Sunday, October 13, 2024
BÊN BỜ ĐẠI DƯƠNG (BẰNG SƠN)
Thưa các anh chị
Một sáng mùa thu lạnh BS chợt nhớ quê nhà em gởi các anh chị một nỗi niềm thương nhớ……
BS
Bên Bờ Đại Dương
Ôm nỗi niềm người viễn xứ tha hương
Thương quê mẹ bờ đại dương xa cách
Nghe sóng vỗ giữa trùng dương vắng lạnh
Lòng chợt buồn nhớ lại chuyện ngày xưa
Vẫy tay chào quê mẹ một chiều mưa
Xa cách mãi không hẹn ngày trở lại
Gọi hai tiếng Việt Nam lòng tê tái
Năm mươi mùa thu lặng gió heo may
Đứng bên bờ đôi mắt lệ sầu cay
Lòng nhung nhớ về phía trời xa thẳm
Không biết mẹ già nua khi chiều vắng
Có còn ngồi tựa cửa dưới trăng thu
Kiếp tha phương miền đất lạnh sương mù
Con vẫn nhớ về quê hương nước Việt
Thu xứ lạ lòng gợi buồn da diết
Mẹ ơi con luôn vẫn nhớ quê nhà
Bằng Sơn
DỐI LÒNG (NGUYỄN VẠN THẮNG)
DỐI LÒNG
ÔNG BẢY LẤC (DƯ THỊ DIỄM BUỒN)
ÔNG BẢY LẤC
DTDB
Cơn gió bấc cuối mùa làm cây cối quanh nhà ngả nghiêng xào xạc.
Bụi tre gai ngoài vàm rạch cọ vào nhau nghe kọt kẹt. Nắng trưa chói chang
nhưng không hanh và gắt như mùa hè trải trên lá hoa cây cỏ, trên mặt sông
nước đã lớn đầy. Nước đầy sông, sóng lăn tăn xô đuổi nhau chạy vào bờ dất
bập bùng lách tách. Mấy con chim trả trẹt có bộ lông xanh chen đen óng
mượt, đậu trên đám cây bần có cành gie ra mái nước ở mé sông dưới nhà.
Bãi sình non do phù sa bồi đắp ở phần đất ông Hai Ngô xanh um đám lục
bình mà hoa nở hồng tím cả một vùng. Đó cũng là nơi nương náu tốt của
bọn thủy sản như: cá bống các, tép thợ rèn, tôm lóng…
Con nước ròng vào buổi trưa là thời điểm thích hợp nhứt cho những
người đi bắt cá như là xúc, cào, dỡ đăng, dỡ chà… Mợ Hai Trò cùng đứa
con gái ống quần xăn lên gần tới háng. Và cột chặt ngang bên trên bằng dây
chuối khô. Đó là những người đàn bà đi xúc, đi tát ở dưới nước thường cột
như vậy để phòng đỉa không chun vô quần mằn mò vào chỗ kín thì tai hại!
Chuyện như vậy không phải không có xẩy ra. Mà tin đồn bà nầy nói với bà
kia, ông nầy kể ông nọ để nhắc nhở mấy bà mấy cô, hoặc vợ con họ trước
khi chầm nghịch dưới nước để xúc, để tát, hoặc cào… Nhứt là ở ruộng
mương, ao, đìa mùa nước nổi trong ruộng đỉa theo nước ra sông, ra rạch…
Cho nên phải hết sức cẩn thận.
Họ bảo rằng bà tư Rỗ, vợ của ông Bảy Lấc bên vàm ở cuối làng. Tuổi
đã ngoài sáu mươi, bà đã tắt đường kinh từ ba bốn năm trước. Một hôm đi
xúc cá về thì chiều tối đêm đó bà bị có kinh trở lại. Hôm sau bà đi xuống bà
mụ Tiền ở xóm dưới mua thuốc điều kinh, hoặc nhờ bà mụ bày biểu cho bà
làm sao cho nó hết. Chớ già rồi mà còn có kinh, đây rồi dính bầu làng xóm
sẽ cười nín thở, cười chết luôn! Bà mụ Tiền đã đở đẻ sanh con cho sản phụ
trong thôn xóm và các làng lân cận, nổi tiếng giàu kinh nghiệm. Gặp đứa bé
có nhau choàng, những sản phụ có thai ngược cũng không làm khó được bà.
Vì bà đã làm cái nghề mụ trên hai mươi năm ở vùng nầy rồi.
Sau khi được bà mụ Tiền xem xét bên ngoài, bên trong cho bà Tư Rỗ
xong. Bà mụ Tiền châu đôi chân mày liễu, ra chiều nghĩ suy. Bà bảo:
- Lạ thiệt! Tôi không thấy gì bịnh hoạn xảy ra từ bên trong chỗ sanh
sản của bà, để bà phải có kinh lại. Mùi tanh cũng không phải mùi máu có
kinh mà ra? Đâu bà nói cho tôi nghe trước ngày có lại kinh, bà đã ăn những
thứ gì? Làm gì? Có bị té, bị đánh, hay bị đau đâu ở bên dưới, hoặc chỗ nào ở
bụng... không?
Bà Tư Rổ suy nghĩ một hồi, nỗi lo lắng hiện rõ trên nét mặt. Bà lắc
đầu bảo:
- Không, tôi cũng ăn cơm cá thường thôi. Cũng không bị té, hay bị
đánh, hoặc đau đâu cả. Bụng cũng không thấy gì lạ chỉ hơi en en. Mùa nầy
chưa phải mùa cày cấy ruộng nương, đào khoai hay cuốc đất nên tôi cũng
không làm việc gì nặng nhọc hết bà à…
Bà mụ trầm ngâm nét mặt. Con Thúng đang ngồi kế má nó là bà Tư
Rổ. Con nhỏ ốm còi cộc, đèo ngắt đã 14 tuổi mà nhìn vào chừng khoảng 9,
10 tuổi thôi. Không biết má nó đến bà mụ Tiền khám bịnh gì. Nhưng nghe
hai người từ trong buồng khám bịnh trở ra hỏi han, nói chuyện với nhau.
Ngồi kế bên mẹ, nó vọt miệng nói:
- Má à, bộ má quên rồi sao? Bữa đó mình có đi xúc cá ở bên cồn bần.
Lúc trở về còn bị mắc mưa. Củi phơi ngoài sân không ai ôm vô ướt hết trọi,
nên ba càm ràm củi chụm không cháy đó. Má nhớ chưa?
Bà Bảy Lấc liền quay qua bà mụ:
- Ờ con nhỏ nầy nhắc tôi mới nhớ. Sáng ngày có kinh trở lại tôi đi
xúc cá ở dưới sông cả buổi. Hay tại nước vô nên tôi mới bị như vậy?
Bà mụ Tiền lắc đầu rồi kề tai bà Bảy Lấc nói nhỏ một hồi. Rồi bà còn
ân cần bảo thêm:
- Bà nhớ làm y theo lời tui dặn, và về làm ngay kẻo không kịp đó. Trị
bịnh còn hơn chữa cháy... nhớ nghe bà Tư!
Bà Bảy Lấc gật đầu cảm ơn bà mụ lia lịa. Tay vội kéo cái khăn rằn cũ,
trở màu mắm ruốc luông luốt trên cổ, bà trùm lên tóc lật đật lôi con Thúng
hối về nhà cho lẹ.
Mặc dù trưa nắng gay gắt, nhưng nhờ có gió lồng lộng và hơi nước
sông bốc lên nên dễ chịu. Ông Bảy Lấc đang ngồi chẻ lạc tre cho trường
học. Để cuối tuần cùng đám thanh niên và dân trong xóm ra lợp lại mái
trường bằng lá đã bị dột, cho trẻ con mùa tới học không bị ướt mưa.
Vừa bước qua hàng rào bông bụp lá xanh mượt mà trước nhà. Bờ rào
không chăm sóc mà thiệt tốt tươi. Hoa nở quanh năm, nào hoa màu hồng,
màu vàng, màu đỏ… nở rộ chen lẫn trong những cành lá. Thấy chồng, bà Tư
đi mau hơn, và lại thẳng đến chỗ ông ngồi, khum lưng xuống nhỏ to bên
tai... đủ cho ông nghe.
Ông Bảy Lấc buông dao và mấy cọng tre trên tay rơi xuống đất. Mắt
ông mở to chưng hửng nhìn vợ! Nhưng không nói không rằng, ông vội đến
thúng lúa hốt một vùa đem ra sân. Miệng túc túc rải lúa cho gà ăn. Đám gà
háu ăn đang bươi đâu đó chạy đến mổ thóc lia lịa còn kêu la con cót. Con gà
trống cồ sừng lông đầu, vươn mỏ vàng mồng đỏ chót, ngổng đầu lên cất
tiếng gáy ó o như muốn thị oai với đám gà mái, gà con… Bầy gà mổ thóc
vây quanh dưới chân ông bảy Lấc. Bất thần, ông khom lưng tay chụp nhanh
con gà giò. Đám gà còn lại sợ hãi con thì chạy, con thì nhảy cỡn lên la oang
oác...
Con gà bắt được ông Bảy bẻ cổ chết liền. Mấy đứa con thấy cha bắt
gà mừng mở cờ trong bụng. Chúng tưởng hôm nay nhà sẽ có cháo và thịt gà
xé phai trộn chuối cây xắt ghém rắc rau răm ăn một bữa đã đời. Nhưng
không, con gà vừa bắt để nguyên lông lá, ông Bảy cho vào cối đá quết bể hai
bể ba máu me tùm lum... Ông trút gà vừa giã vào cái nồi đất. Bà Bảy bưng ra
chén giấm để ông tráng cái cối rồi đổ hết vào nồi có gà. Bà đã dùng 3 cục
gạch và nhóm lửa làm cái bếp nhỏ trong nhà tắm để nấu nồi gà!
Ở thôn quê, người ta thường cất nhà tắm gần mé rạch hay mé mương
để xách nước đổ vào lu vào hũ cho gần. Và nhà tắm luôn được cất ở phía sau
nhà ở. Bà Bảy đã cụ bị sẵn cái manh đệm, và cái ghế đẩu lớn để nằm ngang
(lò lửa lọt lòng trong 4 chân ghế). Nghe lời bà mụ Tiền bày biểu, bà bảy Lấc
không mặc quần lên ngồi chòm hõ lên chân ghế… Nồi giấm gà bên dưới
được đốt lửa rêu rêu sôi sùn sụt. Hơi giấm nấu gà bốc lên… Chừng 7, 8 phút
sau con đĩa từ bên trong bò ra! Sau đó bà Bảy Lấc hết có đường kinh và
khỏe mạnh lại như thường...
Trong thôn ai cũng biết ông Bảy Lấc đã gần sáu mươi, lớn hơn bà vợ
đâu hai ba tuổi. Ông có dáng người khỏe mạnh, cao lớn, da dẻ hồng hào
quốc thước. Ông có khuôn mặt vuông (chữ điền), mũi thẳng, mắt sáng nằm
dưới cặp chân mày rậm. Tóc đen lấm tấm trắng mà người ta thường gọi là
tóc muối tiêu. Hàm răng ông có lẽ nhờ lúc nào ông cũng dùng vú cau chà lên
nên bóng ngời và trắng hếu. Nhưng viền giữa hai cái răng thì bị đen vì khói
thuốc ông hút nhiều. Và thỉnh thoảng ông cũng ăn trầu chốc chách, bừa đâu
phẹt đó. Đôi khi vợ ông càm ràm đưa lon cho ông nhổ vào… Nhưng rồi bà
Bảy cũng không thay đổi được chồng nhổ cổ trầu tùm lum quanh nhà...
Ông Bẩy để hàm râu cá chốt. Con nít trong xóm sợ ông lắm, vì khi
chúng phá phách gì thì cha mẹ thường hăm he: “...Nói không nghe lời coi
chừng ông Bẩy Lấc bắt nhậu rượu đó…” Nhưng thật ra ông Bảy Lấc rất
thương trẻ nhỏ, ông thường hái cây vườn chín cho chúng. Đôi khi có dịp đi
ra thành thị về ông cũng mua một túi kẹo có cây cầm quấn giấy kiếng trong
đủ màu sắc, xanh, đỏ, tím, vàng… Nên khi biết ông ra thành về là chúng kéo
nhau chạy theo ông ít nhứt cũng 3, 4 đứa. Vào nhà, chưa kịp thay đồ ông lật
đật mở kẹo cho mỗi đứa một cây cho chúng mừng. Kẹo màu cam thì thơm
cam, màu bạc hà thơm bạc hà, màu chanh thì thơm chanh… Ông cũng để
dành kẹo lâu lâu, lúc nào hứng chí đêm trăng sáng ông trải đệm trước sân
nhà kể chuyện đời xưa, chuyện ma cho lũ con ông và mấy đứa trẻ hàng xóm
nghe xong thì ông đãi chúng kẹo.
Những người già cả trong thôn đều biết ông Bảy Lấc hồi còn để
chỏm, bé tí teo cho đến khi ông mặc quần xà lỏn, đầu đội nón đệm tưa vành,
chân đất, cái lưng mốc cời. Nhưng chú ruột ông là người biết chuyện về ông
rành nhứt. Chú theo vai vế là em của ba ông Bảy. Chớ ông và chú ông hai
người cùng tuổi và ông chú sanh nhỏ tháng hơn ông.
Chú Út của ông Bảy Lấc thường kể về thằng cháu của mình rằng:
“...Cái thằng Bảy Lấc là tướng trời sai xuống! Lúc nhỏ nó phá phách
không ai bằng. Nhứt là vườn bà Cả Kẹo, trái cây nào ăn được, trái cây nào
chín, cây nào ngọt đều bị nó xơi tái trước hết… Nên bả không ưa nó, nhưng
những gì nặng nhọc bả đều kêu hú nó giúp. Như là đẩy chiếc xuồng mắc
cạn, mé dùm mấy nhánh cây, đuổi dùm bò, trâu chạy lạc vào đất bả… Làm
xong bả cho mấy cắc, nó không lấy mà nói “Tôi không lấy tiền, chỉ làm dùm
bà. Nhưng tôi thích ăn nhãn vườn bà…” Bà Cả Kẹo sợ nó sẽ đến cốt (lén
hái) hết cây nhãn chín, bả hái bán sẽ nhiều tiền hơn, nên xuống nước nhỏ rồi
cho thêm mấy cắc nữa…
Về mùa đông, tờ mờ sáng sương còn lạnh người ta co ro trong hai ba
lớp áo. Nhưng sức trai tráng đâu biết lạnh, nên đời nào nó mặc áo. Với cái
lưng trần tấm thớt đình của nó là bàn tiệc thịnh soạn cho đám muỗi và bù
mắc (loại muỗi nhỏ như hạt mè đen) cắn. Nó liền lấy cái áo vắt vai phủi lẹp
bẹp trên lưng để đuổi chúng đi. Lúc nó trốn nhà đi lính Bạt-Tây-Răng của
Tây, thì anh chị Hai tôi còn khỏe mạnh. Mấy năm đầu nó còn gởi thư từ bên
Ma-ní hay phương trời xa tí tè về thăm gia đình. Rồi từ đó về sau biệt tích
luôn cho đến ngày anh chị tôi lần được qua đời cũng không ai làm sao biết
nó ở đâu mà báo tin. Họ hàng tưởng nó đã chết mồ hoang mả lạnh ở xứ nào
rồi. Nhưng mấy chục năm sau bất ngờ trở về còn dắt thêm con vợ…”
Chú Út Tứ của ông Bảy Lấc, nhắc đến đó thì nét mặt tươi vui. Ông ta
gật gật đầu, cười cười có vẻ hài lòng lắm. Ông nói tiếp:
“...Mèn ơi, tôi thấy người Việt Nam và nhứt là người dân quê miền
Nam của mình dù có đi năm non bảy núi, năm châu, bốn biển… Khi trở về
thì tánh tình họ cũng không đến nỗi nào. Cái bản chất thiên lương, nhân hậu,
chân tình, bộc trực… trong lòng họ vẫn còn. Điển hình là thằng Bảy Lấc
cháu của tôi đó...”
Thật vậy, từ ngày ông Bảy Lấc về đây chòm xóm láng giềng thêm vui
vẻ sinh động. Ông hô hào thanh niên, đàn ông, đàn bà làm vần công với
nhau. Thí dụ như đám ruộng ông Tài, ruộng bắp bà Chỉ, đám mía anh Tân,
bờ cỏ nhà chị Tám… Ho hẹn với nhau rồi xúm lại làm chung giúp cho chủ.
Sau đó thì tới đám khác sẽ được trả công… Cứ xoay vần như vậy mà dân
trong xóm thường có dịp gặp nhau, có dịp làm chung, ăn chung… Và nhứt là
giờ nghỉ trưa thì ông Bảy Lấc có rất nhiều đề tài để kể cho những người làm
chung nghe. Nên họ rất là vui vẻ và thích thú lắm. Gần Tết thì ông đề nghị
làm heo chia thịt, đổi lúa. Tráng bánh vần công… Nhờ thế mà dân trong
thôn làng ông Bảy Lấc càng thân thiết với nhau hơn.
Ông Bảy còn lựa thanh niên khỏe mạnh trong xóm, trong làng hợp lại
thành toán. Để khi nhà ai ươn yếu cần như chèo ghe, bơi xuồng, khiêng vác,
những chuyện nặng nhọc thì có người đến giúp đỡ. Ông tập đạo tì cho họ
phòng khi trong làng có người qua đời thì họ đến phụ, và đưa quan tài ra
phần mộ… Ông luôn hô hào xây trường học cho trẻ em, bắc cầu, đắp đường,
cất nhà lồng chợ cho người bán buôn không bị mưa, nắng… Chuyện gì làm
được với sức mình cho bà con trong thôn làng ông Bảy Lấc chẳng chút nê
hà, và từ nan...
Ông Bảy Lấc xa rời làng quê, nơi chôn nhau cắt rún đã mấy chục
năm. Khi trở lại thì biết bao nhiêu đổi thay từ người và cảnh vật thời gian dài
và vận nước thăng trầm nổi trôi. Người già thì đã qua đời gần hết. Người còn
sống sót thì gần đất xa trời, già cúp bình thiếc. Trẻ nhỏ lớn lên cũng ông
ngoại bà nội hết rồi. Cái cồn bần bên kia nhà thờ lúc ông đi chỉ mới nhú lên,
lưa thưa dăm ba cây bần, bãi sình thì lác đác máy cụm rau mát, lục bình, cỏ
lông... Khi ông trở lại bãi cồn tân bồi nầy vừa rộng vừa dài ngút mắt. Bần
dầy đặc xanh um bần xanh thâm thẩm chiếm gần đến nửa sông. Và những
ngôi nhà sàn cất cao hơn mặt nước cả thước của dân chài lưới ở trên cồn
cũng chiếm hết bãi cồn dài không còn nhiều chỗ trống.
Khi ông trở về thôn làng mình, thì cha mẹ không còn nữa! Chỉ còn họ
hàng cô Sáu Tâm, chú Út Tứ và hai đứa em gái của ông là cô Tảy Liên và cô
Chín Lan. Hai cô em nầy lúc ông đi lính họ chưa được 10 tuổi. Bây giờ đã là
bà ngoại bà nội của bầy cháu 6, 7 đứa. Nhớ lúc mới về đây, vợ chồng ông
Bảy Lấc tạm ở với gia đình cô Chín Lan. Đứa em Út lãnh phần hương hỏa
của cha mẹ để lại. Biết rằng anh em tình như thủ túc, nhưng chén trong sóng
còn khua nên chị dâu em chồng ở lâu ngày sẽ sanh lòng nghi kỵ rồi lời qua
tiếng lại sẽ mất hòa khí anh em không tốt. Ông Bảy Lấc cũng biết như vậy,
nhưng vợ chồng ông vốn liếng không được bao nhiêu. Đất đai cũng không
có một cục để chọi chim… Thì dù muốn cất một cái nhà lá nhỏ, vách tre... đi
nữa với vợ chồng ông cũng là một việc hết sức khó khăn!
Một hôm vào ngày kỵ cơm của cha. Ngoài anh em ông Bảy là gia
đình cô Tám Liên, cô Chín Lan ra, còn có chú thím Út Tứ, vợ chồng cô Sáu
Tâm và chòm xóm láng diềng cũng 5, 6 cặp. Đàn ông, con cháu thì ngồi hai
bàn tròn. Mấy bà phụ nữ thì ngồi trên bộ ván gõ dài bên cạnh. Thức ăn ê hề
có hai cô em, vợ ông Bảy và mấy bà hàng xóm giúp nấu từ sáng dọn lên cỗ
bàn. Nhìn món cá rô mề cặp gắp tre nướng vàng nằm gọn trong dĩa nước
mắm bằm xoài non và mấy khoanh ớt sừng trâu đỏ, thì cô Tám Lan chợt nhớ
đến mẹ. Vừa dùng đũa dẽ cá ra dầm vào nước mắm cho thấm, cô vừa nói:
- Lúc sanh thời má tui thường bảo, tao chết cúng giỗ tao đừng có nấu
nướng nhiều thứ ê hề chi cho bừa bộn. Tụi bây cứ nướng con cá rô dầm
nước mắm xoài và chén cơm trắng là đủ rồi. Bà già có lộc ăn, hôm qua tui
mua được của vợ thằng Ba Hủ tát đìa bán mớ cá rô mề ngon quá. Mời thím
Út, cô Sáu và quý chị cầm đũa tự nhiên nghen…
Cô Tám Liên chợt mỉm cười và nghĩ thầm trong bụng. Cô nhớ hồi
mới về đây, bà Tư Rổ (vợ ơng Bảy Lấc) chị dâu cô ngang như cua. Bả làm
điều gì sai nhưng lúc nào cũng cho là mình đúng, là phải… Bà ấy người
miền ngoài nên có giọng nói cứng khó nghe, vóc dáng nhỏ thó, ốm gầy, chít
choắc… Nhưng được cái là bà siêng năng, chịu khó, chịu cực, lanh lẹ, vui vẻ
bãi bui. Người bả cũng hiền lành, dễ xiu lòng, hay làm việc thiện, hay giúp
đỡ kẻ khác…
Có lần ông Bảy Lấc kể về bà vợ mình với gia đình: “Lúc giải ngũ sau
thời gian dài làm lính viễn chinh được trở về quê hương. Thay vì về thẳng
nhà, tôi theo ba người bạn thân ở miền Trung rủ rê ghé thăm miền quê
hương của chúng rồi trở về quê Nam của mình cũng được. Không ngờ ra
nhà bạn được hai ngày thì tôi bị trận bịnh thập tử nhứt sanh tưởng tiêu tán
đường rồi! May nhờ chị của thằng bạn tận tình chăm sóc giúp đỡ… Nam nữ
gần gũi dễ quen hơi hám mà xúc cảnh sanh tình. Tôi thấy bả là gái lỡ thời,
nhan sắc cũng không có… Nhưng được cái là tánh tình bả cũng tốt, hiền
lành biết lo cho người thân nên tôi mới ưng bả. Chớ bả xấu òm hà… Mấy
con đầm ở nước nầy, nước kia... tôi quen đẹp như tiên sa phụng lộ nhưng tôi
đâu có thèm…”
Cô Tám Liên thấy anh mình nhận xét vợ rất đúng. Chẳng những
không nhan sắc mà chị dâu mình công việc bếp núc bộc liễu cán mai. Vậy
mà lúc nào bả cũng khoe là mình nấu đồ ăn Quảng, đồ ăn Tiều, đồ ăn Pháp
ngon số “zdách” trứ danh vùng bà ở. Có lần cô Chín Lan bảo:
- Nói ra thì vấp phải lời người đời: Em chồng nói xấu chị dâu. Nhớ
lúc mới về, chị Bảy tui nấu nồi canh chua lươn bắp chuối cho cả nhà ăn buổi
cơm chiều. Lúc tui đi thăm bà con bịnh ở làng bên chưa về kịp. Khi cả nhà
ngồi vào bộ ván mít ăn cơm. Mùi tép cháy nước dừa bồng con rắc thêm tiêu
cà, hành lá xắt nhuyễn bát ngát vân vê. Thêm mùi đậu bún xào với thịt ba rọi
mà trước khi rời nhà tui đã nấu xong. Chỉ còn nồi canh chua để bà chị dâu ở
nhà nấu. Vì canh chua lươn ăn nguội sẽ không ngon, cứ hâm nóng đôi lần thì
lươn bị bể ra. Nhìn hai tô canh chua bắp chuối có để ngò gai, lá quế, ớt nồng
nàn do bà chị dâu nấu trông thật bắt mắt. Ai không đói bụng cũng muốn làm
mấy chén. Dù tất cả các món ăn trên mâm không phải cao lương mỹ vị.
Toàn là những món ăn bình dân, nhưng rất hợp khẩu với dân quê… Nhưng
trừ hai vợ chồng anh Bảy tui ra. Vợ chồng tui và mấy đứa nhỏ dội ngược!
Không ai tự nhiên ăn canh chua vừa húp vừa chan ngon lành và tự nhiên như
vợ chồng anh chị tôi!
Cô Chín Lan nói đến đó mắt liếc liếc bà Bảy Lấc, rồi tiếp:
- Không phải canh chua nêm mặn quá, chua quá, ngọt quá hay lạt
nhách lạt nhẽo... Mà là những khúc lươn trong canh da đóng một lớp bợn
dầy màu trắng đục, chứng tỏ lươn làm không được cạo sạch nhớt...
Mèn ơi, ấy vậy mà khi cô Chín Lan hỏi:
- Chị Bảy có lấy tro bếp vuột cho sạch nhớt mấy con lươn, trước khi
nấu không?
Bả Tư Rổ mở to mắt, và hết sức ngạc nhiên trả lời cô em chồng:
- Tại sao vậy? Cô cũng biết cá, lươn… ở dưới nước suốt đời có gì dơ
đâu? Chỉ cần rửa cho sạch cát đất thôi cần gì phải cạo, phải vuột… Miền tôi
ở có cá hồ, cá suối, cá khe, mạch nước trong leo lẻo... Mấy con cá sạch sẽ
nên tôi làm cá trê, làm lươn không cần vuột với tro bếp như cô nói bao giờ
cả, cô à...
Cô Chín Lan lắc đầu cười ngất. Cô tìm cách nói xuôi, nói khéo để bà
chị dâu của mình không bị buồn và mặc cảm:
- Vậy sao? Nhưng chị ơi, quê chồng chị đây là miền Nam có sông dài
mút mùa từ làng nầy qua làng khác... Kinh rạch nhiều đến nổi chủ vườn
không đếm hay để ý có bao nhiêu cái ở đất mình. Trong nước sông, nước
rạch, nước kinh… quanh năm có đất phù sa màu đục. Cho nên con cá, con
lươn ở vùng nầy phải làm cho sạch nhớt không thì nó tanh lắm. Nhứt là cá
trê, cá chạch, cá tra, lươn… Mọi thứ cá đen (ở ruộng), cá trắng (ở sông), cá
biển… không có vẩy thì cũng phải cạo rửa cho sạch sẽ trước khi nấu. Còn cá
có vẩy thì phải đánh cho hết, và cạo cho sạch nhớt. Như vậy ăn mới mạnh
miệng, ăn mới ngon đó chị Bảy à…
Bà Tư Rổ quay mặt chỗ khác, cãi chày cãi cối:
- Vậy là cô nói tui ở dơ hả? Người ta thường nói: “Ở dơ sống dai hơn
ở sạch” cô ơi. Cho nên cá có vẩy như cá rô, cá lóc… tui cũng thả vô kho
đại, nấu đại. Khi cá chín vẩy tự động rớt ra chìm xuống đáy nồi…
Cô Chín Lan há hốc miệng, tròn xoe mắt, nhìn chị dâu:
- Thần Hoàng Thổ Địa ơi! Như vậy mà chị cũng rống cổ nói cho
được. Chị không sợ hàng xóm nghe thấy được sẽ cười sao? Làm ơn đừng có
làm cá kiểu đó nữa nghe. Tui thật sự chạy tét chị rồi. Nếu chị làm sai thì
nhận rồi sửa. Chớ có ai đem chị lên đoạn lầu đài đâu mà cãi ngược cãi xuôi
như vậy… Rồi mai mốt làm sai ai mà dám chỉ cho chị nữa…
Bà Bảy Lấc thấy cô em chồng cau có mặt mày, thì cười hả hả, cười
chảy nước mắt... Còn hụt hẫng trong tiếng cười, bà bảo:
- Tui giỡn với cô chớ cá có vẩy thì tui phải đánh sạch. Bởi vẩy cứng
ngắt làm sao ăn được. Nếu tui có làm sai điều gì thì làm ơn chỉ, tui sẽ sửa.
Tui sẽ không giận mà còn cảm ơn cô không hết nữa đó… cô Út.
Cô Chín Lan biết chị dâu mình vụng về nấu nướng. Nhưng không đến
nỗi hết thuốc chữa. Dầu sao bả cũng biết phục thiện… Nhưng trong bụng cô
vẫn còn thấy ghét cái giọng trả treo của bả. Nên cô nguýt dài bà chị dâu
không quên lẩm bẩm trong miệng. Thiệt là “Vô duyên không tiền mà
thưởng/ Không lạp xưởng mà cho…”
Nhà hương hỏa vợ chồng cô Chín Lan đang ở và săn sóc sau ngày
cha mẹ qua đời khang trang rộng rải, trồng nhiều cây ăn trái. Vợ chồng cô
làm ăn chắc mót mua được 5 công vườn và 1 mẫu ruộng ở xóm trong. Bây
giờ anh trai cô trở về… Vợ chồng cô trong bữa giỗ hôm nay có mặt vợ
chồng ông chú, vợ chồng cô ruột, và bà con chòm xóm. Họ tuyên bố trước
mọi người là giao lại cho anh chị dâu mình từ rày lãnh phần hương hỏa thờ
cúng ông bà, cha mẹ… Vì anh em họ sống chung với nhau trong nhà nầy đã
mấy năm rồi. Ông bà thường nói “Nhứt trưởng nam, nhì con út” (hai vai vế
nầy ở những gia đình miền Nam thường được hưởng phần hương hỏa của
cha mẹ để lại).
Vợ chồng ông Bảy Lấc lúc mới về đây không có mống con nào.
Nhưng không biết có phải gặp thiên thời địa lợi nhân hòa không, mà hai năm
sau bà Bảy sanh liền tù tì mỗi năm mỗi đứa. Để bây giờ họ đã có 4 đứa con
(hai gái, hai trai). Ông Bảy Lấc là lính Viễn chinh đi đây đi đó, lịch lãm biết
nhiều việc ở xứ nầy xứ kia. Người trong thôn làng tưởng ông là người không
tin dị đoan. Nhưng không phải vậy, vợ chồng ông ăn ở với nhau bảy tám
năm mới có con. Ông bà sợ “xấu hái” nên bà tên Rổ, đặt cho con gái tên
Thúng con trai tên Nia, con Sàng, thằng Út Quảo. Ông bà nghĩ đặt tên xấu
xí như vậy để không bị “Những người khuất mặt khuất mày” quở! Và sẽ
được phù hộ cho những đứa con sanh sau đẻ muộn của ông bà được ăn
ngoan, chóng lớn… nên người tốt.
Chú của ông Bảy Lấc cũng thường nói với xóm chòm là cháu dâu ông
(bà Bảy Lấc) là người hay trở chứng ngang ngược, độc tài. Nhưng nhờ sự
thương yêu đùm bọc của họ hàng nhà chồng. Nhứt là hai cô em gái thương
anh chị và các cháu mình rất mực. Có lẽ nhờ thế mà bà Tư Rổ bắt chước cái
tốt, sửa đổi, phục thiện, biết sống và học hỏi nhiều điều hay lẽ thiệt của gia
đình bên chồng, chòm xóm, láng diềng... Bà lại cần cù siêng năng, thương
và săn sóc chồng con chu đáo. Nên cô em Chín Lan mới không còn lo cho
anh chị và các cháu nữa… Vì vậy vợ chồng cô mới yên tâm trao quyền thừa
hưởng hương hỏa của cha mẹ để lại cho anh và chị dâu mình.
Ông Bảy Lấc ở ngôi nhà hương hỏa của cha mẹ để lại kế vàm rạch
Móc Mang. Sát bên nhánh sông Tiền Giang nước ngọt quanh năm và cho
nhiều phù sa lấp loáng trong dòng nước lớn chảy vào. Nhờ thế mà cây trái ở
vùng họ năm nào cũng trúng mùa, trái lớn, ngon ngọt hơn những làng lân
cận… Tôm, cá, ốc gạo, cua đinh, càng đước… Nói tóm lại thủy sản vùng
ông ở thật dồi dào đủ loại và ngon, hiền hơn những vùng khác.
Tới mùa xuôi con nước. Ngồi nhà nhìn ra, ông Bảy thấy được ghe
cào, ghe lưới… cùng những người bắt ốc gạo, bắt hến, mò cua, bắt cá…ở
đuôi cồn bên kia sông. Nhà gần sông lớn nên sáng chiều ông thấy và nghe
được tiếng tàu sình sịch kéo ghe chài chở cá, chở gạo, chở mắm, đồ gốm...
Ghe thương hồ vầy đoàn từ miền Hậu Giang lên các tỉnh thành bán buôn đổi
chác… Những câu hò lơ trữ tình đối đáp của nam nữ trên các ghe thương hồ
văng vẳng trên sông trong những đêm trăng sáng. Ông không phải là thi
nhân, nhưng đôi lúc ngoại cảnh, êm đềm, cùng niềm yêu thương đùm bọc
của họ hàng bên nội, bên ngoại, chòm xóm… khiến tâm hồn ông cũng bất
chợt thương cảm bâng khuâng. Dù ông biết rằng mình là người thô lỗ, tay
cày tay cuốc, cằm kiếm, cằm súng... Ông là người có cơ hội đi đó đi đây gần
khắp năm châu, bốn biển… Ông cũng là người từng trải biết được ít nhiều
cái giàu có, cái quyền quý, cái đẹp, cái sang… của xứ người ta. Nhưng trước
cảnh quen thuộc nơi sanh ra và lớn, đã cho ông Bảy rất nhiều hồi ức đẹp của
thuở thiếu thời gắn bó bên cha mẹ, anh chị em trong thân tình gia tộc. Cộng
vào hoàn cảnh xã hội đạo đức hài hòa của miền Nam thuở đó… Thì làm sao
không gợi vào lòng ông cái êm đềm trong niềm thương nhớ xa xôi…
Ông bà Bảy nghe lời, và rút kinh nghiệm theo vợ chồng hai cô em.
Nên trong vườn, họ đốn bỏ những cây già, chiếm nhiều đất, mà không cho
nhiều trái. Trồng thế vào những cây mới loại chiết nhánh nên mau có trái và
nhiều huê lợi. Còn chuối, rau cải… thì họ vẫn có bán thường xuyên. Nhờ thế
mà gia đình ông Bảy Lấc có nếp sống sung túc… Ông là người tháo vác
năng động, tánh tình ngay thẳng, chân thật và hết lòng giúp đỡ chòm xóm
láng diềng. Vì thế ông Bảy được dân trong làng rất tín nhiệm. Ông lại thông
thạo nhiều việc như là viết dùm lá thư khiếu nại xin hoãn nợ thuế làng vì mất
mùa. Làm giấy vay nợ trả góp cho Chánh Phủ. Dân mua ruộng đất truất hữu
(Chánh Phủ mua đất, ruộng của chủ điền thổ, rồi đem bán lại cho dân nghèo
trả góp giá phải chẳng theo số họ thu lợi vào) Như vậy là một trong những
hình thức của Chánh Phủ giúp đỡ cho dân...
Trời trong, nắng lung linh rọi trên chùm lê nhánh mận. Gió đưa nhẹ
hương thơm lá hoa cây cỏ làm dễ chịu lòng người. Thằng Năm Tửng mặc
cái quần lính cũ mèm. Được má nó chầm khiếu mấy lỗ ở đái, và ở ống tưa
lai. Nó đã khoe với bạn bè là cái quần nầy của ông Bảy Lấc cho ba nó. Ông
già để dành mặc đi chợ hoặc đi ăn giỗ trong chòm xóm. Quần cũ nhưng mặc
cũng được mấy năm trời. Nay đã bị rách nhiều chỗ và lem luốc mủ cây. Má
nó đem vá lại và đảng ngang (cắt ngang) hai ống quần gần đầu gối, may lại
thành quần cụt lỡ cho nó. Thằng Tửng thích lắm, vì cái quần rộng rãi. Phải
nói cái quần rộng quá so với nó thì đúng hơn. Cho nên mỗi lần mặc, nó phải
lấy sợi dây chuối lòn vô mấy cái dây khuy kết trên lưng quần buộc chặt lại.
Nếu không thì thân mình ốm tanh ốm hôi, như con cò ma và cái bụng như
con cóc chửa của nó có bự nhưng cũng sẽ làm cái quần tuột luốt.
Như vậy là hôm nay nó cũng hơi có da có thịt, khá rồi đó. Lúc trước
thằng Tửng ở trần đưa xương sườn xương sống như bộ xương cách trí của
nó lùng bùng trong lớp da trần mốc cời. Mới nhìn nó ai cũng tưởng thằng
nầy bị ốm đói. Má nó nghe biết ai tưởng, và nói con mình như vậy thì bà
Năm Tưng má nó chẳng những không giận mà cười ngất:
- Trong bầy còn tui, thấy thằng Tửng ốm lòi xương sống họ cứ tưởng
nó không ăn. Nồi ơi thằng đó ăn nhiều nhứt… Ăn tô, ăn tượng, ăn mạnh
cũng không thua gì Tạ Hầu Đôn. Và đừng tưởng ròm rĩnh như vậy mà yếu
đuối nghen. Nó đội giạ lúa chạy te te chớ không chơi đâu...
Thiệt má nó nói không sai. Thằng Tửng ăn mạnh lắm. Nó ăn cả tượng
cơm trắng với mắm chưng cùng mấy trái dưa đèo hái còn chưa ráo mủ. Hoặc
ăn cả nửa tá bánh ít ngọt nhưn trắng hoặc bánh ít trắng nhưn dừa ngọt. Nên
dù ốm, nhưng nó mạnh lắm. Nó lại siêng năng, lanh lợi, xốc vác, chèo ghe,
bơi xuồng, dở chà, kéo lưới, giăng câu... gì cũng rất giỏi. Nhờ sau lần ông
Bảy Lấc bày má nó tìm thuốc Nam trị bịnh sên cho nó. Nên bây giờ nó mới
có vẻ yêu đời, tươi vui... không èo uột như dạo trước nữa.
Nhớ Mấy tháng trước, hôm đó gặt lúa vần công cho ông Hai Súng.
Đám nông dân vào núp bóng rặng trâm bầu ở gầ ngã Bà Cây Trôm ăn trưa.
Thấy thằng Tửng ăn xong thì thở ì ạch có vẻ mệt nhọc lắm. Ông Bảy Lấc
nhìn thằng Tửng từ đầu đến chân. Ông liền bảo với má nó:
- Con Năm, bây nói thằng Tửng ăn nhiều mà ốm nhom như vậy coi
chừng sên lãi trong bụng nó ăn hết chất bổ rồi thì làm sao nó mập cho được?
Ai chê thằng Tửng ròm thì bà chịu. Chớ nói thằng nhỏ bị bịnh thì bà
Năm Tưng không ưa! Bà quay mặt chỗ khác trề môi, liếc xéo ông Bảy con
mắt có đuôi như dao cạo râu của chú Sáu Chấn ngoài chợ Cái Thia. Bà hấy
nguýt ông, và trong bụng ứa gan... rồi vo vảnh trả lời:
- Chú nói sao chớ con của bà Hai Cà ở xóm dưới cái bụng chang
bang như cái trống chầu mới có lãi. Còn thằng Tửng của tui cái bụng xẹp lép
thì làm gì mà có lãi, có sên chú ơi...
Ông Bảy Lấc cười hì hì:
- Tao cũng muốn như lời bây nói là nó không có gì. Còn nếu có thì
tội nghiệp cho nó… Bây coi ngoài cái ốm của con bây ra, con mắt nó còn lộ,
cái bụng nổi đầy gân xanh… Bây không thấy cái gầy ốm của nó hơi lạ với
những đứa gầy ốm khác sao? Hôm nào hãy dẫn nó đến thầy thuốc Nam coi
đi. Nếu có bịnh thì trị không thì thôi chớ có lỗ lã gì đâu…
Bà Năm Tưng tuy ứa gan ngứa phổi ông Bảy Lấc nói con bà bịnh.
Nhưng nghĩ lời ông nói không sai nên bà cũng ớn... Bà định bụng vài ngày
nữa dắt nó qua ông thầy Ba Giảo ở trong Xã Xịnh xin thuốc trừ sên lãi cho
nó uống. Người ta đồn ông thầy nầy nổi tiếng trị bịnh trong bụng… Như là
đau bụng lâu năm, có sên, có lãi, đi tiêu chảy, hoặc đi ỉa không ra… Nhưng
có người lại bảo ông ta chỉ có hư danh chớ dở ẹt hà. Nhưng bà nghĩ, dở hay
không trị bịnh con bà mới biết.
Cho nên sau ông Bảy Lấc nói thằng Tửng bị lãi, bà Năm Tưng dắt đi
đi thầy thuốc. Hai mẹ con ăn mặc sạch sẽ, định xuống bến đò qua sông rồi
lội bộ tắt qua mấy đám ruộng đến nhà ông thầy cũng mất hơn 3 cây số
đường đồng.
Hai mẹ con thằng Tửng vừa đến bến đò thì bỗng dưng trời vần vũ.
Gió thổi mạnh, mây đen ùn ùn kéo tới giăng mắc làm trời tối hù. Cây cối
theo chiều gió ngả nghiêng, ngả ngửa, cọ quẹt nghe trèo trẹo mà ớn óc! Vài
khách bộ hành chạy nhanh vào cái trại lá kế bến đò núp mưa. Sấm chớp ầm
đùng, long trời lở đất gò nổng cũng muốn bay. Mưa nặng hột ào ào trắng
xóa đổ xuống như trút nước… Nhìn mưa mịt mờ bay xiên xiên trong gió. Bà
Năm Tưng chép miệng nói với con:
- Thôi, chắc hết mưa thì mẹ con mình trở về nhà. Ngày khác đi, chớ
mưa gió như vầy nước ruộng cao tới ngực làm sao lội cho nổi…
Ông Bảy Lấc tay cầm cây cưa dài chạy vội vào đụt mưa. Chợt ông
nghe bà Năm nói với thằng Tửng nên hỏi:
- Ụa, mẹ con bây đi đâu mà phải lội ruộng?
- Dạ chào chú Bảy. Chú đi đâu về mà cũng bị mắc mưa vậy?
Ông Bảy tay dựng cây cưa vào cột trại và giữ cho đừng ngã. Tay kia
ông lau những giọt mưa đọng lấm tấm trên mặt:
- Ờ tao đi lên nhà thằng Ba Gà mượn cây cưa lớn nầy, để về cưa cây
xoài chết nhát. Thiệt trời mưa nắng bất thường! Mới sáng hoắc đó, bỗng tối
hù rồi trút cơn mưa như cầm chĩnh mà đổ. Nhưng cũng tốt, nước mưa giúp
cho cây cỏ mùa màng thêm tươi tốt…
Ngoài trời gió ào ạt thổi vùn vụt không ngừng. Bà Năm Tưng lớn
tiếng hơn, kể cho ông nghe là bà dắt thằng Tửng đi trị bịnh sên lãi trong Xả
Xịnh…. Ông lắng nghe, và gật gù. Còn thằng Tửng đứng dựa cột, mắt lờ mờ
nhìn theo màn trời mưa, và sáng chói trong tia chớp lòe của sấm sét bên
ngoài. Trời mưa dai dẳng cả giờ đồng hồ. Gặp cơn nước lớn của sông, vào
mùa nước lên, nên nước ngập lỉnh lảng tràn đường tràn sá. Mấy cây so đũa
khô dùng làm cầu không niệt chặt, bị nước cuốn trôi lều bều…
Mưa đã đời rồi thì cũng tạnh. Mây đen tan dần, mặt trời từ từ hiện ra
và trải ánh sáng nhàn nhạt xuống vạn vật… Nước mưa đọng trên cành lá rơi
lộp độp mỗi khi gió thổi qua. Cây cối sau cơn mưa như bừng lên sức sống.
Cành lá sởn sơ xanh mướt, tươi hẳn như sắp đâm chồi non, mọc tược mới…
Chiếc đò bên kia sông cũng lù lù cặp bến. Kẻ lên người xuống co ro trong
chiếc áo tơi khoác trùm trên lưng bằng lá chầm, hoặc bằng loại ni lông
trong, bằng vải mủ đục… Ai nấy kẻ trước người sau lần lượt rời chỗ đụt
mưa trong trại lá.
Riêng ông Bảy Lấc đứng nán lại to nhỏ với bà Năm Tưng:
- Hôm rằm tao đi cúng chùa trong Rạch Cỏ. Có người bày cách trị
sên lãi trong bụng mấy đứa nhỏ. Bây có muốn thử cách nầy để trị cho thằng
Tửng thì nghe tao nói đây…
Dù tạnh mưa, nhưng kẻ qua đò bộ hành vẫn chạy lúp xúp cho kịp đò
hoặc nhanh chân về nhà… Không ai buồn để ý, hoặc đến gần mẹ con bà để
nghe cho rõ chuyện giữa ông Bảy và bà Năm Tưng còn nán lại to nhỏ nói
chuyện gì với nhau không ai biết. Nhưng mặt bà Năm Tưng có lúc trầm
ngâm, lúc mở to mắt, lúc há hốc miệng hoặc gật đầu lia lịa… Sau đó bà có
vẻ thận trọng, nét mặt vui nói nhiều lần hai chữ “cảm ơn” với ông Bảy. Rồi
hai mẹ con săng sái đi lẹ về nhà.
Thằng Tửng mắt đang dáo dác, láo liên nhìn trên các cành cây cao.
Miệng nó vừa hút gió giả tiếng chim kêu vừa tìm kiếm… Bầu trời xanh cao
vời vợi, nắng trưa ấm trong suốt và sáng trưng… Gió mát rượi rung rinh
những cành so đũa nở từng chùm bông trắng xóa. Tiếng ong bầu vo ve ù ù
tìm mật bông tơ ở những nhánh thấp là đà khỏi mặt đất vài gang tay không
cao lắm. Cây mận hồng đào có chùm vừa già có chùm chín tới. Da mận
nhạt và có những rằn nám nứt nhẹ trên da chứng tỏ mận đã chín lắm rồi. Cây
xoài thanh ca lủng lẳng hườm hườm ửng vàng hồng nơi cuống… các trái
chín thơm tho còn trên cây luôn quyến rũ các loại chim ăn trái. Chúng xập
xận rủ cả bầy đến tìm mồi… Nhứt là loại chim trao trảo vừa háu ăn vừa ngu
nên bị lừa vì tiếng kêu từ miệng của thằngTửng... loại chim nầy dễ bị bắn, và
bị bắt nhứt.
Bên vàm rạch kế cây lý sai trái chín vàng nghệ thoáng hương thơm
bát ngát. Bầy vịt xiêm bảy con mập ú đang rỉa lông tắm nắng. Hứng chí có
con lông trắng muốt, mỏ vàng, mắt tròn xoe, nghểnh cổ “cạp cạp” kêu vang.
Gà mẹ dẫn một bầy mười mấy gà con chí chóe tìm côn trùng nơi mương
độn. Bên giàn bầu lúm phúm đã ra trái bằng ngón tay út, ngón tay cái, và nở
những chùm bông phơi phới ấp dưới những chiếc lá xanh mượt mà, lớn gần
bằng cái quạt giấy xòe ra.
Bỗng thằng Tửng dừng bước và mắt không rời những cành cây trứng
cá say trái màu vàng màu đỏ... trên những chùm lá xanh như ngọc thạch.
Nạng giàn thung một tay đưa lên cao khỏi trán, tay kia nó kéo dài ra. “Rột”
một cái, tiếng kêu lớn… con chim trao trảo rơi xuống, nó chạy lại thộp con
chim cánh còn chớp chớp, mỏ kháp kháp. Với dáng điệu thành thạo Tửng ta
cột vội chưn chim vào sợi dây cột ngang lưng quần của nó.. rồi tiếp tục đi
tìm chim để bắn nữa...
Hôm nay Tửng bắn chim đem về cho ông Bảy Lấc chiều rô ti nước
dừa nhậu ba sị đế. Để trả ơn ông đã nhắc nhở và chỉ dạy bà già đi tìm thuốc
nam trị bịnh cho nó. Và chiều nay nó cũng có bữa chim rô ti ngon lành.
Chuyện ngầm trả ơn của nó, ông Bảy Lấc không biết vì ông không hề để ý
hoặc nghĩ đến. Nhưng má thường dạy, và nó cũng tự nhắc nhở với mình
rằng mang ơn thì phải trả ơn chớ! Bởi cũng nhờ ổng mà má nó mới dắt đi
tìm thầy thuốc, nửa đường mắc mưa gặp ổng bày biểu nên giờ đây nó khỏe
mạnh, cao lớn như một thanh niên bình thường chớ không còn da bọc
xương, ốm còi ốm cọc như trước nữa.
Thằng Tửng bỗng bật cười thành tiếng một mình, khi nó chợt nhớ. Số
là sau lần mắc mưa trong lúc mẹ con đi tìm nhà thầy để chửa bịnh cho nó.
Mẹ con lại bị mắc mưa ở bến đò, và gặp ông Bảy Lấc bày biểu... Trưa hôm
đó, mẹ con nó và hai đứa em cùng ra bờ mẫu cốt hết (hái hết) cả thúng trái
trâm bầu đem về nhà. Nghe lời ông Bảy dặn phơi nắng cho heo héo, gỡ lấy
hột được chừng một mủng vùa. Bà Năm Tưng vẫn thấy chưa đủ. Hôm sau
mấy mẹ con đi qua bờ mẫu mấy đám ruộng bên kia hái thêm nữa. Bà Năm
đã chuẩn bị đủ hột trâm bầu như lời ông Bảy. Và sáng sớm hôm sau, còn
trông giấc điệp mơ màn, bà vào gọi giựt thằng Tửng thức dậy, và liền lấy
cho nó 2 trái chuối xiêm chín mùi. Bà bắt nó phải ăn với hột trâm bầu đã lột
vỏ giống như cái nhụy sen. Bà ngồi canh chừng vì thằng nầy ma giáo lắm,
nếu không có bà canh chừng, có thể nó chỉ ăn chuối rồi lén nhả hột trâm bầu
đắng nghét ra... Đến ăn cơm trưa, bà Năm nhẹ giọng, bảo:
- Nầy còn 2 trái chuối và hột trâm bầu đây, ăn hết đi...
Thằng Tửng mặt phụng phịu nhăn nhó như muốn khóc:
- Ăn gì mà ăn hoài vậy... thấy hai thứ đó là muốn ói rồi! Má cho mấy
đứa nhỏ (em nó) ăn đi...
Bụng thằng Tửng đói, trước khi ăn cơm chiều rồi đi ngủ bà Năm Tưng
cũng bắt con ăn như vậy… Thằng nhỏ vừa ăn vừa khóc:
- Ngán muốn chết mà má cứ bắt tui ăn hoài! Má nói chuối ngon sao
không cho mấy đứa nó ăn đi mà bắt tui ăn? Hột trâm bầu đắng nghét đến
thần sầu quỉ khóc! Tui không ăn nữa đâu…
Bà Năm Tưng vừa hầm hì, vừa mắc tức cười thằng con lớn xộn rồi mà
còn sợ thuốc đắng. Bà bèn mắng át nó:
- “Thuốc đắng giã tật”. Đồ cái thằng yêu lồi, già đầu rồi còn sợ
thuốc. Thuốc thì đắng chớ bộ kẹo bánh sao mà ngon ngọt. Ông Bảy nói mầy
phải ăn hột trâm bầu và chuối một tuần lễ mới được. Nếu không thì không trị
bịnh được đó mầy à...
Thấy con khóc, chạnh lòng mẹ. Bà xuống nước nhỏ khuyên bảo:
- Thôi cố gắng nín mũi nuốt trọng đi con. Cho lãi sên nếu có nó sẽ
chết và mầy sẽ mập mạp tròn trịa như em mầy… Để tụi bạn không nói mầy
Tửng Cò Ma, Tửng Teo Héo nữa...
Thằng Tửng ăn hột trâm bầu và chuối đến ngày thứ 2 thì nó lăn lộn dữ
dội kêu đau bụng. Đau bụng quá sức, đau bụng đến nỗi nó đạp tróc hết mấy
cái mộng, làm chiếc giường nằm sập xuống đất. Nghe con rên la dữ dội bà
Năm Tưng sai em thằng Tửng chạy đi tìm ông Bảy Lấc. Nhưng bà Bảy nói
ông đi đám giỗ ở xa đến chiều tối hay mai mới về.
Bà Năm Tửng thấy con oằn quại ôm bụng đau đớn, mặt mày tái nhợt.
Bà hoản hồn nghĩ dại rồi vừa khóc lóc, vừa la làng, vừa kể lể, đổ thừa:
- Lần nầy tui nghe lời chú Bảy Lấc, cho thằng Tửng uống ba cái đồ
mắc toi mắc dịch của chú bày, làm thằng nhỏ đau bụng sắp chết rồi bà con
làng xóm ơi, làm ơn cứu giúp con tui…
May mắn ông Bảy chiều đó về tới nhà. Nghe vợ kể lại sự tình của
thằng Tửng. Không kịp thay áo, ông lật đật đi lẹ đến nhà bà Năm. Thấy
thằng Tửng nằm thiêm thiếp, rên ư ử, rờ tay chân nó lạnh ngắt. Ông hỏi thì
nó nói lâm râm đau bụng, nhưng nó như đang ngủ sật sừ!
Thiệt ông Bảy Lấc cũng không biết làm sao bây giờ vì ông đâu phải
thầy thuốc… Ông tốt bụng mỗi lần nghe thấy có thuốc Nam trị bịnh, hay
cách gì, mọi thứ biết được. Khi chòm xóm gặp đúng chuyện… Nếu biết, ông
sẽ mau mắn nói ra không chút giấu giếm. Nhưng ông không ngờ hôm nay lại
ra cớ sự nầy! Giờ đây ông cảm thấy lòng không yên và nghĩ dại rủi thằng
nhỏ có bề gì chắc gia đình nó sẽ hận ông suốt đời! Không chừng họ sẽ đi
thưa ông ở tù nữa! Tuy nghĩ vậy, nhưng ông cũng bảo bà Năm nấu nước
nóng đổ vào chai chườm bụng cho thằng Tửng. Đốt lửa hông ở dưới gầm
giường (như mấy bà đẻ con còn trong cữ), cho mình mảy nó ấm và xức dầu
cạo gió cho nó...
Trời chạng vạng gió đêm rung xạc xào cành lá chung quanh nhà. Bên
ngoài màn đen bao phủ như nhuộm mực. Nền trời thăm thẳm in rõ từng
chùm sao lớn lác đác, sao nhỏ kết thành giề từng chùm nhấp nháy sáng.
Thấy thằng nhỏ ngủ yên, ông Bảy cũng mệt, đốt đuốc ra về mà lòng buồn
rười rượi… Bà Bảy ở nhà cũng chong đèn chờ chồng về chớ không ngủ
được. Nửa đêm mọi người đang an giấc. Dưới sông dài, nước lớn đầy. Vài
xuồng câu tôm còn đèn leo lét ở bên voi và rải rác bên cồn bần.
Bỗng nghe tiếng từ nhà bà Năm Tưng la làng chói lói… Chòm xóm
bàng hoàng đốt đuốc chạy đến. Vợ chồng ông Bảy Lấc nhìn nhau ngầm bảo
rằng thằng Tửng chết! Ông vội chồm lấy cái áo máng trên vách mặc vào.
Hai vợ chồng lật đật chạy đến nhà bà Năm Tưng. Một cảnh tượng vừa ghê,
vừa sợ bày ra trước mắt mọi người! Số là nửa đêm thằng Tửng đòi má nó
muốn đi ị.
Bà Năm thấy trời tối thui, con lại bị bịnh nên lấy cái bô sành để vào
lon nước dặn con đi cầu xong thì gọi bà sẽ đem đi đổ. Nhưng không ngờ
thằng nhỏ ị hoài không ngừng. Nó ị ra không phải ị phân mà là những
miếng, những khúc dài, khúc ngắn, nhầy nhầy, mỏng nhờn nhờn như ruột
vịt, tanh tưởi chớ không thúi. Nó y như vậy gần đầy cả bô sành mà không
ngừng. Bà Năm Tưng nghĩ con bà ị riết ruột ra hết bên ngoài thì sẽ chết, nên
bà sợ quá la làng cầu cứu…
Ông Bảy Lấc đốt đuốc cùng vợ qua làng bên mời ông thấy thuốc Bắc.
Mèn ơi, thì ra thằng Tửng bị con sên dài lắm nằm theo ruột ở trong bụng bao
nhiêu năm nay rồi. Giờ con sên ăn hột trâm bầu và chuối nên bị say và chết,
rồi theo đường tiêu hóa mà tuông ra…
“Tin hiền đồn xa/ Tin dữ đồn ba ngày đường” Từ đó trong làng xóm
và các làng lân cận đồn đãi rằng. “Nhờ ông Bảy Lấc cho thằng Tửng uống
hột trâm bầu. Nên mới trụt được con sên dài mấy cây số trong bụng nó ra,
nên cứu sống được nó”.
Sau tháng Tư Năm 1975. Miền Nam, nước Việt Nam hoàn toàn
nhuộm đỏ. Kẻ bị bắt vào tù, người trốn chạy bỏ nước ra đi. Người kẹt lại
gánh chịu bao nhiêu oan khiên khốn khổ, cùng cực… Trong đó có ông Bảy
Lấc. Mấy năm trước đây, có người cùng thôn ông về thăm lại chốn xưa. Họ
cho biết ổng đã qua đời!
Bây giờ đôi lúc hồi tưởng lại những chuyện thuở thiếu thời ở quê Nam
thanh bình thạnh trị. Những người trong thôn đều nhớ đến ông Bảy Lấc một
thôn dân tốt bụng ai cũng mến thương. Những đêm trăng sáng ông thường
bảo vợ nấu chè khoai lang, chuối luộc… Để ông rủ mấy đứa trẻ trong xóm
cùng lũ con nghe ông kể chuyện ma, chuyện cổ tích có tính cách giáo dục
như là: “Ăn khế trả vàng/ Con Tấm con Cám/ Hầm bạc hầm vàng/ Nàng Út
ống tre/ Bạch Tuyết bảy chú lùn…” Với thanh niên, người hiểu chuyện trong
bữa giỗ, khi uống nước trà ăn bánh kẹo. Hay lúc lai rai nhâm nhi khề khà ly
rượu đế với mấy con khô nướng. Ông thường đem những chuyện răn đời,
những chuyện tiếu lâm ông nghe được ai kể. Hoặc đọc được trong sách báo,
thì ông để dành trong bụng, để có dịp sẽ kể cho mọi người nghe chơi. Nhớ
lần đó ông Bảy Lấc đã kể chuyện:
- Bây giờ tao sẽ kể chuyện “Xấu Hấy” cho tụi bây nghe. Nhưng tao
có điều kiện. Tao kể xong thì tụi bây không được cười. Đứa nào cười thì
sáng sớm ngày mốt phải phụ tao dùng gàu dai tát cái đìa ngoài lãng trống
tôm cá bắt được, sẽ chia nhau mà ăn…
Bọn thanh niên trẻ nhao nhao lên. Nhưng rồi mấy đứa đều bằng lòng.
Ông Bảy Lấc bưng tách nước trà còn bốc khói uống một hớp có vẻ thống
khoái. Ông bắt đầu kể:
“Tục xưa, tên xấu thì dễ nuôi. Nhà nọ có 4 người con trai được đặt tên
là: Cút, Cu, Thiến và Ðớp. Một hôm, ông chồng đi vắng thì có ông bạn
thân của chồng đến chơi. Người vợ thay mặt chồng tiếp đón ân cần, người
bạn cũng vui lắm. Ðến bữa ăn, người vợ bảo thằng út:
- Dọn cơm cho bác, Ðớp!
Người bạn hơi phật lòng, ăn qua loa vài chén rồi đứng dậy. Người vợ
bảo đứa thứ hai:
- Múc nước cho bác rửa, Cu!
Lần này ông bạn giận tím mặt, liền chào ra về. Người vợ ngớ người
ra, không hiểu làm sao cả, bèn bảo thằng con lớn:
- Dắt xe cho bác. Cút!
Đến lúc này ông bạn không nhịn được, vừa đi vừa nói lầm bầm gì
nghe không rõ, người vợ tưởng ông khách cần người đưa ra khỏi cổng làng.
Bà bèn sai thằng con thứ ba:
- Hãy đưa bác ra cổng…Thiến!” (Tài liệu Google)
Thiên địa quỉ thần, nồi đồng nồi đất ơi! Cả bọn nghe ông kể xong thì
cười bò lăn bò lộn, cười nước mắt nước mũi chảy tùm lum, cười muốn mất
thở! Lúc bấy giờ trời cũng đã khuya lơ mà mấy đứa vừa nghe chuyện “Xấu
Hấy” chưa đứa nào muốn về. Cứ nằng nặc đòi ông kể thêm chuyện nữa.
Ông Bảy ngần ngừ một hồi, rồi bảo:
- Tao đố câu nầy đứa nào trả lời được thì tao sẽ kể thêm một chuyện
nữa. Còn nếu trong bọn không có đứa nào trả lời được thì vãn tuồng. Ai về
nhà nấy, để tao đi ngủ lấy sức mai còn phải xạ lúa nữa. Vậy tụi bây hãy nghe
đây: Con gì có tám cái chưn, hai tai, bốn mắt, cái lưng dài thòn… Rồi con gì
nói đi…
Mấy đứa nhỏ ngơ ngẩn, đứa nầy nhìn đứa kia như ngầm hỏi với nhau
là con gì? Chừng 3 phút sau, ông Bảy bảo:
- Tụi bây không trả lời được thì về ngủ đi. Đêm nay nhớ “gác chưn
lên trán” suy nghĩ rồi mai qua trả lời tao nghe.
Bọn nhỏ ra về trong thắc mắc. Lần sau chúng nhắc lại câu đố và hỏi
ông trả lời là con gì? Ông Bảy cười ha hả:
- Tao cũng không biết con gì… Bởi trên đời nầy làm gì có con đó…
Bọn trẻ cùng cười rộ lên, chạy nhào tới. Đứa ôm chân, đứa kéo tay,
đứa đeo cổ đánh thùm thùm vào lưng ông. Tiếng trẻ già cười vui rộn cả xóm
thôn êm ả, thuở làng quê đất nước thanh bình…
Cho mãi đến bây giờ. Đã mấy chục năm qua. Quê hương cách trở xa
hơn nửa vòng trái đất. Nếu ai đó có nghe được chuyện “Xấu Hấy” giống như
ông Bảy Lấc kể. Dù có khó tánh đến đâu họ cũng bật cười thành tiếng!
Ông Bảy Lấc là người tốt bụng hay giúp đỡ chòm xóm. Làm những
chuyện ích lợi cho thôn làng. Luôn giúp đỡ và chỉ vẽ những gì ông biết cho
trai trẻ trong thôn. Họ thích ngồi nghe ông nói tếu, kể chuyện, cùng những
lời hay, ý đẹp để khuyên đời, để răng người… “Nụ cười làm giàu người
nhận, chớ không làm nghèo người cho. Ai nghèo đến nỗi không dám nhận
nụ cười? Nụ cười không thể mượn/ Nụ cười không thể mua/ Nụ cười không
thể ăn cắp. Bởi vì đây là một điều có giá trị kể từ khi nó được cho đi…” Rồi
có khi chạnh lòng bởi một chuyện gì đó, ông chép miệng thở dài: “Đời
người ngắn ngủi, hãy sống với những gì mình hiện có. Tại sao phải đeo đuổi
theo danh vọng nhỏ nhặt? Dũng giả vô cuồn/ Trí giả vô địch/ Nhân giả mới
là anh hùng thật sự…”
Thuở đó những trai trẻ khác trong xóm nghĩ sao không biết, chớ thằng
Tửng của bà Năm Tưng mặt đừ căm, khờ ịch. Vì nó thật sự không hiểu, và
không biết ý ông muốn nói gì. Nhưng những câu nói thâm thúy của người
đời truyền miệng, mà thằng Tửng được nghe ông Bảy Lấc nói thuở xa xưa
đó, nó nhớ mãi. Bây giờ ở chân trời góc biển với nó vẫn là kim chỉ Nam. Để
mỗi khi dòng hồi tưởng chợt đến trong tâm tư thằng Tửng. Dù biết rằng đời
có nhiều kẻ xấu, nhưng nó cảm thấy bùi ngùi, ấm lòng khi nhớ về cố thổ.
Ngoài nhớ họ hàng gia đình thân tộc nó còn nhớ thương ông Bảy Lấc. Một
thôn dân ngày xa xưa chất phác, tốt bụng… ở Vàm Móc Mang, tận phương
trời quê Nam xa thẳm của nó ngày xưa.
Trích trong tuyển tập truyện ngắn
“Hương Cau Quê Mẹ” phát hành năm 2010
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email:dtdbuon@hotmail.com