Kính thưa quý thầy cô & các
anh chị,
Hồi ký của chị Bạch Tuyết (cựu
trưởng ban ngân quỹ kiêm thủ quỹ của ngân hàng PTNN tại Tuy Hòa) Thukỳ
may mắn vào học tại đây nên quen biết chị, dù thơi gian ngắn ngủi
nhưng kỷ niệm tại ngân hàng cũng nhiều và vui buồn lẫn lộn, xin kể 1
câu chuyện thật xảy ra tại đây, chút vui vui của thời xa xưa ấy.
Một hôm Thukỳ đánh máy những đơn
xin vay của thân chủ, khi xong thì mang vào văn phòng ông giám đốc ký,
TK chờ ông ký xong thì đem ra giao cho ban tài chánh, phòng thủ quỹ để
hôm sau phát vay cho họ. Có một hồ
sơ ông ta tên là Hà C..
TK phải đánh cho đúng chính xác
tên của họ, nhưng khi ông giám đốc ký mới nghi là TK còn trẻ nghịch
hay làm lộn, nhưng ông khg dám hỏi thẳng, mà dùng bút đem ghi vào đơn:
“Ông này tên Hà Cập hay Hà C..?”
Thukỳ đọc xong phải ngồi gục
xuống ghế mà cười chảy nước mắt.
Các bác chủ sự phòng cũng mắc cười nhưng họ phải cố dằn
lại.
Hôm sau ngày phát vay, tất cả các
chị trong thủ quỹ không ai dám gọi tên ông, nhìn rồi úp hồ sơ qua một
bên, cho đến khi phát tiền hết mọi người, chị Bạch Tuyết thấy còn 1
hồ sơ mới mở ra xem, nhìn hình căn cước và ông bác đó giống nhau,
chị cười nhẹ và ngoắt ông lại, tội nghiệp khỏi đọc tên ông vừa thẹn
vừa nói chữa: “Hồi nhỏ xấu láy quá cô, sợ khó nuôi nên ba má đặt
tên vậy” Tội nhất là chị Bạch Tuyết kể ông kiên nhẩn chờ không khiếu
nại hay hỏi han gì cho đến khi chị gọi.
Một cái phong tục xưa mà ba má ở
quê nhà tin dị đoan khg muốn đặt tên con hay sợ ông bà bắt chết…Tội
cho con phải mang cái tên mà một đời khổ sở, hy vọng ngày nay với sự
văn minh thì ai cũng có những cái tên thật đẹp như Bạch Tuyết hay
Thu-kỳ chẳng hạn…haha
Xin chia sẻ chút chuyện xưa vui kỷ
niệm tại ngân hàng mà hai chị em kể lại còn cười. Xin đọc tiếp hồi ký phần 3 của chị
Bạch Tuyết.
Thukỳ
**********************
Ba tôi đang công tác
ở miền Trung trong chiến dịch đấu tố này việt Minh khg còn tin tưởng giai cấp địa chủ nên cho ba tôi về nhà. Ông đã học tập kỹ
ở cơ quan về vấn đề đấu tố này nên ông rất sợ, về nhà ông ở trong
phòng khg dám tiếp xúc với ai. May
mắn việc đấu tố hành hạ thân xác địa chủ chưa kịp thi hành thì chiến
dịch Ách lăng (Atland) xảy ra. Quân đội viễn chinh Pháp và quân
đội Quốc Gia đổ bộ ra Tuy Hòa, họ đóng quân khoanh từng vùng, như Tuy
Hòa và Hòa Thành, xã quê chúng tôi thì còn Việt Minh kiểm soát.
Ba tôi lúc này đã
trở lại cơ quan, nhà chỉ còn má tôi, hai bà dì và 3 chị em tôi và
người giúp việc (ông ngoại tôi mất 1952, tiếp đến là em gái thứ Ba
của tôi, cô em này tôi rất thương yêu vừa xinh đẹp vừa khôn ngoan, em
mất lúc lên 5 tuổi! Tôi thương nhớ em khóc hết nước mắt, cứ mỗi
lần cầm đến đồ chơi của em là tôi nhớ, sau đó vài năm bà nội mất,
thêm một lần nữa tôi đau buồn, vì từ tấm bé hằng đêm tôi vẫn ngủ
chung với nội nghe nội kể chuyện cổ tích, chuyện tông chi họ
hàng...Ông ngoại thì nghiêm nên tôi rất sợ, con nít như chúng tôi có ai chịu ngủ trưa chỉ thích rong chơi, đi bắt bươm bướm, chuồn chuồn, nhưng ông ngoại buộc phải ngủ trưa. Nằm bên ông ngoại sợ quá ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Tôi thuộc những bài thơ của bà Huyện Thanh Quan,
những bài thơ yêu nước cũng nhờ từ ông ngoại, tôi đã mất liên tiếp 3
người thân yêu)
Mọi người lập mưu
cho 2 bà dì dẫn em trai tôi đi trước, mấy ngày sau má tôi mới nói với
ông giúp việc phải đi Hòa Thành để thu lúa, để lại tiền bạc lúc gạo
cho ông sống, căn dặn kỹ nên ông hỏi sao cô đi có ít ngày mà dặn kỹ
vậy? Ông có biết đâu đó là lần cuối cùng vĩnh biệt nhau. Sau đó khg lâu ông bị máy bay Pháp bắn
chết, lúc này tôi gần 12 tuổi, má tôi bồng em gái đi với tôi lên nhà
bà cô thứ Sáu ở xã Hòa Thành cách xa đồn lính Quốc Gia khoảng 5 cây
số ở lại 1 đêm, sáng hôm sau má nói gạt cô là vô Phước Bình tìm coi
có ai quen hỏi thăm tin tức gia đình ở Phan Thiết, bà cô chẳng nghi
ngờ gì.
Chúng tôi đi đến
Phước Bình gặp ngay người quen, vợ chồng chú Trần Bình trọng và cô
Thu, chú Trọng quê ở Hòa Hiệp khg biết chú theo lính Quốc Gia từ lúc
nào, cũng may nhờ có cô chú mà trong mấy ngáy ngày ở đây được cô Thu
lo cơm nước chu đáo, còn bày vẽ làm sao ra được TP Tuy Hòa. Thuở
ấy tuy là con nít nhưng tôi thấy cô chú ấy đẹp đôi và sang trọng,
chẳng biết giờ này cô chú ở đâu có còn trên đời này hay khg, con xin
tri ân cô chú.
Sau đó chúng tôi
theo xe nhà binh đến Phú Lâm, vì xe khg đi thẳng ra Tuy Hòa, nên mẹ con
phải đi bộ băng qua cầu Đà rằng, cầu thật dài hơn 1 km, lúc ấy tôi
xách cái giỏ mây đựng ít quần áo, tôi lẻo đẻo theo sau, má tôi bồng
đứa em đi trước, vừa đến đầu cầu Đà rằng đã gặp ngay người lính
viễn chinh da đen đang cầm súng chận lại, má tôi đưa tay bắt tay người
lính này và nói Bonjour monsier (chào ông) sau đó bà hỏi ông bằng
tiếng Pháp ngả nào đến TP. Tuy Hòa. Chắc người lính Pháp ngạc
nhiên là ở nơi chốn u tịch này mà có 1 người đàn bà nhà quê nói
tiếng Pháp trôi chảy, nên ông ta chỉ đường cho đi, nhưng phải đi bộ băng
qua Ngọc lãng mới đến Tuy Hòa thay vì đi trên cầu Sông Chùa.
Đến TP chúng tôi tá
túc nhà cô Ba Hữu Dụng con của ông bà Hòa Thái người quen biết ba
tôi. Tuy mới tiếp thu Tuy Hòa, nhưng cô Ba Giác đã mở một của
hàng tạp hóa, vải vóc mới nhập từ miền Nan ra, là con nít chẳng
biết làm gì hằng ngày tôi ra đứng trước cửa hàng chơi, dân và lính
tây đến mua tấp nập, tôi nghe cô nói tiếng Pháp dòn tan mà phục lăn,
nghe đâu lúc trẻ cô đi học ở Đồng Khánh Huế. Đây là Gđ thứ 2 mà
chúng tôi mang ơn khi mới từ vùng Việt Minh ra.
Mới tiếp thu mà đã
thành lập chính quyền có tỉnh trưởng… đầy đủ. Tôi còn nhớ ông
Tỉnh trưởng đến tiệm tạp hóa của cô ba Giác thấy đứa cháu trai con
của em cô, và em gái nhỏ của tôi xinh xắn dễ thương ông bồng chụp
hình. Ở Tuy Hòa một thời gian ngắn chúng tôi theo xe nhà binh vô
Nha Trang, trong xe GMC này có chở con ngựa đứng giữa, chúng tôi ngồi 2
bên xe, khi xe đến Đèo Cả bị Việt Minh giật mìn cũng may khg ai bị
thương tích gì.
Bà ngoại nghe tin
các con sắp về Phan Thiết bà ra Nha Trang ở nhờ nhà người cháu họ
trước mấy ngày để đón các con các cháu. Sau 9 năm xa cách mẹ
con gặp lại khg còn nỗi vui mừng nào hơn.
Chồng dì sáu tôi bị Tây bắt làm tù binh cũng được thả ra, về
đến Phan Thiết bà con làng xóm ai cũng đến thăm viếng, mừng rỡ cho
quà cáp, hàng vải để may mặc vì biết chúng tôi thiếu thốn.
Sau đó thì hiệp
định Genève ký kết chia đôi đất nước, bà dì thứ Bảy tôi vì chồng
còn lại ngoài đó nên tập kết theo chồng ra Bắc. Ba tôi lúc này
đang ở Bình Định, tụ điểm tập kết, ông khg muốn đi định trốn về
nhưng sợ họ theo dõi, nên ba tôi viện lý do là về đem thằng con trai ra
đi, ba tôi về Phan Thiết và ở lại. Lúc này mọi việc đã tạm
ổn, ba má tôi đưa con đi Sài Gòn viếng thủ đô, ở SG một hôm đi dạo
trên đường phố thấy từng đoàn xe chở người Bắc di cư từ bến Bạch
Đằng lên, tôi đứng nhìn từng chiếc xe chạy qua, trên xe thấy những
ngauời đàn bà chít khăn đen nhìn quanh đường phố vẻ mặt ngỡ ngàng,
ngơ ngác. Lần đầu tiên tôi có mặt trên đường để nhìn thấy những
người khách ly hương mới nhập cư vào miền Nam.
NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT
**Xin mời xem tiếp phần 4 vào tuần tới.