định Phú Yên Khánh Hòa gần gũi, nên có câu ca dao Anh về Bình Định thăm cha. Phú Yên thăm mẹ Khánh Hòa thăm em.”  Giọng nói 3 tỉnh này khá giống nhau, nhất là Bình Định Phú Yên hay dùng chữ “ nẫu “ để chỉ nhân vật thứ ba, hoặc là một người hoặc là nhiều người. Do đó, chữ “ dân xứ nẫu” là nói về 2 tỉnh này.

Các tỉnh miền Trung đều có các tháp do người Chiêm Thành xây, nhưng cái tháp ở Tuy Hòa nằm trên ngọn núi nhỏ bên dòng sông, dưới chân núi là phố xá, là đồng lúa; kế bên là cây cầu Đà Rằng dài 1100 mét bắt ngang sông Ba, được coi là dài nhất Miền Nam trước năm 1975.

Cầu Đà Rằng có 21 nhịp; từ câu ca dao “ Qua cầu ngã nón trông cầu. Cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu”  được đưa vào bài hát với lời ca “ Đà Rằng tên quen, nhịp cầu hăm mốt nỗi sầu hăm hai. “

Ngọn núi này có cái tháp Hời- tên gọi khác của Chiêm Thành, tên là Núi Nhạn và trên đỉnh có Tháp Nhạn. Nghe kể rằng thời xưa có nhiều con chim nhạn trú ẩn cho nên gọi là Tháp Nhạn.

Trong bài thơ của thi sĩ Phạm Thành Tài được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc Anh Còn Nợ Em nổi tiếng có câu “ Anh còn nợ em. Chim về Núi Nhạn “; có lẽ chỉ cái tên Núi Nhạn ở Tuy Hòa. Thi sĩ đã khuất bóng cho nên không biết chính xác điều này, chỉ biết thi sĩ người gốc Quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa, thời trước 1975 có thể cư ngụ Tuy Hòa một thời gian và cảm hứng viết thơ mà đưa hình ảnh Núi Nhạn vào thi ca.

Núi Nhạn và Tháp Nhạn nằm giữa thành phố Tuy Hòa, là địa danh nổi tiếng gắn bó với phố Tuy Hòa. Thật tiếc là năm 1998, người ta sửa mới lại Tháp Nhạn, làm mất đi nét cổ kính, rêu phong của cái di tích một thời vương quốc Chiêm Thành xa xưa. Nếu có cặp mắt nghệ thuật, làm việc cẩn thận để giữ lại nguyên gốc Tháp Nhạn thì sẽ thu hút nhiều du khách đến Tuy Hòa, để thưởng ngoạn kỹ thuật xây cất cái tháp của người Chiêm Thành xưa.

Nhìn bao du khách trong nước và quốc tế nườm nượp đến Hội An để ngắm mấy chục ngôi nhà cổ mà cảm thấy tiếc cho ngành du lịch Tuy Hòa!

Thời còn trung học, người bạn viết hai câu thơ “ Tuy Hòa ( Phú Yên ) non nước hữu tình. Sông Đà Núi Nhạn duyên mình nào phai.”  Chữ Sông Đà là sông Đà Rằng, cái tên gọi hạ nguồn của sông Ba, trước khi chảy ra biển.

Tỉnh Phú Yên từng được gọi là vựa lúa của Liên Khu 5 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định Phú Yên, Khánh Hòa. Đồng lúa Tuy Hòa tươi tốt, nhờ Đập Đồng Cam dẫn nước tưới từ thượng nguồn Sông Ba.

Nhà tôi gần Núi Nhạn, mà cũng sát sông Chùa. Gọi là sông Chùa vì sông Ba khi chảy từ trên núi phía tây được gọi là dãy Trường Sơn xuống biển; khi đến Tuy Hoa thì chia làm 2 nhánh. Nhánh nhỏ có cây cầu sắt 3 nhịp bắt ngang, và ngay chỗ này có ngôi chùa Kim Cang nổi tiếng sát chân núi cùng ngôi chùa Kim Long. Và sát bờ sông nhỏ này có tịnh xá Ngọc Phú- tên gọi ngôi chùa của tông phái Khất sĩ Minh Đăng Quang. Kế bên tịnh xá là ngôi nhà đầy kỷ niệm của tác giả.

Thời ấu thơ, mỗi mùa mưa là nước sông Đà Rằng dâng cao, tạo nên lụt lớn và lụt nhỏ. Hầu như mỗi mùa nước lớn là nước sông tràn vào nhà, kỷ niệm nước lụt ăn sâu vào tâm trí.

Từ nhà tôi đi bộ xuống biển chừng hai hoặc ba cây số, ráng tắm biển để tập bơi nhưng không giỏi vì mẹ tôi cấm tắm biển; lý do là vùng biển này có vài chỗ sâu làm cho nhiều người chết đuối trong đó có bà con của tôi và bạn thời trẻ.

Tuy Hòa của tôi có Núi Nhạn, có Tháp Nhạn, có cồn Ngọc Lãng trồng rau nằm giữa 2 nhánh cùa sông Ba trước khi ra biển, có cây cầu Đà Rằng, có đồng lúa xanh, có phố nhỏ êm đềm, có bãi biển và biển xanh, có rừng núi Trường Sơn kiêu hùng, có món bánh tráng, có nem nướng.

Khi viết xong bản Tuy Hòa Quê Anh, tôi mời ca sĩ Hương Lan hát và nhờ nhạc sĩ Đặng Xuân Thìn viết hòa âm, thu băng năm 1992 tại phòng thu anh Phạm Ngọc Sơn ở thành phố Oakland, California, trong cuốn CD Chiều San Francisco, phát hành năm 1996.

Ca sĩ Thái Châu nghe bài này và nói rằng Tuy Hòa có bài hát nghe cũng được. Anh nói rằng có mấy lần ra Tuy Hòa trình diễn, ở phòng ngủ  Vĩnh Đông Á có nhiều ma!

Khi thu âm xong, tôi nhờ nhạc sĩ Tùng Giang Mix dùm và anh kể rằng năm 1953 anh theo thân phụ là xếp ga Tuy Hòa; thời đó còn chiến tranh Việt Pháp; mỗi lần máy bay Pháp ném bom thì trên Tháp Nhạn có cái kẻng đánh báo động cho người dân biết mà trú ẩn.

Nhạc sĩ Châu Đình An kể rằng anh từng học ở trường Đặng Đức Tuấn trước năm 1963 và từng leo lên Núi Nhạn để ngắm cảnh Tuy Hòa.

Nhạc sĩ Phạm Mỹ Lộc tức là nhà phê bình âm nhạc Phạm Văn Kỳ Thanh thích bản Tuy Hòa Quê Anh. Anh kể rằng có lần ghé Tuy Hòa, ngồi quán ăn và hỏi thăm một cô gái về Trần Chí Phúc và cô ấy chỉ cho anh đường đi đến nhà tôi. Nghe chuyện này tôi thật cảm động!

Nói về nhạc đệm bản Tuy Hòa Quê Anh do các nhạc sĩ Hoa Kỳ trình tấu như tiếng ghi ta của Lorn Leber, tiếng vĩ cầm, tiếng sáo, tiếng trống tay và tài phối khí của Đặng Xuân Thìn. Giọng ca Hương Lan ngọt ngào; ca sĩ này chỉ thu âm có một lần và lần thứ hai thì chỉ sửa một vài chữ. Cho nên tiếng hát có được cảm hứng. Nó khác với nhiều người khi thu âm, ca đi ca lại nhiều lần thì cái hồn của tiếng hát bay mất.

Năm 1995 tôi về Tuy Hòa thăm quê thăm mẹ. Nhờ người quay Video, anh này dẫn tôi lên Núi Nhạn quay Tháp Nhạn và phong cảnh Tuy Hòa nhìn từ trên cao, rồi đến cầu Đà Rằng. May quá có xe lửa chạy tới, quay được cảnh ôm ghi ta khảy nhìn đoàn tàu rời xa. Cảm động nhất là đoạn phim tác giả ôm đàn hát bản Tuy Hòa Quê Anh cho mẹ nghe; năm sau 1996 mẹ qua đời.

Năm 2004, tôi làm đêm 25 Âm Nhạc Trần Chí Phúc tại San Jose, mời Hương Lan hát bản Tuy Hòa Quê Anh, nhờ bạn quay Video.

Bây giờ tôi học được cách ráp nối Video đưa lên Youtube. Tôi có nhờ bằng hữu chụp một số hình về Tuy Hòa thời này. Tôi muốn đưa hình ảnh cũ và mới của Tuy Hòa vào Video. Nhưng suy nghĩ lại, thì mình nên giữ cái nét xưa của Tuy Hòa. Thí dụ như hình Tháp Nhạn trước năm 1998 rêu phong cổ kính khác với hình Tháp Nhạn hiện tại. Và nên dùng các đoạn Video, vẫn có giá trị hơn là dùng hình.

Khi ngồi ráp các đoạn Video Tuy Hòa 1995 và Video 2004, tôi có dịp thả hồn về thời Tuy Hòa mấy chục năm trước. Mẹ và nhiều bằng hữu, bà con đã qua đời, cảnh đã đổi thay. Cầu Đà Rằng sơn màu bạc, Tháp Nhạn xưa nhìn không ra, nhà cửa mọc lên nhiều hơn.

Video ca nhạc Tuy Hòa Quê Anh đưa lên Youtube, hi vọng những người yêu Tuy Hòa, có kỷ niệm về Tuy Hòa năm xưa, nhìn lại một số hình ảnh. Và tiếng hát Hương Lan ngọt ngào, nhạc đệm du dương tả về phố Tuy Hòa- nơi tôi sinh ra và lớn lên.

Trong bài hát có ước mơ một ngày đưa người yêu về thăm Tuy Hòa; nhưng điều này chỉ là ước mơ. Và ước mơ thì bao giờ cũng đẹp.

Khi viết bài này, ngày Rằm Tháng Bảy năm 2023; lễ Vu Lan là dịp để nhớ về người đã khuất, nhớ kỷ niệm, trong đó có Tuy Hòa.

Mời quí vị nghe ca khúc Tuy Hòa Quê Anh:

TRẦN CHÍ PHÚC - TUY HÒA QUÊ ANH- HƯƠNG LAN HÁT

HOẶC

https://www.youtube.com/watch?v=TQh7Rr3Z4ig