Dòng Sông
Thơ Trẻ
Tự Truyện-Nguyên Đạt
Quãng đời ấu thơ và tuổi lớn của tôi đã trải qua ở một làng chài nằm dọc
theo bờ phá Tam Giang. Đó là một ngôi làng nhỏ, rất nhỏ, nếu đi bộ từ đầu làng
tới cuối làng cũng chưa đầy mươi phút. Nguyên thủy nó gồm có hai ấp: An Cư và
An Lạc, sau gộp chung lại thành một cái lên làng: Cư Lạc.
“An
cư, lạc nghiệp” là ước muốn muôn đời của tất thảy mọi người nói chung, riêng đối
với làng tôi thì đó lại là một ước muốn thiết thân, bởi lẽ hầu hết nơi đây toàn
là dân ngụ cư từ nhiều phương rất xa tụ đến. Ngay như dòng họ nhà tôi gốc gác
cũng đâu tận vùng Đất Đỏ xa xôi ngoài Quảng Trị du cư vào khoảng mấy chục năm
nay. Cũng vì sinh sau đẻ muộn, lại gặp thời buổi loạn ly nên làng tôi là
làng duy nhất trong toàn xã chưa được nhà Vua công nhận sắc phong.
Cha
mẹ tôi phần lớn thời gian theo nước sông hồ đi buôn bán khắp nơi ở những phiên
chợ định kỳ nên tôi được ông bà nội lãnh phần nuôi dạy. Cứ thế, tôi lớn dần lên
với năm tháng bên cạnh bàn tay chăm sóc từ ái của hai ông bà. Thông qua nội, những
tên đất, tên người, tên làng, tên nước, tôi đã thuộc nằm lòng trước khi làm
quen với bài học đầu tiên để biết đọc, biết viết những cái tên đó trong các tập
Sử ký, Địa lý... Mãi tới giờ, trong ký ức tôi vẫn còn đọng lại đậm nét những
câu ca dao thấm hoài nỗi nhớ:
Đường vô
xứ Huế quanh quanh
Non xanh
nước biếc như tranh họa đồ
Yêu em
anh cũng muốn vô
Sợ truông
nhà Hồ, sợ phá Tam Giang…
Khi
đọc tới đây, nội bỗng nhiên bảo tôi dừng lại, rồi hỏi:
-Này!
Cháu của ông có biết phá Tam Giang nằm ở mô không?
-Dạ...
Thưa ông. Chắc là xa lắm nội hí?
-Không
xa mô cháu ạ. Đó là cái Rào mà cháu và bạn bè thường hay tắm táp, nô đùa trững
giỡn hằng ngày ấy mà.
-“Ô!
Té ra”... Tôi reo lên ngạc nhiên. Bấy giờ mới biết cái Rào còn có một tên gọi
khác. Nhưng rồi thắc mắc:
-Ông
à! Cháu thấy cái Rào cạn xợt, có nguy hiểm chi mô mà người ta sợ dữ rứa?
-Ngày
trước nó khác lắm cháu à. Ông nội nói: -Hồi đó thường có những con thuồng luồng
quậy phá, đánh chìm ghe thuyền cướp đi sinh mạng, tài sản của rất nhiều người
và...
Vậy
là tôi được ông kể cho nghe câu chuyện cổ tích về cuộc chiến đấu gian khổ của
ông bà tổ tiên để diệt trừ cái mầm họa chung; nhờ thế, con cháu sau này mới được
an tâm đánh bắt cá tôm, không còn e ngại gió to sóng cả nữa.
Kho
tàng cổ tích của nội nhiều vô kể, cứ như ông để sẵn đâu đó trong túi, gặp lúc cần
là lấy ra ngay. Từ những câu chuyện cổ tích đó, ông thường liên hệ với thực tại,
dạy cho tôi biết cần phải ăn ở sao cho phải đạo làm người. Đó là con người sống
ở đời phải có nghĩa, có nhân, có lễ, có tín…v v…và…vv…
Một
lần, gặp lúc thấy ông vui, tôi thủ thỉ hỏi:
-Nội
ơi! Nội kiếm mô ra lắm chuyện cổ tích rứa?
Ông
chăm chú nhìn tôi một đỗi, hiền từ mỉm cười có phần đắc ý rồi lập tức kéo tôi
trèo lên căn gác lửng mà lâu nay chỉ mình ông độc chiếm, lui cui lấy ở tủ ra những
tập sách dày cộm, lật từng trang, chỉ vào đó và bảo:
-Tất
cả ở trong ni nì. Cháu muốn biết không?
-Nhưng...
Cháu... Cháu đâu biết đọc được như ông? Tôi phụng phịu nói, và nội từ tốn giải
thích:
-Muốn
biết đọc phải học chữ. Khi biết chữ rồi thì cháu tha hồ mà tìm hiểu, sẽ biết vô
khối chuyện cho mà coi. Nào. Bây giờ ông cháu mình cùng học nhé!
Tôi
bắt đầu làm quen với mẫu tự A, B, C như thế đấy. Hồi đó, trường Huyện quá
xa, nội được tiếng có chút chữ nghĩa trong làng nên bà con nhân đó gởi con cháu
tới nhờ ông dạy bảo luôn. Tôi nhớ, vốn liếng của nội độc chỉ có quyển Quốc Văn
Giáo Khoa Thư để dạy lũ trẻ tập đọc-tập chép, còn làm toán và tập viết thì ông
cứ tùy nghi phóng bút vào vở học trò; vậy mà khi đủ tuổi nhập vào lớp Ba trường
huyện, cả bọn học hành cũng giỏi dang chẳng kém cạnh chi ai.
Nội
vốn rất mê truyện Tàu, ông thường kè kè một quyển sách bên mình, hễ có dịp rổi
rãi là cắm cúi mở ra đọc, nhằm đến hồi cao hứng, ông vuốt râu, dững mày đi một
đường “Hành Vân Tẫu Mã” gọn bân, mặc cho lũ đệ tử đang chúi mũi chúi lái ê a học
bài ngưng cả lại, há hốc mồm nhìn ông kinh ngạc.
…
Vào một buổi trưa hè, nội đang nằm lơ mơ trên tấm phản gỗ, bỗng như chợt nhớ ra
chuyện gì, liền nhỏm dậy, bước tới chỗ chiếc tráp kê ở đầu giường phía sau buồng
ngủ lục lọi hồi lâu rồi lôi ra một chiếc kèn loe bóng loáng; sau đó, từ tốn
quay trở lại, leo lên phản, hai chân xấp bàn, sửa soạn lệ bộ, khi tư thế đã
hoàn toàn thẳng thớm mới trịnh trọng đưa chiếc kèn lên miệng thổi; tức thì một
tràng âm thanh thê thiết trổi lên, khi thì dịu dàng uyển chuyển, có lúc lại bi
tráng trầm hùng như có một đạo quân đang rầm rập phi mình trên lưng ngựa, ầm ào
chiến đấu khiến tôi sững người, đứng như trời trồng, mê mẩn lắng nghe chẳng rời
nửa bước. Hỗng biết tự bao giờ, bà con chòm xóm kéo tới lớp trong lớp
ngoài say mê theo dõi. Cao hứng, ông thổi luôn một mạch bốn năm bài mới nghỉ.
Sự
phát hiện này làm tôi nổi lên một đam mê bức thiết; vậy là suốt ngày hôm sau cứ
lẽo đẽo theo sát đít nội, nằn nì ông dạy cho mình thổi kèn. Sau một lúc trầm
ngâm suy nghĩ, ông thủng thỉnh đứng dậy bước ra vườn cắt một ống đu đủ, múc tô
nước thật đầy để ngay trước mặt tôi, bảo:
-Muốn
sử dụng chiếc kèn loe này để thổi cho tròn một bài nhạc thì cháu phải biết lấy
hơi vòng từ mũi xuống miệng suốt từ đầu tới cuối không được ngắt khúc giữa chừng.
Bây giờ cháu hãy quan sát ông làm nhé!
Nói
xong, ông từ từ đút ống đu đủ vào tô nước rồi phùng mang thổi. Lạ thay, hơn
phút rưỡi trôi qua mà bọt nước trong tô vẫn liên tục sủi lên đều đặn không
ngưng nghỉ.Đưa ống đu đủ cho tôi, ông nghiêm nghị nhìn và bảo:
-Cháu
hãy bắt đầu đi, khi nào được như ông thì mới thực hành trên chiếc kèn loe này
được.
Suốt
một tuần khổ nhọc vật lộn với ống đu đủ cùng tô nước vẫn không sao làm được như
nội, tôi thất vọng quá chừng. Thấy cháu buồn, ông dịu dàng an ủi:
-Không
phải bất cứ điều gì mình muốn làm là được ngay đâu. “Có công mài sắt, có ngày
nên kim” cháu ạ. Thôi, để đó rồi hạ hồi phân giải, bây giờ ông cháu mình chơi
món khác đi.
Chiều
hôm sau, ông cho tôi thay đồ mới rồi cả hai dẫn nhau lội bộ cả chục cây số lên
tận xã trên, tìm nhà người quen, kiếm cho được cây trúc già vàng ngàu rỗng ruột,
đem về, phơi nắng mấy ngày vừa đủ khô. Thêm một buổi lấy que sắt nung nóng dùi
lỗ và chuốt gọt, đánh bóng nữa là hai ông cháu có trên tay mỗi người một ống
sáo bóng rạnh.
Dưới
ánh trăng thượng tuần còn mờ nhạt chưa đủ soi rõ mặt người vào tối mùa hè oi ả
đêm ấy… Nội và tôi trải chiếu giữa chiếc sân đất trước nhà, say mê luyện tập
bài sáo đầu tiên: “U liêu xề cống liêu”. Ông xướng lên và tôi đọc theo: U
xang u, liêu cống liêu xề. Cống liêu cống, xê xàng xự xàng xê... Quá nửa
đêm một chút thì tôi đã hoàn thành xong bài sáo nhập môn "Kim tiền-Lưu thủy". Từ
đấy, tôi quên phéng luôn chiếc kèn loe với tô nước đầy, sôi tràn bọt sóng.
…
Năm tháng đi qua, dòng đời đẩy đưa làm cho tôi mỗi lúc càng xa ngái làng quê có
người ông yêu dấu. Tôi đã trải qua không biết bao thăng trầm chìm nổi, nếm đủ cả
đắng cay lẫn cả ngọt bùi; nhưng những năm tháng đáng nhớ nhất trong đời tôi vẫn
là những tháng ngày êm ả bên người ông yêu dấu. Tôi đã từng làm người thổi sáo
rong, đi bán sáo dạo, nay ở đầu đường, mai ở cuối chợ, chủ nhật thì với một túi
sáo đầy lưng, đem tiếng sáo mua vui kiếm tiền độ nhật. Rồi một ngày, tôi chợt
nhớ ra cái nguyên tắc mà nội đã truyền thụ hồi xưa khi làm ống sáo ban đầu. Tôi
mày mò nghiên cứu, chế ra đủ các loại sáo ngang, sáo dọc, ống địch, ống thiều…
Bây
giờ tôi đã có một cơ ngơi nho nhỏ bán đầy đủ các loại nhạc cụ dân tộc do công
xưởng tại gia làm ra: “Cháu ơi! Đừng bao giờ nản lòng. Cháu phải biết ước mơ,
và điều quan trọng là cháu phải có quyết tâm thực hiện ước
mơ đó". Tôi đã làm theo lời khuyên của nội và đã có chút thành đạt
trong cuộc sống. Đó cũng là nhờ may mắn được bảo bọc trong chiếc nôi đầu đời có
vòng tay bao dung chăm chút của nội, quyện hòa với những huyền thoại ngọt ngào
bên Dòng Sông Thơ Trẻ…