Monday, May 31, 2021

VẾT XƯỚC (TRẦN HOÀNG PHỐ)

 

Vết xước

 

Vết xước của nụ cười buồn
Còn đọng trong tim
hình ảnh lung linh một giọt lệ
Vẽ trên mặt bàn
ngày ta chia xa

Vết xước của thời gian năm tháng
Khi linh hồn ta trở lại quê cũ
Với trái tim bồi hồi mừng vui cay đắng
Phố xá vẫn đông vui
và dòng sông vẫn chảy
Ngày tháng đi qua
chỉ còn linh hồn ta ở lại với dĩ vãng
Bên mây dâu bể bay
trên cổ thành ngậm ngùi

Vết xước trên mi mắt cố hương
Một chút bùi ngùi nhớ tưởng
Huế và kinh thành xưa cũ
Hình như là giọt lệ thiên thu hận

 

trần hoàng phố

CÂY THIỆN SẼ ĐƠM HOA (THANH HÀ)

 

Cây thiện sẽ đơm hoa

 

Hôm qua vẫn còn là cô sinh viên
Hôm sau hai vai cõng nặng gánh ưu phiền
Cách một ngày cuộc đời đà biến đổi
Từ Con Người thoắt thành Con Số Nguyên

Hôm qua vẫn là đứa bé ngây thơ
Hôm sau phải sống chui rúc bụi bờ
Bởi không còn nhà cho em nương tựa
Ba mẹ quỷ bắt, đàn con bơ vơ

Tàn binh lửa sao không mừng mà chỉ khóc
Thay tiếng cười là tiếng nấc lặng câm
Trả lời đi lũ ma đầu gieo tang tóc
Biến thanh bình ra địa ngục trần gian

Hôm qua vẫn còn vẫy vùng hiên ngang
Hôm sau gẫy cánh buồn thiu đại bàng
Chờ lành vết thương nương làn gió thổi
Chim lại tung hoành giữa trời thênh thang

Cái ác tràn qua như cơn cuồng lũ
Sẽ nhường đường cho Cây Thiện nở hoa

 

Thanh Hà

GẶP BÀ THỤC OANH- NHỚ THI TÀI VŨ HOÀNG CHƯƠNG (H.Q.H)

 

Gặp bà Thục Oanh - nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương

 

HOÀNG QUỐC HẢI Tình cờ và cũng là may mắn nữa, vào Sài Gòn lần này tôi được gặp bà góa phụ Vũ Hoàng Chương, tức bà Thục Oanh ở nhà ông Trần Mai Châu, nơi đường Tự Đức cũ. Nhà ở xế ngôi trường Trần Văn Ơn vài chục mét.

 

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương - Ảnh của Cao Lĩnh, Sài gòn 1970 - Ảnh: chungta.com

Ông Trần Mai Châu là nhà giáo về hưu. Ông là dịch giả tập “Thơ Pháp thế kỷ 19”, đoạt giải văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997. Và ông cùng với nhà thơ quá cố Trần Dần, nhà triết học Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ lớn đã quá cố Vũ Hoàng Chương) lập ra nhóm “Dạ Đài”. Tờ "Dạ Đài” là tiếng nói tiêu biểu của nhóm, mới in được số 1, đang chuẩn bị ra số 2 thì Toàn quốc kháng chiến (1946) đành bỏ, và mỗi người một nẻo suốt 9 năm dài kháng chiến.

Từ lâu tôi đã nghe nữ sĩ Ngân Giang nói về thân thế của Vũ quân. Nhất là tài nội trợ của bà Thục Oanh. Bà nói nhiều lần đến chơi với nhà thơ Vũ Hoàng Chương nơi phố Hàng Điếu, khi ông còn ở Hà Nội. Hai người mải nói chuyện thơ phú, chẳng để ý đến thời gian, Bà Thục Oanh sau khi pha trà rồi ý tứ ngồi cạnh nữ sĩ Ngân Giang. Nhưng bà lui ra ngoài lúc nào chẳng ai hay. Và tới lúc Vũ quân mệt mỏi, vừa đói thuốc vừa đói cơm, thi sĩ đứng dậy đi loanh quanh trong phòng, cũng là lúc bà Thục Oanh bê ra một mâm cơm thịnh soạn. Nữ sĩ Ngân Giang cho tới nay vẫn chưa hết ngạc nhiên: “Tôi không hiểu chị ấy đi chợ và làm cơm vào lúc nào? Bởi tôi có cảm giác như lúc nào Thục Oanh cũng ngồi cạnh tôi”.

Bà Thục Oanh đã ngoài 70 tuổi, dáng người mảnh khảnh. Tóc để buông, tấn áo dài màu trang nhã hợp với tuổi của bà. Ở bà, phảng phất nét đẹp tinh tế của các cô gái Hà Nội cách đây già nửa thế kỷ. Bà là em ruột của nhà thơ tài danh Đinh Hùng.

Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân, Ngân Giang, Lê Văn Trương... là một trong những nhóm các bậc văn tài được đương thời mến mộ. Trong đó, Lê Văn Trương là người lớn tuổi hơn cả. Và nơi ông có phong thái một người hùng, một người hào hiệp và trượng nghĩa kiểu Mạnh Thường quân. Nhà ông lúc nào cũng đầy ắp khách.

Vũ Hoàng Chương trước yêu Tố Uyển. Tố Uyển phụ ông đi lấy chồng. Ngày cưới vào 12 tháng 6. Ông làm bài “Mười hai tháng sáu” để khóc cho mối tình tan vỡ. Trong đó có những khổ thơ rất thống thiết, chứng tỏ ông không chỉ là một đấng tài hoa, mà còn là một tài năng trác việt.

            “Tháng sáu, mười hai, từ đây nhé
            Chung đôi, từ đây nhé lìa đôi !
            Em xa lạ quá, đâu còn phải
            Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi.

            Men khói đêm nay sầu dựng mộ
            Bia đề tháng sáu, ghi mười hai,
            Tình ta, ta tiếc! cuồng, ta khóc.
            Tố của Hoàng nay Tố của ai?...”

Theo nhà văn Mạc Lân (con trai nhà văn quá cố Lê Văn Trương) thì bài này lúc đầu có tựa đề “Kiều Thu đệ nhất khúc”. Còn bài khóc thứ hai với tựa đề “Kiều Thu đệ nhị khúc”. Cả hai bài, anh Mạc Lân đều đọc thuộc lòng cho tôi nghe. Vào dịp khác, tôi sẽ trở lại bài thơ này và mối giao hảo giữa nhà thơ Vũ Hoàng Chương với gia đình nhà văn Lê Văn Trương.

Trong mối giao tình của các bậc văn thi sĩ mà ta quen gọi là “lớp tiền chiến”, quả thật có nhiều điều muốn nói. Trước hết là về văn tài của họ. Sau đó là tấm lòng của họ đối với bạn bè và thời thế.

Qua trao đổi, tôi được biết bà Thục Oanh hiện sống rất thanh bạch, nếu không nói là thanh bần với con người trai lớn của bà. Và chỉ bằng một suất lương giáo viên trung học của anh.

Trước 1975, Vũ Hoàng Chương sống tàm tạm, là nhờ ở sự tần tảo và cần kiệm của bà Thục Oanh. Nhà nghèo thế mà khi ông Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ) vào thăm sau 30.4.1975, Vũ Hoàng Chương còn có gom góp đủ tiền mua được mười mét gấm, gởi tặng nữ sĩ Ngân Giang ngoài Hà Nội.

Thật là tinh tế, tại sao ông không gởi cho nữ sĩ chiếc quạt hay một vật dụng vào khác, thiết thực hơn. Bởi vì, ông biết Ngân Giang là một nữ sĩ đài các. Vào thập kỷ sáu mươi, bảy mươi, phải quét lá làm củi đun. Mở quán bán nước trà xanh với vốn đăng ký 5 đông bạc, ở cận bến sông.

            “Quán nước bên sông cuối phố nghèo
            Miếng trầu bát nước có bao nhiêu...”
                                    (Thơ Ngân Giang)

Ấy vậy mà khi tiếp khách thơ, nữ sĩ vẫn cứ xài trầm, kiểu cách như trong thơ bà :

            “Khơi đỉnh trầm lên kìa thái giám
            Cho hương tỏa quyện điệu tì bà...”
Với bà, dường như trầm là hương vị của thơ.

Bà Ngân Giang kể tiếp: “... Ý anh ấy gởi cho tôi mười mét gấm, là để tôi may áo. Mà lại là gấm mầu nâu nữa. Tôi hiểu như là Vũ quân khuyên tôi hãy dẹp bỏ lòng trần, trở về với Phật. Tôi không thể làm theo ý anh được. Bởi lẽ gạo ăn hàng ngày còn thiếu, sao có thể mặc áo gấm. Con cái còn trông cậy cả nơi mình, làm sao mà rảnh rang miền tục lụy. Thế là tôi đành phải bán mười mét gấm đó, mua được 5 yến gạo, và còn đủ tiền may một bộ quần áo thường. Nói ra điều này, tôi thấy tủi cho mình, và cũng tội cho vong linh của Vũ quân lắm!”.

Cái tình nghệ sĩ thương nhau nặng sâu là vậy đó. Tôi còn được biết, thi sĩ Vũ Hoàng Chương chơi rất thân với nhà giáo Trần Mai Châu. Cũng dễ hiểu, vì ông Trần Mai Châu cùng ông Vũ Hoàng Địch (em ruột Vũ Hoàng Chương) đã là bạn rất thân với nhau từ thuở “Dạ Đài”.

Tôi đã được nghe đôi lần bác Trần Mai Châu đánh giá rất cao các thi phẩm của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Và ngay trong buổi tao ngộ này, nhiều người nói về Vũ Hoàng Chương, như nói về một nhà thơ lớn. Các vị tuổi cao, nhưng nhớ và thuộc thơ của Vũ Hoàng Chương, có lẽ chẳng ai chịu nhường ai.

Tuy nhiên, nhớ được những bài thơ chưa được in của Vũ Hoàng Chương, có lẽ bác Trần Mai Châu là đệ nhất. Hai người bạn vong niên này trân trọng nhau, tựa như nhà thơ Trần Lê Văn lưu giữ tác phẩm của nhà thơ quá cố Quang Dũng vậy.

Nhà thơ Quang Dũng mỗi lần làm được bài thơ mới, đều ghé đọc cho nhà thơ Trần Lê Văn nghe. Biết tính bạn, mỗi lần như vậy, nhà thơ Trần Lê Văn đều lấy sổ tay ra chép. Có lần nhà thơ Quang Dũng gặp lại người yêu từ thuở còn trai trẻ. Lục vấn những kỷ niệm xưa, ông viết được bài thơ “Vườn ổi” rất hay. Sợ phu nhân đọc được thì mệt lắm, ông đốt bài thơ ấy đi. Sực nhớ vẫn còn một bản nơi sổ tay của nhà thơ Trần Lê Văn, ông bèn gặp nhà thơ Trần Lê Văn đòi lại. Nhà thơ Trần Lê Văn hỏi:

- Ông đòi làm gì?

Tần ngần một lát, Quang Dũng khẽ nói:

- Mình đốt đi, kẻo bà xã đọc được lại phiền ra.

Nhà thơ Trần lê Văn nhất định không trả. Và sau khi nhà thơ Quang Dũng mất, ông đã đưa bài “Vườn ổi” vào “Tuyển tập thơ Quang Dũng”


(Bút tích của Vũ Hoàng Chương - Ảnh: tienphong.vn)


Những thi phẫm của thi sĩ quá cố Vũ Hoàng Chương mà bác Trần Mai Châu lưu giữ được, phần nhiều không có tựa đề. Tôi chép lại một trong những bài đó. Bài thơ lập tứ từ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu đời Đường:

            Đã bao giờ có hạc vàng đâu
            Mà có người tiên để có lầu
            Tưởng hạc vàng đi, mây trắng ở
            Lầm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau
            Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
            Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
            Trăng gió hão huyền như khói sóng
            Nồi kê chửa chín nghĩ càng đau.

Nghe nói sinh thời đại thi tiên Lý Bạch có ghé lầu Hoàng Hạc; thấy cảnh đẹp định viết một bài tức cảnh, chợt nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề trên vách; ông buồn bã thốt lên:

            “Trước mắt có cảnh đẹp mà không tả được
            Bởi đã có thơ của Thôi Hiệu trên vách rồi!”.

Thật ra Nguyễn Du viết “Hoàng Hạc lâu” không phải để so tài với Thôi Hiệu, mà chính là ông tự giải tỏa nỗi niềm. Hãy nghe ông tự sự:

            “...Trung tình vô hạn bảng thùy tố?
            Minh nguyệt thanh phong đã bất tri”.
            “...Tình trong lòng vô hạn, bầy tỏ cùng ai  được?
            Trăng trong gió mát cũng chẳng biết.”

Trở lại những thi phẩm cuối cùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, viết vài ngày trước khi ông vĩnh biệt thế gian. Bà Thục Oanh với vẻ buồn sâu lắng. Dường như bà đang nhớ lại những gì về ông trong những ngày cuối. Giọng rầu rầu, bà kể:

“Tôi nhớ, bữa ấy nhằm ngày 9 tháng 9 năm Ất Mão (13.10.1975) anh ấy cảm thấy trong người hơi dễ chịu, thế là ngồi vào bàn viết. Một lát anh ấy lại về giường nằm. Tôi ngó vào bàn, thấy anh đã viết xong bài thơ. Đây là nguyên ý của anh ấy, kể cả những chữ viết hoa ở giữa dòng:

        Trùng cửu thơ trao
           
            bè Mây đã nát Thu - phong từ,
            trùng cửu thơ còn trao ngất ngư.
            tháng Cuối mùa Trăng ngày Hội hữu,
            năm Đầu gác bút động Hoa lư,
            thơ không thoái vị, trà say khướt,
            người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ.
            Nam- Bắc sương in đầy bóng nhạn,
            may ra bệnh cũng xuống dần ư.
                                                                9.9 Ất Mão

Đấy là sau những ngày anh ấy đi học tập về, người rất yếu. Tôi cứ ngỡ anh ấy “đi” lúc nào không biết. Thế nhưng kỳ lạ thật. Sau bài “Trùng cửu”, bệnh anh ấy giảm hẳn. Tinh thần phấn chấn hẳn lên. Vài ngày sau đã lò đò đi thăm bạn. Có nhẽ người đầu tiên anh ấy đến thăm là ông Trần Mai Châu.

Thế nhưng tới giữa năm sau (1976), anh ấy lại ngả bệnh. Thật ra thì nhà tôi không có bệnh gì trầm trọng. Anh ấy vốn đã mảnh sức, nay lại suy nhược. Và rất buồn chán. Hay nói về cái chết. Lo cho những năm tháng cuối đời tôi, sau khi anh ấy ra đi, sẽ cô đơn như thế nào.

Tôi nhớ bữa ấy vào khoảng chiều ngày 9 (lại ngày 9) tháng 8 năm Bính Thìn (2.10.1976). Vũ gọi tôi lại gần, với giọng nhẹ nhàng, anh bảo:

- Này mình, ngày mai Mùng mười tháng Tám là ngày giỗ Nguyễn Du đấy. Mình đi kiếm ít hoa trái về để mai anh làm giỗ Nguyễn.

Sớm hôm sau, tôi bầy hoa, bánh và ít trái cây lên bàn thờ, pha thêm ấm trà cúng. Tôi vừa xong các việc thì anh đã áo quần tề chỉnh, đứng trước bàn thờ, tự tay thắp nhang, rót trà. Và anh khấn Nguyễn Du bằng thơ.

Nghe giọng anh xúc động, khiến tôi rơi nước mắt. Tôi cảm như có sự hiện diện của cả Nguyễn Du nữa. Lạ lắm, lúc ấy tôi không nghĩ Nguyễn Du đã khuất từ hơn hai trăm năm, mà chỉ nghĩ tới một người khách của anh Vũ vừa đến thăm nhà mình. Thay vì sợ hãi, tôi thấy lòng ấm áp.

Nguyên văn bài thơ Vũ khấn như sau:

        Đọc lại người xưa
           
                                Văn tự hà tằng vi ngã dụng
                                Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.
                                                                Nguyễn Du

            Chẳng dùng chi được nhân tài
            Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ
            Phút giây chết điếng hồn thơ
            Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau
            Chắc gì ba trăm năm sau
            Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây
            Nếu không cơm áo đọa đầy
            Như thân nào thịt xương này bỗng dưng
            Chết theo vào đến lưng chừng
            Say từng mảnh rớt, mê từng khúc rơi
            Nửa chiều say ngất mê tơi
            Khúc đâu lơ láo mảnh đời Thi vương.

Mấy ngày sau đó, tôi thấy anh hay ngâm bài thất ngôn Đường luật, viết nhân dịp vào thăm Huế từ lâu lắm, nhưng nghe vài lần tôi đã thuộc. Hình như bài này không có tiêu đề.

Anh ấy đã yếu lắm. Nhiều lúc ngâm nghẹn lạc cả giọng, chỉ thấy phát ra những âm thanh rời rạc như tiếng rên đau đớn:

            Nửa gánh gươm đàn tới cố đô,(1)
            Sông liền mưa tạnh tưởng vào Ngô. (2)
            Bìm leo cửa khuyết ai ngờ rứa,
            Rồng lẩn mây thành chẳng thấy mô.
            Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng,
            Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ.
            Hồi chuông Thiên Mụ riêng hoài niệm,
            Tốt đã vào cung loạn thế cờ.

Ngừng một lát, bà Thục Oanh như nhớ lại, đoạn bà tiếp:

- Sau đó tôi còn thấy anh ấy viết một bài về Nguyễn Thị Lộ, một bài về Hồ Xuân Hương, bài nào cũng da diết lắm.

Bốn ngày sau giỗ Nguyễn Du, tức ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (7.10.1976), Vũ “đi”!

Tựa như các bậc thiên tài Nguyễn Du, Victor Hugo, sáng tạo đến hơi thở cuối cùng; những bài thơ chót của thi tài Vũ Hoàng Chương, vẫn như những hạt kim cương nặng trĩu tình người và mãi còn tỏa sáng.

Láng Thượng 01.11.1998
H.Q.H

Sunday, May 30, 2021

TẠ ƠN MẸ (VŨ ĐÌNH TRƯỜNG)

 

Tạ ơn mẹ

Dâng lên mẹ đóa hồng tươi thắm thiết. (Hình: Nguyễn Bá Trạc)

(Viết thay lời những người con gốc Việt gửi đến các bà mẹ Hoa Kỳ đã dày công dưỡng dục)

Tạ ơn mẹ, người không cùng huyết thống
Tóc mẹ vàng, da mẹ trắng như mây
Mẹ vớt con từ vực thẳm lưu đày
Nuôi con lớn bằng tình thương máu mủ

Tạ ơn mẹ vì con mà lam lũ
Ngày qua ngày trong xưởng máy, nhà kho
Làm thêm giờ cho con được ấm no
Đêm lại thức dạy con từng tiếng Mỹ

Khác ngôn ngữ như ngăn thành, cách lũy
Mẹ dỗ con bằng ánh mắt, vòng tay
Mẹ gốc Âu, con gốc Á, khổ thay
Con là nợ, vì đâu mà mẹ gánh!

Mẹ biết con từ quê hương bất hạnh
Có lũ người hung ác tựa sài lang
Nuốt miền Nam bằng nanh vuốt bạo tàn
Đưa cả nước trở lại thời trung cổ

Cũng từ đó con như chim mất tổ
Tuổi còn thơ đã bỏ mẹ, lìa cha
Xuống thuyền đi trong nước mắt nhạt nhòa
Đem tính mạng gửi trên đầu ngọn sóng

Nhờ ơn mẹ như trời cao biển rộng
Con mới còn sống sót đến ngày nay
Được nên người trên đất nước thứ hai
Niềm hãnh diện cho cả hai dân tộc

Trong hồn con mẹ rạng ngời ánh đuốc
Sáng bập bùng soi mỗi bước con đi
Lời mẹ hiền con sẽ mãi còn ghi:
“Là dân Mỹ, nhưng đừng quên gốc Việt!”

Dâng lên mẹ đóa hồng tươi thắm thiết
Chứa tình con từng cánh đỏ yêu thương
Mai con về quỳ hôn đất quê hương
Càng nhớ đến ngàn công ơn của mẹ.

 

Vũ Đình Trường

NGUYỀN HẸN MAI SAU (LÃO CÒ) & TRÌNH BÀY (BÍCH BILL)

 




MỜI ĐỌC VÀ XEM NHỮNG CẢNH THƯƠNG TÂM CỦA ẤN ĐỘ.

 




Chúng ta đang sống cảnh Thiên đàng so với đa số người Ấn Độ hiện giờ. Chúng ta có mái nhà, có giường ngủ, có thức ăn, mọi tiện nghi, y tế, trong khi bên đó không có những nhu cầu cần thiết để tồn tại như một miếng ăn, một ít nước sạch, một chỗ ngủ, một ít thuốc...

Không thể ngờ thời kỳ hiện đại mà dân nghèo ở Ấn Độ không có một cuộc sống tương xứng một con người !

Số người chết ở Ấn Độ tăng cao, không thể tưởng được, một phần vì họ đói mà chết, dân nghèo phải bưi trong những bãi rác mênh mông trên Montagne des poubelles (Núi thùng rác) để tìm thức ăn, và mặt khác họ bị lây covid mà chết. Khi chết, những gia đình nghèo không mua được củi, và lúc này củi cũng hiếm nên đắt, họ đành bỏ xác người thân xuống sông Gange. Tất cả các lò thiêu đều hoạt động 24h/24, mà vẫn không đủ cho người chết nên họ thiêu trên đất hoang và ở các parking ! Con sinh vật covid nhỏ xíu này, mắt trần không thể nhìn thấy, mà sự tàn phá của nó tàn bạo hơn bom nguyên tử và đạn hạt nhân, hơn 2 trận thế chiến nhập lại. Vì con người tàn ác quá, muốn giết lẫn nhau nên Ông Trời phải ra tay trừng trị loài người, rõ ràng chó mèo và động vật hoang dã, không con nào bị dính covid, chỉ có người lây cho người. Nhiều chuyên gia estimer con số tử vong trên thế giới sẻ lên tới 7 triệu, khủng khiếp quá !!

 

Video 1 : En Inde, l'impossible confinement. Documentaire này do phóng viên người Pháp tên Nicolas Bertrand quay.

Ở New Delhi, họ nói họ sợ chết vì đói hơn là chết vì covid19. Trẻ em đi hái rau hoang mọc ở cống rảnh đem về cho cả gia đình ăn !  Các cửa tiệm đều đóng hết.  Covid19 khiến cho xe lửa, máy bay, bus đều tê liệt, như thành phố không người, không còn tấp nập như xưa.

 

Video 2 : Nhiều ông làm việc rất vất vả, những cảnh đời quá đau thương ở Calcutta cho thấy những người-ngựa (hommes - chevaux), 3 người kéo đằng trước, 2 người đẩy phía sau, trong thành phố Calcutta xe camion không được lưu thông nên 5 người-ngựa kéo bộ cả 6 km những kiện hàng nặng 4 tonnes để mưu sinh, nhất là khi xuống dốc nếu kiện hàng rớt xuống đè họ chết. Họ phải cố gắng làm để có tiền nuôi gia đình !!!

 

Cảnh các thanh thiếu niên chận những xe camion chạy ra từ một mỏ than để chúng leo lên ăn cắp than, rất nguy hiểm nếu rớt xuống đất. Than này là than thô dành cho ngành công nghiệp, các nhà máy điện. Chúng đội những thúng than nặng mấy chục kg trên đầu về nhà, nấu than thô đó thành than dùng trong nhà để bán, rủi mà gặp police thì bị phạt, bị tù vì tội ăn cắp. Khi nấu than thô, than cháy bốc khói buị mù mịt rất độc, có hại cho 2 phổi và đôi mắt, họ biết như vậy mà vẫn làm hàng ngày, vì không tìm được việc !

 

Có nhóm người sống bằng cách đào hang bắt rắn hổ mang để qua Nepal biểu diễn kiếm tiền, vì Ấn Độ không cho phép làm các biểu diễn đó.  Có khi họ nhổ răng rắn lấy nọc độc làm thuốc. Chính phủ Ấn cấm hành nghề đó nhưng họ cũng làm lén vì nghề gia truyền từ nhiều đời của họ. Nghề bắt rắn hổ mang rất nguy hiểm !

 

Ở các bidonville (khu ổ chuột) dân sống chen chúc trong những khu nhà chật hẹp, cho nên họ không chịu cách ly, hễ cảnh sát tới, sợ bị đánh họ chui vô nhà, cảnh sát vừa đi khuất, họ trở ra.

Những người thất nghiệp ở các thành phố lớn, họ muốn trở về nơi chôn nhau cắt rốn, chính phủ thuê xe bus cho họ, nhưng không đủ, vì có cả trăm ngàn người nên phần đông, họ phải đi bộ hàng trăm km để trở về làng nhờ bà con quyến thuộc giúp đỡ, và nếu có chết thì còn có thân nhân họ hàng lo. Cảnh sát không thể kiểm soát số lượng người trong chuyến di tản đông như vậy nên dịch bành trướng khắp nước. Những mạnh thường quân chở thức ăn cho dân nghèo xếp hàng dài bị cảnh sát giải tán, vì chỉ được tụ họp 5 người. Họ tức giận gây với cảnh sát nhưng vô hiệu, mạnh thường quân cũng phải ngừng phát thức ăn cho họ.  Đau lòng quá !

 

Những gia đình giàu, có phương tiện thuê máy bay đi lánh dịch ở các hòn đảo.

Thế giới cũng hết sức quan tâm tới Ấn Độ, như Mỹ, Pháp, Anh, Đức gửi cho các nhà thương, những máy phát điện tạo oxygène, những bình dưỡng oxy, những mặt nạ cho bệnh nhân thở oxy, vaccin và khẩu trang, nhưng không đủ cho dân số 1 tỷ

 

 3. Có 1 điều là chính phủ Ấn Độ không nhận viện trợ của Trung Cộng.

Lại có một số người mê tín dị đoan, trét phân bò vì đối với họ, bò là con vật linh thiêng, bò đi ngoài đường tự do, họ còn đắp tường nhà bằng phân bò, họ không hiểu làm như vậy thiếu vệ sinh, ô nhiễm, tệ hại quá ! Tệ hơn nữa, những giáo sĩ Bà La Môn hay Hindu, và tín đồ của họ, tế cho nữ thần sông Ganges hàng ngàn con trâu, dê, có thể người Ấn Độ bị nghiệp báo bởi giết các chúng sanh vô tội đó. Họ còn mê muội kéo hết gia đình ngâm mình trong dòng sông này vì cho rằng sẻ rửa sạch tội lỗi, chứ không cầu sám hối như bên Phật giáo. Mấy ngày gần đây, virus đang leo thang như vậy mà họ còn tổ chức lễ hội tụ hợp cả triệu người đến từ khắp các bang nên đại dịch tràn lan khắp nước, chính phủ không ngăn được họ tụ hợp, vì sợ đụng tới tôn giáo.

 

Nguyện Đức Phật A Di Đà quảng độ chư chúng sanh khỏi các tội chướng.

Ấn Độ : 2 videos rất cảm động (phóng sự tiếng Pháp)

 

Video 1, En Inde, l'impossible confinement (Ở Ấn Độ cách ly không thể được) :

 

https://youtu.be/0h79fVMrL1w

 

Video 2, Les métiers de l'impossible - Dans les faubourgs de Calcutta (Những nghề không thể có ở các vùng ngoại ô Calcutta):

 

https://youtu.be/xNRnyjN5e7A

 

Saturday, May 29, 2021

MƯA (TUYẾT TÂM)

 




 

Sài Gòn mưa như em ngồi khóc

Góc phố buồn như thương nhớ ai

Sài Gòn mưa như tình thơ dại

Của một thời mình sát kề vai

 

Chiều nay ngồi nhìn mưa tầm tã

Em chợt buồn một thoáng nhớ ai

Sài Gòn giờ mưa mãi mưa hoài

Cho ai thèm chút nắng ban mai

 

Sài Gòn chiều mưa như huyền thoại

Của hôm nào em ghé thăm anh

Tình đôi ta sao quá mong manh

Vẫn đọng mãi giọt mưa trên cành

 

Sài Gòn tháng năm mưa qua phố

Phố vắng tanh , mưa khóc nỗi côvi

Phố vắng vì bao nỗi sầu bi

Của người ở lại tiễn người đi

 

Sài Gòn giờ trời mưa không dứt

Em tìm chút nắng gửi cho anh

Sưởi ấm người tuyến đầu chống dịch

Côvi với chúng ta là thù địch

 

Mưa có trôi được dịch không anh???

Cho phố vui dân sống an lành

Cho đôi mình không phải ngăn cách

Hạnh phú tràn dâng lên đôi mắt

 

Sài Gòn mưa hiu hắt chiều nay

Ngoài kia bao chiếc lá bay bay

Trong bụi mờ màng mưa trắng xoá

Nước mưa tuôn làm mắt em nhoà

 

Tuyết Tâm


CỌP NHỚ RỪNG (NGƯỜI LÍNH GIÀ)

 


Người Lính Già

Những vần thơ đã cũ nhưng thời gian vào mùa này thì nỗi nhớ làm cho nó trở thành khởi sắc cùng niềm xót xa cho những gì theo thời gian bị xóa nhòa đi

Người Lính Già Và Nỗi Nhớ

 

(Cọp Nhớ Rừng)

 

Người Lính Già nửa đêm nằm trăn trở

Nhớ trường sơn như hổ nhớ rừng xưa

Thèm điếu thuốc đốt lên trong nón sắt

Đốt đêm đen thêm hơi ấm vào lòng

Người Lính Già nửa đêm nằm không ngủ

Nhớ anh em nhớ đồng đội thân thương

nhớ trà nóng nửa đêm nằm dưới hố

nấu vội vàng bằng "C4" chuyền tay

Người Lính Già nửa đêm trong giấc ngủ

Mơ chập chờn bạn gọi lúc nửa đêm

Ngồi bật dậy tay quơ “M 16”

Súng còn đâu, đâu còn Súng mà tìm

Người Lính Già nửa đêm tìm giấc ngủ

Cố quên đi những hình ảnh trong tim

Quên sao được nào “Triệu Phong” “ Ái Tử”

Đất “Hương Điền” Hương lộ ba số “5”

Người Lính Già nửa đêm nằm không ngủ

Nhớ Thành xưa một thuở máu thịt da

Nhớ “Mỹ Chánh” nơi chiếc cầu bị gãy

Bởi vì đây là chiến tuyến cuối cùng

Người Lính Già cố quên càng thêm nhớ

Nhớ “Hải Lăng” nhớ “Thạch Hãn” “Điền Môn”

Nhớ nhiều lắm nhớ hoài không kể hết

Nhớ dòng sông chỉ xác với lục bình

Người Lính Già nửa đêm nằm trăn trở

Mơ trong đêm pháo đạn nổ thâu canh

Nhớ nhiều lắm ánh hỏa châu soi sáng

Dẫn đường về sau trận đột kích đêm

Ngày tháng đến Người Lính Già thôi nhớ

Thời gian trôi là Phương thuốc thần tiên

không ai gọi nữa đêm người tỉnh giấc

Chỉ còn chăng trong tìm thức Cọp Già…

 


NỮ TIẾN SĨ TRẺ MẤT VÌ COVID-19 SAU KHI LÊN MẠNG TÌM CHỖ ĐIỀU TRỊ (AN YÊN - THEO INDIAN EXPRESS)

 

Nữ tiến sĩ trẻ mất vì Covid-19 sau khi lên mạng tìm chỗ điều trị

 

Nabila qua đời khi mới 38 tuổi, chỉ 10 ngày sau khi mẹ của cô ra đi vì căn bệnh Covid-19.

Nabila Sadiq, tiến sĩ nghiên cứu về giới tính, đã chống chọi với virus SARS-CoV-2 trong hơn một tuần nhưng không hiệu quả. Trước đó, mẹ cô, bà Nuzhat, 76 tuổi, qua đời vì các biến chứng liên quan đến căn bệnh này.

Cha của cô cũng phải nhập viện vì Covid-19 nhưng cuối cùng đã được chữa khỏi và về cách ly tại nhà.

 

Trong những ngày cuối cùng của mình, Nabila đăng lời khẩn cầu đầy tuyệt vọng trên Twitter. Cô tìm giường nằm ở Trung tâm Chăm sóc tích cực.

Cô mong muốn mọi người cầu nguyện cho mình và cha mẹ.

 

Giáo viên Nabila Sadiq qua đời khi mới 38 tuổi

 

Từ tháng 4, Nabila bắt đầu chia sẻ một loạt các dòng tweet về cuộc khủng hoảng Covid-19 ở Ấn Độ. Ngày 24/4, cô viết: “Mỗi ngày thức dậy, tôi lại nhận một tin tử vong. Tinh thần tôi quá mệt mỏi. Khi nào điều này sẽ kết thúc?".

Ngày 1/5, cô bày tỏ: "Xin hãy cầu nguyện cho tôi và cha mẹ. Chúng tôi sẽ vượt qua nhanh chóng".

 

Sau đó, ngày 4/5, cô cầu xin mọi người giúp cô tìm được giường trong phòng chăm sóc đặc biệt, khi các bệnh viện Ấn Độ buộc phải từ chối bệnh nhân trong bối cảnh số ca Covid-19 tăng đột biến.

Dòng tweet cuối cùng của cô được đăng cùng ngày, thông báo ngắn gọn: "Tôi đã có giường".

Sau khi bị 3 bệnh viện từ chối, Nabila bị tổn thương phổi quá nặng và cô qua đời dù đã có suất nằm trong Trung tâm Hồi sức tích cực.

Khi đang điều trị tại Bệnh viện Fortis ở Faridabad, Nabila dường như không được thông báo mẹ của cô đã ra đi vào ngày 7/5.

Những người quen biết đánh giá, Nabila là một giáo viên chu đáo, thích làm thơ, thảo luận về chính trị và chuyên môn.

Các sinh viên của Nabila giúp tổ chức đám tang của mẹ cô. Cũng trong khoảng thời gian đó, sức khỏe của cô bắt đầu xấu đi nhanh chóng.

Waqar, một người bạn và là sinh viên trong trường đại học của Nabila cho biết, họ đã gọi mọi bệnh viện ở Delhi để tìm cho cô một chiếc giường đi kèm bình oxy.

Anh giải thích: “Bạn bè của cô ấy đã giúp chúng tôi có được một chiếc giường tại Bệnh viện Fortis ở Faridabad. Tuy nhiên, nồng độ oxy trong máu của Nabila giảm xuống còn 32%”.

"Sau khi chụp CT, bác sĩ cho biết phổi của cô ấy bị tổn thương. Tôi nhận được hàng trăm cuộc gọi mỗi ngày từ đồng nghiệp, người thân và bạn bè của Nabila hỏi thăm sức khỏe của cô. Chúng tôi không biết phải làm sao".

“Mọi sinh viên theo đuổi nghiên cứu về giới đều muốn học tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của cô ấy. Nabila đã giúp rất nhiều người trong trận đại dịch”.

"Chúng tôi định nói với Nabila rằng cha mẹ đang nhớ cô ấy, hy vọng cô ấy sẽ cảm thấy tốt hơn và bình phục. Nhưng vào tối 15/5, Nabila đã phải thở máy”.

Các bác sĩ cho biết Nabila không thích ứng với các loại thuốc và phương pháp điều trị. Cô mất vào khoảng 23h tối 17/5.

Ông Sadique, 80 tuổi, cha của Nabila, là một giáo viên đã nghỉ hưu từng giảng dạy tại Đại học Hồi giáo Aligarh.

 

An Yên (Theo Indian Express, NDTV)

Wednesday, May 26, 2021

ĐỜI TÔI: SỰ NGHIỆP (DIỆP THẾ HÙNG)

 

ĐỜI TÔI : SỰ NGHIỆP

 


Thập niên đầu sau khi có bằng Tiến Sĩ Quốc Gia tôi chỉ chú tâm vào việc làm khoa học.  Đến một trình độ, tôi tự nghĩ là tôi phải giúp những người chung quanh, giúp đại học phát triển, giúp những người trẻ tuổi theo con đường nghiên cứu.  Ngoài những ý nghĩ đó, tôi cũng muốn chứng minh là tôi có thể chỉ huy, có thể làm những gì mà người khác có thể. Dĩ nhiên vấn đề quan trọng không phải là chỉ huy mà là chỉ huy với thành tích tốt.  Tôi nghĩ rằng triết lý của Khổng Tử ảnh hưởng rất nhiều trong lối suy nghĩ của tôi « Nhập Thế để Giúp Đời », trái ngược với triết lý « Xuất Thế để tìm Yên Bình trong nội tâm » của Lão Tử. Hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ (1778–1858)  « Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông » ảnh hưởng rất nhiều trong sự cố gắng của tôi. 

Tôi đã là một trong những người thành lập Đaị Học mới ở vùng Paris (CY Cergy Paris Université). Tôi đã phụ trách gây dựng cơ sở nghiên cứu, thành lập mười mấy phòng nghiên cứu trên nhiều lãnh vực, trong đó có Phòng Nghiên Cứu Vật Lý Lý Thuyết mà tôi là Giám Đốc cho đến 2010. Tôi đã đảm nhận rất nhiều chức vụ, từ Khoa Trưởng Khoa- Khoa Học Kỹ Thuật, đến Phó Viện Trưởng nhiều lần phụ trách nghiên cứu, quan hệ quốc tế, … Dù bận rộn thế nào đi nữa, tôi vẫn làm khoa học với đam mê : tôi vừa là một giáo sư tận tâm, một nhà khoa học đam mê và một người chỉ huy không ngưng nghỉ.  Xin mời các bạn vào xem những việc làm,  sách vở và công trình khoa học của tôi ở trang chủ cá nhân : 

http://diep.u-cergy.fr/indexnfl_en.html.

Tôi đã được gắn huy chương ba lần 2001(Knight), 2008 (Officer) và 2017.  Lần cuối là huy chương Commandeur (Commander) cao nhất của Pháp trong lãnh vực Giáo Dục.

Như tôi đã nói trong bài đầu, viết về mình không phải là dễ. Tôi xin các bạn thứ lỗi nếu có vài chỗ tôi tỏ ra tự hào quá đáng.

Chúc các bạn vui nhiều.


 


Dự hội nghị ở Busan (South Korea)

Trong văn phòng làm việc

 

ĐỜI TÔI : SỰ NGHIỆP

 

Ngoài cố gắng để học sâu học rộng

Tôi hiểu rằng muốn sống một đời vui

Phải hòa đồng với xã hội quanh tôi

Phải học hỏi vun bồi bao kiến thức

 

Tôi cũng nghĩ tôi phải dùng hết sức

Để kiêm thêm những chức vụ chỉ huy

Không phải vì tôi muốn có quyền uy

Nhưng chức vụ làm suy tư ngàn chuyện

 

Những việc ấy mỗi ngày tôi rèn luyện

Rồi khả năng phát triển thật là sâu

Biết điều hành quản lý biết dẫn đầu

Lập chiến lược làm sao cho thành tựu

 

Tôi đã lập nhiều trung tâm nghiên cứu

Đã tham gia thành lập cả một trường

Rồi từng làm khoa trưởng, được huy chương

Và thiết lập một trung tâm tính toán

 

Tôi đã qua bao nhiêu là giai đoạn

Bận vô cùng nhưng thỉnh thoảng làm thơ

Và việc làm khoa học chẳng bao giờ

Tôi có thể thờ ơ vì việc khác. 

 

Diệp Thế Hùng (May 25, 2021).