Monday, September 30, 2024
TẠ ƠN EM (BẰNG SƠN)
BS xin
thay mặt một người anh bà con gởi tới vợ hiền của anh những lời tạ ơn em …sâu
đậm nhất
Tạ Ơn Em
Tạ ơn em từ buổi đầu bỡ ngỡ
Đôi môi mềm hương mật ngọt
trao nhau
Gói yêu thương theo mái tóc
phai màu
Tình chồng vợ nguyện năm
dài tháng rộng
Sợi tơ hồng kết chặc hình
với bóng
Có ngờ đâu dây đứt đoạn
tình tan
Cười lên em giấu giây phút
ngỡ ngàng
Cho anh hẹn kiếp sau mình
lại gặp
Tạ ơn em nhọc nhằn nơi ánh
mắt
Vẫn nhìn anh âu yếm thuở
mình yêu
Nhỡ một mai gió bạt gãy
cánh diều
Đời vô vị khí không còn anh
nữa
Tạ ơn em nén nhang tàn trụi
lửa
Còn vợ hiền ở lại với khăn
tang
Xin để lời nhạc mãi cứ ngân
vang
Cho anh được tạ ơn người
tri kỷ
Bằng Sơn
CVNN
TÌNH BUỒN hay VUI ? (NGUYỄN VẠN THẮNG)
TÌNH BUỒN hay VUI ?
PHÚ SƠN NGÀY CUỐI NĂM (TRẦN BẠCH THU)
Phú Sơn Ngày Cuối Năm
-Trần Bạch Thu
Trời lạnh căm căm, gió thổi mưa phùn bay lất phất, tôi bước
ra khỏi căn chòi nhỏ chứa dụng cụ cày bừa, cuốc xẻng của đội lao động, dắt trâu
đi cày trong một buổi sáng cuối năm.
Tổ cày gồm có ba người, anh Oánh là tổ trưởng; tôi và Phát
là hai tổ viên do cán bộ chỉ định. Anh ta còn rất trẻ độ chừng 23, 24 tuổi là
thợ cày của hợp tác xã trước khi gia nhập vào lực lượng công an. Ba anh em tôi
thay phiên nhau, bữa thì ruộng nước, bữa ruộng khô. Dĩ nhiên cày ruộng nước tuy
lầy lội bùn và nhiều đĩa, lạnh ớn người nhưng thời giờ ngắn hơn nên có thể về
chòi sớm nghỉ ngơi hay nấu nướng linh tinh. Cày ruộng khô đất cứng, vất vả và
mất nhiều thì giờ hơn. Nhưng đàng nào thì cũng cay đắng như nhau:
“Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong.”
Tôi vác cày, dẫn trâu đi được một quãng ngắn chưa qua khỏi
cây cầu gỗ bắc ngang một vũng nước cạn ở trước sân thì có tiếng gọi của anh bạn
tù người địa phương, nói vọng lại bảo chờ. Anh chạy theo đến bên tôi nói nhỏ,
hôm nay cày nửa buổi thôi, buổi chiều có người nhờ cày ở mảnh ruộng riêng cũng
ở gần đó, cán bộ đã đồng ý. Tôi hỏi:
– Đám ruộng khô ở sát bên bờ suối của ông Chiến?
– Đúng đấy. Cậu thông minh thật.
Tôi tự nhủ thầm cứ đến phiên cày ruộng khô thì y như rằng
thế nào tôi cũng có phần đi cày lẻ, không chỗ nầy thì cũng chỗ khác. Thật ra
quanh vùng giáp với trại cải tạo nầy có vài gia đình tự khai phá những vạt đất
hoang, có khi ở sát bên vách núi, có khi là một thẻo tí ti dọc theo bờ suối mà
hợp tác xã lờ đi vì các chủ hộ nầy thường là bộ đội phục viên hay thuộc hộ
nghèo neo đơn. Mảnh ruộng của ông Chiến là một khoảnh đất nhỏ nằm ở gần bờ
suối. Ông ta góa vợ, nhà chỉ có một cha một con, đứa con gái mới lớn chừng 15,
16 tuổi, ít khi ra đồng.
Hợp tác xã nông nghiệp có trâu nhưng không đủ công để cày
cho các mảnh đất cá nhân riêng lẻ không thuộc diện đất quy hoạch của xã, nên họ
thường hay quan hệ với các tù nhân hình sự “tự giác” để môi giới với cán bộ
quản giáo của đội cho tổ cày đem trâu sang cày cho họ. Mỗi lần như vậy, họ
thường bồi dưỡng cho tổ cày một rổ khoai luộc, vài cái bánh bột gói lá và đôi
khi một bánh thuốc lào. Dĩ nhiên phần bồi dưỡng cho cán bộ quản giáo như thế
nào thì không ai biết. Nhưng nói chung thì họ nghèo nên cũng không thể nào
“biếu” nhiều hơn được, ông Chiến thường lịch sự nói thế.
Sở dĩ họ thường hay đợi đến phiên tôi vì tôi còn trẻ khỏe
và chịu khó nên cắt luống cày thẳng tắp và ít khi bị lỗi. Đất mới cày xếp lớp,
chồng lên nhau trông như bát úp. Hơn nữa, anh Oánh vào những hôm như thế đều
chọn cho tôi trâu khỏe và thuần rất dễ cày. Lâu dần thành quen nên tôi cũng
thấy vui khi có dịp trà lá lúc giải lao, xong việc còn được phần khoai sắn đem
về trong lúc đói rét triền miên. Có cái ăn là quý lắm.
Sau khi cày xong phần ruộng của trại, tôi dong trâu qua một
thoi đê giáp ranh một bên bờ suối. Ông Chiến đã chờ sẵn nói ít lời chào hỏi rồi
bảo tôi ngồi nghỉ uống nước, hãy thủng thẳng ra ruộng vì hôm qua ông đã mượn
được trâu của đội kéo xe, cày được hơn phân nửa.
– Cứ thong thả, cuối năm vội chi.
– Cảm ơn bác, cứ cày sớm cho xong rồi nghỉ sau cũng được.
– Tùy anh.
Thông thường hai người chỉ gặp nhau và trò chuyện ngoài
ruộng ít khi vào nhà, nhưng hôm ấy sau khi cày xong sớm ông ấy nhìn quanh quất
xem có ai để ý không rồi rủ tôi vào nhà dùng tí bánh. Tôi cám ơn và từ chối vì
sợ vi phạm kỷ luật “không được tiếp xúc” với dân. Vả lại, tôi nghĩ cũng không
có gì để trò chuyện với thân phận của một người tù không có án. Tôi không muốn
vào nhà nên ông bảo tôi cột trâu dưới bóng cây ngồi chờ, ông sẽ mang khoai sắn
ra bồi dưỡng.
Thay vì như mọi khi ông hoặc đứa con gái mang ra một rổ
khoai luộc phủ lá chuối đặt kín đáo dưới gốc cây ven đường cho anh em tổ cày tự
nhiên đến lấy, nhưng lần nầy chính ông mang ra ruộng, ngoài rổ khoai còn có một
nắm xôi đậu, một gói thuốc lào và đặc biệt có một chiếc bánh chưng dày, nhỏ,
mỗi bề khoảng nửa gang tay còn xanh mượt. Ông bảo:
– Tết đến xin biếu các ông một chút gọi là quà.
Tôi cảm động lắm, đôi mắt đỏ hoe nói nghẹn lời:
– Cám ơn bác.
Đem trâu giao cho anh tù hình sự chăn dắt tôi vào trong
chòi chờ đội lao động tan tầm để cùng về nhập trại, tôi đem quà và trưng cái
bánh chưng cho anh Oánh xem rồi nói:
– Anh em mình ít ra cũng có chiếc bánh chưng vui nhau ngày
Tết.
Trước khi tập họp điểm danh chuẩn bị về trại, xa non chừng
hai cây số, đội trưởng luôn nhắc nhở mọi người phải “thanh toán” tất cả khoai
sắn hay bánh trái gởi mua ngoài trại. Cấm mang thực phẩm tươi sống và các loại
vào trong trại. Anh vừa nhắc nhở vừa liếc nhìn tổ cày như thầm cảnh giác riêng.
Trước đó, tôi có bàn với anh Oánh về phần khoai sắn thì chia hết cho một số anh
em, còn chiếc bánh chưng thì sẽ gởi trong thùng gánh nước của anh Bảng, người
phụ trách đun nước giải lao cho đội. Trong chỗ thân tình, tôi cũng thường hay
nhờ anh Bảng nhiều lần như thế.
Trên con đường về quanh co, ngoằn ngoèo qua các ngọn đồi
thấp lửng, chiều cuối năm mà lòng rộn vui. Đến khi băng qua cây cầu treo bắc
ngang trên con sông nhỏ, nước chảy xiết ở phía dưới, xa xa một guồng nước kĩu
kẹt đang quay đều dẫn nước chuyến vào đội rau xanh của trại là tới bờ tường sắp
đến cổng trại Phú Sơn, tôi đi chậm thụt lùi lại để phụ với anh Bảng sửa lại đôi
quang gánh và chiếc thùng thiếc cho thật vững, đồng thời đè chặt chiếc bánh
chưng nằm gọn dưới đáy thùng, trên phủ lon, hộp linh tinh và hai chiếc gàu múc
nước uống làm bằng lon sữa bò có cán đưa lên trên quá miệng thùng cho an toàn
khi qua cổng.
Sau khi đội trưởng báo cáo số hiệu tổ đội và số người nhập
trại với cán bộ trực cổng, cả đội xếp hàng đôi lần lượt đi vào yên ổn. Khi vừa
qua khỏi cổng, thình lình toán đi sau cùng khựng lại, anh Bảng vấp ngã quăng
đôi gánh và thùng nấu nước đổ tung tóe… một số người quay lại giúp anh đứng lên
rồi mọi người cùng nhìn rõ ràng, đập vào mắt là chiếc bánh chưng còn xanh mướt.
Cán bộ lập biên bản tịch thu và yêu cầu anh Bảng làm kiểm điểm.
Cuối cùng anh Bảng nhận là có quan hệ “mua bán đổi chác”
ngoài hiện trường lao động với các anh tù hình sự và vì tuổi già sức yếu ăn
không hết nên mang vào trại chỉ vui trong ba ngày Tết. Vậy thôi chứ không có ý
đồ tích trữ để trốn trại hay mua bán qua lại gì ở trong trại. Cán bộ xét cho
qua và cảnh cáo anh Bảng lần tới nếu tái phạm sẽ bị đưa xuống đi lao động,
không còn được chiếu cố chỉ đun nước giải lao cho đội.
Tối hôm ấy, anh em tụ họp trên sạp bàn luận chuyện phiếm về
việc bị tịch thu chiếc bánh chưng, anh Oánh nói lời cám ơn anh Bảng đã nhận lỗi
thay cho anh em chứ nếu nói thật ra thì cũng không thể giải quyết dễ dàng như
vậy, nhẹ nhất cũng bị giữ ở nhà kỷ luật vài ngày hay giảm khẩu phần ăn, chưa kể
là bị nghi ngờ quan hệ mua bán linh tinh có thể bị loại ra khỏi tổ cày. Anh
Bảng cười bảo:
– Không sao cả, chuyện nhỏ, các anh vẫn còn đi cày là còn
sướng chán.
Tôi nghĩ mà thương anh lắm, chẳng tiếc gì chiếc bánh chưng
mà thật sự cảm kích trước sự việc anh dám nghĩ dám làm. Anh rất hiền lành, tử
tế đối với mọi người, cả đội ai cũng đều biết nhưng không ngờ anh lại “dũng
cảm” dám đương đầu với khó khăn như vậy.
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.”
Thời gian lạnh lùng trôi, tiếp tục với những chuỗi ngày dài
tăm tối không biết ngày về cho đến khi chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra,
tất cả tù nhân thuộc chế độ cũ được di chuyển về miền xuôi, đi các trại như
Vĩnh Phú, Thanh Cẩm… Anh em tản lạc khắp nơi, tôi về trại Nam Hà (Ba Sao) ở
thêm mấy năm nữa mới được chuyển về Nam ở trại Hàm Tân mãi cho đến cuối năm
1984 mới được thả cho về quản chế tại địa phương.
Thế rồi thời cuộc đổi thay, anh em bạn tù ai còn sống sót,
ra tù kẻ vượt biên người đi theo diện bảo lãnh hay HO tản lạc tứ phương, khắp
các châu lục. Năm 1993, tôi đi theo diện HO sang Mỹ định cư, xây dựng lại cuộc
đời mới, thỉnh thoảng nhớ lại thuở đi cày mà buồn vui lẫn lộn.
Kể từ khi sang Mỹ, hàng năm gia đình mấy chị em bên vợ tôi
ở gần nhau trong thành phố Long Beach thường hay xúm xít lại vào những ngày
cuối năm để gói nấu hàng trăm cây bánh tét để biếu người quen thân thuộc, hoặc
ai đặt mua thì cũng bán chút ít lấy vốn. Ngoài bánh tét, sau nầy tôi còn đề
nghị gói thêm vài cái bánh chưng, tuy khó gói và khẩu vị cũng khác với bánh
tét, nhưng ba chị em cũng cố gắng mở kênh YouTube để học cách gói. Thấy vậy tôi
cười bảo:
– Bánh chưng chỉ để “chưng” thôi trong ba ngày Tết.
Nhưng thật ra là để tôi nhớ tới chiếc bánh chưng bị rơi rớt
trong một buổi chiều cuối năm trong những ngày Tết ở Phú Sơn, cách nay hơn bốn
mươi năm và tôi vẫn còn nhớ mãi câu nói như một lời tiên tri của anh Bảng về số
mệnh con người ngay trong buổi chiều hôm ấy:
– Không sao cả, số các anh vẫn sướng…
Ngoài hiên nhà, mùi bánh tét quyện với mùi lá chuối trong
khói bay nghi ngút đang ngồi chờ vớt giữa đêm khuya thanh vắng, lòng tôi lại
bâng khuâng nhớ về một thời lận đận trong cùng một nỗi buồn xa xứ, dù ở bất cứ
nơi đâu. Nhớ nhà.
Trần Bạch Thu
Sunday, September 29, 2024
MỸ GIẢM MẠNH LÃI SUẤT- ĐIỀU GÌ XẢY RA TIẾP THEO? (GS.TS. KHƯƠNG HỮU LỘC)
Mỹ giảm mạnh lãi suất - điều gì xảy ra tiếp theo?
Mỹ giảm lãi suất lần đầu tiên sau 4 năm sau khi châu Âu cũng có
động thái tương tự - tại sao lại giảm lãi suất vào lúc này và điều này sẽ tác động
như thế nào đến kinh tế Mỹ và Việt Nam sẽ hưởng lợi thế nào? Giá vàng và giá đô
la sẽ biến động ra sao?
https://www.youtube.com/watch?v=kxslwA20DEA
MỘNG (KIỀU NGỌC)
MỘNG
tặng Thanh-Thanh
Em đến thăm anh lúc nửa
chiều,
Nắng vàng nhạt nhạt, gió
hiu hiu;
Tre nghiêng trước ngõ
như chào đón,
Hoa rắc hàng hiên, lá
rải lều .
Nhà anh vắng quá, gọi
không ai;
Em đoán anh đang chép
soạn bài .
Rón rén vô phòng em nói
bỡn:
─ Ô
kià, thi sĩ nhớ nhung ai ?
Nhưng không! anh ngủ
giữa chiều mơ,
Sách gối, bên tay giấy
mấy tờ,
Và bút chì lăn bên lọ
mực...
Biết rồi: anh ngủ giữa
hương thơ .
Em đến bên bàn lục vở
anh
Viết bừa dăm chữ lên bià
xanh,
Bảo rằng em ghé thăm anh
đó;
Ðang giấc thần tiên,
thức chẳng đành.
Gió thổi bên hiên rụng
lá vàng,
Lá rơi làm dậy cả không
gian;
Giật mình em tỉnh ─ À ra mộng
Ðã dẫn em đi vạn dặm đàng.
Em cách xa anh vạn dặm trường,
Làm sao gặp được? nhớ nhung vương.
Em mong anh cũng luôn luôn mộng,
Ðể gặp nhau và đỡ nhớ thương!
Nhưng, khốn chưa! vừa ra khỏi mơ
Bỗng thương không bến, nhớ không bờ.
Tháng ngày cách biệt người yêu dấu,
Buồn nhớ trông anh luống
thẫn thờ...
KIỀU NGỌC
MỖI ĐỘ THU VỀ (DƯ THỊ DIỄM BUỒN)
MỖI ĐỘ THU VỀ
DTDB
Cứ mỗi độ ngoài trời mưa rỉ rả
Nắng đìu hiu và mây tím giăng ngang
Chim xù lông rỉa cánh đậu từng hàng
Ánh chiều tắt, đèn chong vàng ngoài ngõ
Tôi chạnh nhớ quê nhà chiều lộng gió
Con đường mòn đưa vào xã Mỹ Đông
Ven bờ đê xanh biếc khóm vông đồng
In bóng nước trong veo chùm bông đỏ
Cây cầu tre bắc ngang dòng kinh nhỏ
Tay gượng lung lay, cầu lắc khó qua
Áo tím, em thêm chất phác mặn mà
Như bông lục bình nở trên bến nước
Cặp ngỗng thả dòng rỉa lông trắng mượt
Nước phèn trong từ Đồng Tháp chảy ra
Màu nâu hồng nước thấm quyện phù sa
Vào Cửu Long, tẽ ra sông Cái Cối
Gió thoảng nhẹ đưa hương đồng cỏ nội
Nền trời xanh, vầng mây trắng lang thang
Ta tìm nhau qua bóng mát địa đàng
Thả mộng đến những chân trời hạnh phúc
Dòng Cái Cối có mùa trong mùa đục
Đất quê em trải mấy cuộc thăng trầm
Để hẹn xưa trong dĩ vãng mù tăm
Thành kỷ niệm nhạt nhòa trên đất khách!
DƯTHỊ DIỄM BUỒN