Sunday, September 27, 2015

RAU MUỐNG



Nguyễn Xuân Quang
Rau muống là một thứ rau quốc hồn quốc túy của đại tộc Bách Việt. Rau muống là hồn quê,
hồn nước của dân Việt. Rau muống là cây rau biểu tượng cho dân tộc Việt, nói theo chữ Hán thì rau muống là “quốc thái” của chúng ta (quốc thái cũng có một nghĩa theo quốc thái dân an). Dù có đi đâu chăng nữa, dù có đi khắp năm châu bốn biển, người Việt cũng vẫn nhớ vẫn thèm rau muống:
Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ ao rau muống, nhớ cà dầm tương.
Rau muống mọc ở vùng sông nước nên là thứ rau căn bản của đại tộc Việt, của Bách Việt sống ở vùng sông nước, là rau của Lạc Việt, của Việt Ruộng Nước, của Việt dòng Mặt trời nước Lạc Long Quân. Lê Quí Đôn trong Vân Đài loại ngữ có cho biết: “Sách Thảo mộc trạng nói: Úng thái (rau muống) tính lạnh vị ngọt, người Nam lấy cỏ, rau làm bè thưa để lỗ nhỏ, thả trên mặt nước rồi trồng úng thái lên trên bè, bè nổi lênh đênh như bèo… Ấy là một thứ rau lạ của phương Nam”.
Sách Quảng Đông tân ngữ chép:
“Ở Quảng châu, cứ 10 khu hồ thì ba khu thả cá, 3 khu thả sen, súng, ấu; 4 khu làm ruộng trồng úng thái làm bè thả xuống nước. Bè theo nước mà lên xuống, gọi là phù điền (ruộng nổi). Rau đó tục gọi là rau muống (mộng thái). Rau muống giải các thứ độc, nên cả nước, nhà nào cũng trồng để ăn” (1).

TẠI SAO GỌI LÀ RAU MUỐNG?
Khuất Nguyên (340- 277 Trước Công nguyên), một đại công thần nước Sở gọi rau muống là “Túc Mãng”. Sở là một nước thuộc đại tộc Việt. Lúc Khuất Nguyên bị biếm chức vì bọn nịnh thần, ông bỏ nước Sở về ở vùng Động Đình Hồ, cái nôi của Đại Tộc Việt. Ông thu thập tất cả các bài phong dao, kể cả các bài dân ca, hát ru, hát chầu văn, hát hò, hát chèo đò… ở vùng Động Đình hồ rồi san định lại thành Sở Từ Ca và Trường Ca Ly tao. Rau muống “túc mãng” đã được Khuất Nguyên nhắc tới trong trường ca Ly Tao:
Cốt dư nhược tương bất cập hề,

Khủng niên tuế chi bất ngô dữ.

Chiêu khiến phê chi mộc lan hề,

Tịch Lãm châu chi Túc mãng.

và sau đây là bài dịch của Vũ Khánh:

Ta như kẻ trên đường hoảng hốt,

Sợ tháng năm hun hút mau trôi.

Mộc Lan sớm cắt trên đồi,

Chiều tà Túc mãng hái nơi cạnh dòng.
Trong chuyến đi thăm Động Đình Hồ, bữa ăn trưa ở Nhạc Dương, chúng tôi cũng được ăn thứ rau muống mọc ở hồ Động Đình, một thứ rau muống có từ huyển sử Việt (xem Hồ Động Đình và Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
Rau muống cũng đã được Nguyễn Trãi, một vị công thần khai quốc của chúng ta nhắc tới trong bài “Gởi Bạn” tức “Ký Hữu” trong tập Ức Trai thi tập như sau:
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,

Vạn sự duy ưng phó lão thiên.

Thốn thiệt đản tồn không tự tín

Nhất bàn như cố diệc tham liên.

Quang âm thúc hốt thỉ nan tái

Khách xá thê lương dạ tự niên.

Thập tải độc thư bần đáo cốt,

Bàn duy mục túc tọa vô chiên.

Học giả Đào Duy Anh đã dịch như sau:

Bình sinh vất vả ngán đường đời,

Muôn việc đành nên phó mặc trời.

Tấc lưỡi hãy còn, ăn nói được,

Chiếc thân vẫn khó, xót thương thôi!

Bóng xuân thấm thoát thì khôn kéo,

Quán khách lạnh lùng đêm quá dài.

Đọc sách mười năm mà kiết xác,

Ăn tràn rau muống, chẳng chiên ngồi.
Chiên là chăn, đệm (2). Chú ý ở đây Nguyễn Trãi gọi rau muống là mục túc thay vì túc mãng.
Như thế rau muống được gọi là:
mộng thái như đã thấy ở trên người Quảng châu gọi rau muống là mộng thái. Theo m=b như mồi hôi = bồ hôi, ta có mộng = bộng và theo biến âm th = c (như má thóp = má cóp, Mường ngữ thóp mỡ = tóp mỡ = cóp mỡ, thầm lặng = câm lặng), ta có thái = cải. Mộng thái có nghĩa là cải bộng, cải rỗng. Tên này cùng nghĩa với tên úng thái, ông xôi cũng có nghĩa là cải ống ( xôi = côi = cải và úng = ống) và tên không tâm thái là cải có phần tim ruột trống không tức cải rỗng.
-rau “túc mãng” như Khuất Nguyên đã gọi.
-và mục túc như Nguyễn Trãi đã dùng.
Nên nhớ là người Trung Hoa ở phương Bắc đất khô và lạnh không có rau muống như trên đã thấy Sách Thảo Mộc trạng đã nói rau muống “là một thứ rau lạ của phương Nam” vì thế cho nên các tên mộng thái, úng thái, ông xôi, không tâm thái, túc mãng, mục túc đều là những tên phiên âm dịch nghĩa từ tiếng Nôm Bách Việt .
Rau túc mãng, rau mục túc nghĩa là gì?
Tham khảo qua thư riêng, nhà nghiên cứu chữ Nôm Bách Việt Đỗ Thành cho biết:
Rau muống là rau “mãnh” là rau sống mạnh/sức sống mãnh liệt mà thành tên: ngắt cọng không có rễ trồng vẫn được, có thể sống trên bờ đất khô, đất ẩm và dưới nước sông / hồ / ao/ lu/ chậu v v … và vì rau rỗng ruột cho nên gọi là ống; phát âm ống được giữ nguyên để dùng cho cả vùng Hoa Nam từ Trường Giang trở xuống hướng nam để gọi tên cho loại rau nầy, Trung Văn ngày nay vẫn gọi rau nầy 嗡菜-Ống thái, những người không biết thì dịch là ung thái
-tiếng Quảng Đông mới đọc chữ này là ung/dung/dúng-
.
-tiếng Bắc Kinh củng đọc giống như Quảng Đông.
-tiếng Triều Châu đọc trại âm trở thành Én chạy (ống thái); ở miền tây Việt Nam có câu “chờ anh thì em vẫn chờ, chờ cho én chạy(sậy) lên bờ nở hoa”.
Phía Bắc của Trung Quốc không trồng được rau muống và những người không hiểu thì dùng chữ mới gọi là
䔨菜-ung thái, Nam Kinh và nam Trường Giang nói chung thì vẫn viết là 嗡菜 Ông thái và lại bị VN dịch là Ung thái!
Rau muống luôn mọc thành bè nổi lềnh bềnh, mạng lưới của rau là đặc tính để dân gian gọi là rau “mạng”, mạng-
theo Quảng Đông đọc là ” mọn”, Triều Châu đọc là “màn”, Bắc Kinh đọc là “quàn”; Đường âm/Hán Việt đọc là “võng-“; rau mạnh-mãnh hay võng hay là ống/ón lai với âm Mọn/món của Quảng Đông thành ra rau “muống”; muống hay “muộn” tính ra là đồng âm …khi người con gái gốc Hoa Nam ở miền tây Việt Nam trách chàng lâu quá/muộn mà chưa hỏi cưới thì mượn rau muống/muộn để nói … quá lâu (chờ rau muống dưới nước lên bờ nở hoa).

Túc mãng-
宿莾 chưa bao giờ có nghĩa là rau muống; chẳng lẽ Khuất Nguyên viết trong thơ tối thì đi hái rau muống? Và tại sao buổi tối mới hái rau muống? Cả tỉ người Trung Quốc ngày nay không ai giải nghĩa Túc mãng là rau muống trong Ly Tao của Khuất Nguyên, họ giải thích khác và vẫn đi vào bế tắc, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, ông nói gà bà nói vịt; nói chung là chưa ai hiểu đúng hết thơ của Khuất Nguyên và riêng kết luận Túc mãng là rau muống thì sẽ có hơn 1 tỉ người không hiểu nổi.
Cái tên vô tâm thái –
無心菜 xuất hiện tận thời Trụ Vương trong truyện Phong Thần, bởi vì rau ống có cái khoảng giữa tim là trống không, đưa cả rau muống/rau ống vào truyện thì có thể biết tác giả của truyện là cư dân của một dân tộc rành và thường ăn rau muống/ rau ống/ vô tâm thái.

Khuất Nguyên gọi rau muống là Túc Mãng thì không có bằng chứng Túc Mãng là rau muống đã rỏ ràng bằng các tài liệu tham khảo bên Trung Văn, còn Nguyễn Trãi gọi là Mục Túc thì có gì làm bằng chứng Mục Túc có nghĩa là rau muống?

Ngày nay gọi là ung xôi hay mộng thái hay ung thái
雍菜/嗡菜 hoặc én sậy (Triều Châu) đều là trại âm của chử ống.
-Chữ ống-
được ghép bởi khẩu- là hình ống/rổng + với chữ ông- để mượn âm “ông”, ống/ông bị biến âm ung, en, én , dung, dung.
– chữ mãnh/mạnh/mạng thì biến thành mọn (Quảng Đông) và mộng thái! Chỉ là mạnh thành ra mọn rồi món mới ra âm “muống”; muống lại bị thành muộn cho nên mới xảy ra chuyện cô gái Triều Châu ở miền Tây Việt Nam vừa gọi Én sậy/(chạy) là rau muống/muộn (muộn: trể, lâu…) để trách “chờ anh thì em vẫn chờ, chờ cho Én chạy lên bờ nở hoa”.

Cái gốc vẫn là rau ống-
và đây là điều thú vị để thấy từ thời nhà Thương cho đến nay thì từ Trường Giang-長江 trở xuống phía Nam đều là văn hóa và phát âm của Việt tộc/tiếng Việt là chuẩn là gốc” (Đỗ Thành).
Về phía Tây phương, người Pháp, ngoài tên gọi theo thực vật là “liseron d’eau”, còn có một tên khác văn vẻ hơn gọi rau muống là “Belle de jour”, (Người đẹp ban ngày) hay là “Nhật Quang Kiều nữ” (2). Anh Mỹ gọi dây bìm bìm là “morning glory” (“buổi sáng huy hoàng”) và rau muống là “water morning glory” (rau “buổi sáng huy hoàng mọc dưới nước”).
Tôi còn thắc mắc là rau “Túc Mãng” của Khuất Nguyên và rau “Mục Túc” của Nguyễn Trãi trong văn chương bác học có nghĩa gì liên hệ với văn hoá của chủng Người Mặt Trời Bách Việt có cốt lõi là nòng nọc, âm dương Chim-Rắn Tiên Rồng theo Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo hay không?
Không biết rau Belle de Jour Nhật Quang Kiều Nữ và ‘water morning glory’ gọi rau muống là thứ rau tiêu biểu của Bách Việt có liên hệ gì với Thái Dương Thần Nữ Âu Cơ, Mẹ Tổ Mặt Trời Hừng Rạng của đại tộc Người Mặt Trời Rạng Ngời Bách Việt hay không?


TỔNG QUÁT VỀ RAU MUỐNG
-Tên thực vật học: Ipomoea aquatica Forsk.
-Tên Việt: muống.
-Tên Mường: muông.
-Tên Trung Quốc: Úng Thái, Quảng Đông đọc là ông xôi, Quảng châu là mộng thái…
-Tên Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân: Kangkung.
-Tên Thái, Lào: Pak bung (đọc là pạc bung).
-Tên Campuchia: Tluol, tra kuôn.
-Tên Nhật: horenso.
-Tên Guam: kankan hoặc cancon, kangkung.
-Tên Paulau (một quốc gia thuộc Tiểu đảo, Micronesia): kangum, kangkum.
-Tên Pháp: liseron d’eau, Belle de jour.
-Tên Mỹ: water morning glory.
Rau muống mọc ở vòng đai nhiệt đới. Rau muống trồng hay mọc dại ở ao, đầm, đìa, sông, hồ, bưng, bàu:
Còn trời, còn nước, còn mây,
Còn ao rau muống, còn đầy chum tương.
Rau muống thuộc họ dây bò, cuộn (convolvulaceae), bà con với khoai lang (Ipomoea batatas), thuộc họ dây bìm bìm. Trước đây bìm bìm có tên thực vật học là Ipomoea bimbim, từ bimbim này lấy theo tên Việt Nam bìm bìm…Tại Hoa Kỳ và nhiều nơi không có ao hồ, rau muống trồng bằng hạt trong bồn đất sũng nước. Loại thông thường dùng làm rau ăn cọng xanh, nhưng cũng có loại cọng tim tím gọi là rau muống tía. Cọng rau muống rỗng, láng, mọng, rễ lan, lá có đáy cụt tròn bầu, hình trái tim, hình mũi tên, hình mũi mác, thùy lá nở rộng hay thon hẹp, cuống hoa có một hay vài hoa hình phễu dài từ 3-5cm, màu trắng hoặc màu hoa cà (nửa hồng nửa lam), tím nhiều ở giữa hoa, cánh ngoài láng, thuôn hình noãn.

Hoa rau muống (nguồn projectnoah.org).
Hoa có cả nhụy đực, nhụy cái, bầu noãn có hai bao noãn hình quả trứng dài 8-10mm, hột có lông hay không.
Ở Việt Nam rau muống trồng từ đầu mùa xuân:
Cuối thu trồng cải, trồng cần,
Ăn rong sáu tháng cuối xuân thời tàn,
Bấy giờ rau muống đã lan,
Lại ăn cho đến thu tàn thời thôi.
Rau muống tàn vào cuối thu cho nên rau muống tháng chín già, cỗi rất xơ dai:
Rau muống tháng chín,
Nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn.
Rau muống ngon tùy từng vùng, rau muống ngon nhất ở vùng Hiên Ngang:
Cua Phụng Pháp,
Rau muống Hiên Ngang.
Mua rau muống, muốn chọn thứ rau ngon phải xem xét lá rau:
Mua bầu xem cuống,
Mua muống xem lá,
Mua cá xem mang.

RAU MUỐNG LÀM THỨC ĂN
Rau muống là một loại rau căn bản của dân dã Việt Nam. Rau muống có thể đã đóng góp vào việc nuôi dưỡng, sinh tồn của dân tộc Việt Nam. Rau muống được coi như là một món ăn thanh đạm. Như trên ta thấy những vị công thần như Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi khi bị thất sủng về vườn sống cuộc đời thanh đạm nơi đồng nội ngày ngày ăn rau muống nhưng tâm hồn giữ được thanh thơi, liêm khiết. Người con gái quê Việt, tuy nghèo sống nhờ rau muống tương cà nhưng mà sống vui vầy trong hạnh phúc đạo lý gia đình và tự lập:
Nhà em có vại cà đầy,
Có ao rau muống có đầy chum tương,
Dầu không mỹ vị cao lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em,
Một nhà vui vẻ êm đềm,
Đói no tùy cảnh, không thèm lụy ai.
Tình yêu và hạnh phúc vẫn còn mãi mãi miễn là có được một ao rau muống, có đầy chum tương:
Còn trời, còn đó, còn đây,
Còn ao rau muống còn đầy chum tương.
Rau muống có thể dùng nấu ăn bằng bất cứ cách nào cũng được: ăn sống, luộc, nấu canh, xào, làm nộm, trộn salad… Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư viết: “Rau muống mọc ở các ao hồ, là một thứ rau ta rất hay ăn. Người ta hái và bó nhiều ngọn với nhau thành từng mớ, các ngọn rau có lá, người ta nhặt những lá sâu lá úa và bỏ những cuống già đi, rồi đem luộc hoặc xào, hoặc nấu canh. Xào thì phải có mỡ và thường cho thêm tỏi. Nấu canh thì thường nấu với tương, nấu với cua đồng, tôm he, sườn lợn. Rau muống luộc mà chấm với tương ăn cũng ngon, còn nước luộc rau thì đem chan vào cơm mà ăn với cà cũng thú vị” (3). Món giản tiện nhất là rau muống luộc ăn với cà pháo muối chua.
Nhà em có vại cà đầy,
Có ao rau muống, có đầy chum tương.
Nước rau muống luộc có thể để vậy vắt chanh chan cơm hay đánh dấm với cà chua, hành, tỏi… Rau muống xào tỏi phải kèm vài ngọn kinh giới (4). Rau muống nấu canh, phải kể thêm là nhà nghèo thường nấu suông nghĩa là không có gì cả ngoài mắm muối còn nhà khá giả có thể nấu canh rau muống với trứng cáy, cua đồng, tôm, sườn heo… Rau muống nấu canh muốn cho ngọt phải ngắt những ngọn non như thấy qua câu ca dao sau đây:
Ốc bực mình ốc,
Ốc vặn ốc vẹo,
Bèo bực mình bèo,
Lênh đênh mặt nước,
Nước bực mình nước,
Tát cạn cấy khoai.
Khoai bực mình khoai,
Đào lên cấy muống,
Muống bực mình muống,
Ngắt ngọn nấu canh,
Anh bực mình anh,
Vợ con chưa có,
Đêm nằm vò võ,
Một xó giường không,
Hỏi giường có bực mình không hỡi giường?
Rau muống nấu canh tôm, ăn vào mát lòng mát dạ, con gái chưa chồng ăn vào dậy tình:
Rau muống mẹ nấu canh tôm,
Con ăn mát dạ đêm hôm đòi chồng.
Rau muống ăn sống thường là rau muống chẻ, nhiều khi vội, chỉ chẻ làm tám, làm tư hay để nguyên cả cọng. Ăn bún chả Hà Nội hay bún riêu phải có rau muống chẻ nhỏ ngâm nước, xoắn tít lại, ăn nhai ròn tan và mát miệng mới đạt tới được mức tuyệt đỉnh của nghệ thuật ăn uống. Rau muống làm nộm với giá luộc, thịt ba chỉ thái nhỏ, mè, chanh, rau kinh giới và nhất là có thêm rau rút. Salad rau muống thường trộn dầu, dấm, thịt bò… Người Thái Lan có món rau muống xào đặc biệt. Rau muống xào suông với mắm ruốc, tỏi ớt hay với thịt, cá, mực rất cay. Tác giả đã từng ăn món rau muống xào rất cay tại Chiang Mai, Thái Lan. Một đĩa rau muống xào đếm thấy trên hai mươi trái ớt hiểm. Tính ra cứ một cọng rau muống gần như lại có một quả ớt. Ở đây rau muống xào họ dịch là fried morning glory (rau “rạng sáng” xào). Tại Jakarta, tại City Hotel Cafe cũng có món rau muống xào rất cay gọi là “kangkung hot plate”. Cái cay ở đây có thêm vị safron và những gia vị của “đảo gia vị” (“spicy island”) phảng phất mùi cà-ri. Dân hải đảo Thái Bình Dương nấu canh hay xào rau muống với cá. Đồng bào ở miền Nam ngoài những món thông thường, còn có món cọng rau muống muối dưa ròn tan, ăn hết xẩy. Khi trước, lúc còn làm trưởng chi Y tế Hồng Ngự, Kiến Phong, tác giả được thưởng thức món cọng rau muống muối chua này cho đến nay vẫn còn nhớ và thèm. Rau muống miền Nam, nhất là vùng Đồng Tháp Mười mọc dại thành từng bè nổi trên mặt nước trông mênh mông bát ngát, người ăn không hết, rau muống kéo về cho trâu bò ăn, băm ra nuôi heo và thả xuống những chà cá nuôi cá… Dân quê miền Trung còn ăn rau muống sống nguyên cọng với cá, thịt cuốn với bánh tráng ăn như ăn gỏi cuốn.

RAU MUỐNG LÀ MỘT VỊ THUỐC THUỘC HỌ ASPIRIN
So sánh cách dùng rau muống để trị bệnh của các quốc gia có rau muống ở Đông Nam Á, Nam Đảo và một phần Ấn Độ, chúng tôi thấy họ dùng rau muống chữa bệnh có những điểm chủ trị giống chúng ta dùng rau muống như một vị thuốc Nam:
– Việt Nam:
Việt Nam dùng rau muống để giải nhiệt, giải độc, trị sốt nóng cao của trẻ em, thông máu, đau bụng máu, đau bụng kinh…
– Nam Dương:
Dùng rau muống làm êm dịu dây thần kinh, an thần, trị bứt rứt, mất ngủ và nhức đầu.
– Campuchia:
Dùng rau muống trị sốt mê sảng.
Nhìn chung, chúng ta thấy rau muống có những chủ trị chính là trị sốt nóng, đau nhức, trị sưng, thông máu, êm dịu thần kinh. Rau muống rõ ràng có tính chất của thuốc Aspirin. Vì những lý do này Nhật Bản trước đây đã bảo trợ cho y giới Nam Dương nghiên cứu cây thuốc dân tộc rau muống với các chất gây ra đau nhức prostaglandins. Kết quả thử nghiệm công bố cho thấy rau muống có chứa những hoạt chất ngăn chăn sự tổng hợp prostaglandins giống hệt như họ thuốc Aspirin (5-16). RAU MUỐNG QUẢ THẬT LÀ MỘT LIỀU THUỐC ASPIRIN. Ta đã biết Aspirin là một quí dược trị và ngừa được không biết bao nhiêu là bệnh hiểm nghèo như đau nhức, thấp khớp, sốt nóng, sưng…, ngừa bệnh mạch vòng tim, ngừa cơn đứng tim, ngừa đứt mạch máu não, giảm nguy cơ ung thư ruột già… Như thế rau muống cũng là một quí dược như aspirin. Vì vậy, cũng cần lưu tâm là những người có khuynh hướng bị loãng máu không nên ăn rau muống vài ba ngày trước ngày mổ xẻ đã định để tránh bị chẩy máu trong và sau khi mổ.
Dân Việt Nam nổi tiếng về làm việc cần mẫn, tháo vát và thông minh. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương đã viết: “Sức làm việc khó nhọc, nhất là người miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp”. Dân miền Bắc được mệnh danh là Bắc kỳ rau muống. Phải chăng rau muống là một liều thuốc loại aspirine đã giúp dân Việt làm việc nặng nhọc mà không thấy đau nhức mình mẩy và tinh thần không mỏi mệt.
Tóm lại rau muống là một “biệt thái”, một sắc thái đặc biệt, một thứ rau đặc biệt của Đại tộc Việt, của Lạc Việt sông nước, của Việt Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Rau muống thuộc một nền văn minh và văn hóa riêng biệt Động Đình Hồ trồng lúa nước, giỏi về sông nước, đánh cá, thủy vận, ăn cá mắm, nước mắm, ăn món rau chính mọc chỗ có nước là rau muống… Rau muống nuôi dưỡng tầng lớp nông dân lao động thanh bần của tộc Việt, lớp người áo vải rau muống tương cà này là thành phần nồng cốt đã dựng nước, giữ nước từ mấy ngàn năm nay.
Ngày nay người Việt có mặt khắp năm châu bốn biển, rau muống cũng vươn mọc dài ra khắp năm châu bốn biển. Chỗ nào có người Việt sống chỗ đó có rau muống mọc xanh tươi hồn Việt.
Rau muống hồn xanh Đại tộc Việt.
Cước Chú:
*Đỗ Thành: Thư riêng.
(1) Lê Quí Đôn, Vân Đài loại ngữ, tr. 491.
(2) Thái Văn Kiểm, Thế Giới Rau muống, YHTT số 16, tháng 7, 1996, tr.7-8.
(3) Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Dự Bị, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thân.
(4) Lê Văn Siêu, Văn Minh Việt Nam.
(5) Roi,J. 1946, Atlas Des Plantes Chinoises, Paris p.409.
(6) Stuart G. A. 1911, Chinese Materia Medica, Vegetable Kingdom, Shanghai, p.220.
(7) Dragendorff G. 1898: Die Heilpflanzen der verschiedenen Volker und Zeiten, Stuttgart, p.555.
(8) Hu C.Y.,1959, Traditional Chinese Remedy in prevention and treatment of diphtheria, Kiangsi J. Traditional Chinese Med., p.148.
(9) How et al, 1956, Flora of Canton, p. 587.
(10) Crevost & Pételot A. 1929, Catalogue Des Produits De L’Indochine. Plantes Medicales. 37:535. Pételot A. 1952, Les Plantes Medicales Du Cambodge, Du Laos et Du Vietnam 2: 183.
(11) Menaut B., 1929, Matière Medicale Cambodgienne, Bull. Écon. Indochine, 32: 465,483.
(12) Garcia, fide Quisumbing, Medicinal Plants of Philippine, p.758.
(13) The Wealth Of India, vol. 5:238.
(14) Weck W. 1938, “Taru Premana”, Die Balische Pharmakopoe.. Nat. Tijdschr. Ned.-Indie 98: 276.
(15) Nguyễn Văn Minh Dược Tính Chỉ Nam tr.1559-1560)
(16) Lm Vũ Đình Trác, 100 Cây Thuốc Vạn Linh (Y Học Việt Nam Hội Hữu xuất bản 1986. (tr.23).
(Trích trong Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt có bổ túc thêm).


Friday, September 25, 2015

TRUYỀN THUYẾT Ô LOAN (Hoàn Ngô)

Vài hàng giới thiệu ĐẦM Ô LOAN:
Vị trí: nằm ngay dưới chân đèo Quán Cau, thuộc huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, cách thành phố Tuy Hòa về phía bắc khoảng 22 km.
Đặc điểm: đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia.

"Vì là đầm nước lợ, nên Ô Loan có rất nhiều hải sản như hàu, sò huyết, tôm, mực, sứa, rau câu, điệp, cua… Đến Ô Loan thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp và thưởng thức những món hải sản đậm đà hương vị miền Trung, du khách mới có thể cảm nhận hết được vẻ đẹp của vùng đất Phú Yên thơ mộng.  Với diện tích mặt nước hơn 1.500 ha, đầm Ô Loan được thiên nhiên ban tặng cho một vẻ đẹp thanh bình với không gian thoáng đãng và khí hậu trong lành, mát mẻ. Từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, du khách sẽ thấy núi Từ Bi, nơi có con suối Từ Bi chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng. Quanh đầm là núi Đồng Cháy, núi Cẩm và cồn An Hải với những ghềnh đá nhô ra ngoài đầm tạo thành những mỏm đá với nhiều hình dạng khác nhau. Nằm men theo bờ nước của đầm là những rừng phi lao - nơi trú ẩn của các loài chim như le le, bồ nông, cò, vịt… " 

Với cảnh thiên nhiên hữu tình và thơ mộng nên đã sản sinh ra những người đẹp "mắt phượng, mày ngài" làm xao xuyến biết bao trái tim của tao nhân mặc khách có dịp dừng chân vùng này ở các xã An Ninh, An Hải, An Hiệp, An Cư, An Định, An Nghiệp. Từ Xã An Ninh, du khách đi về hướng bắc hướng là Sông Cầu. Nếu dừng chân xã An Ninh, đi xuống bãi Tiên Châu, bãi cát trắng với hàng dừa xanh bên bờ biển là nơi có nhiều nguời đẹp mỹ miều.

Thời vào khoảng năm 1956-1957, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã vẽ đồ án xây dựng 1 cây cầu bắc từ Ấp Phú Tân, xã An Cư, qua ĐẦM Ô LOAN ra xã An Hải. Đồ án được thiết kế biến ĐẦM Ô LOAN thành thắng tích cấp quốc gia. Nhưng vì chiến tranh nên không thực hiện được.

Tác giả đã có lần đến thưởng ngoạn cảnh đẹp Ô Loan, và ghi vội lại cảm xúc của mình.


Đồi xanh thoai thoải ven bờ
Ô-Loan diễm lệ nên thơ một màu
Dưới chân đèo thấp Quán Cau
Đầm xanh trải rộng nao nao lòng người
Phú Tân đưa khách đến nơi
Dừng chân thưởng ngoạn chân trời bao la
Từ-Bi ngắm núi chiều tà
Núi cao Đầm rộng sương sa mơ hồ
Đèn câu lấp lánh trong mơ
Tôm cua hải vị, con sò nổi danh
Tản Đà thi sĩ đa đoan
Đề thơ cảm khái: "Ô Loan Miếng Hàu"
"Phú Câu cước cá" nhớ câu
An Cư, An Hải món Hàu muối chanh
Thuyết truyền để lại tính danh
Có nàng Tiên Nữ Thiên Đình Diễm-Loan
Du hành một chuyến nhân gian
Xem chơi cho biết trần gian thế nào
Chim Ô Thước bắc nhịp cầu
Phi vân quá hải vượt bao dậm dài
Mải mê cảnh biếc sơn đài
Chim Ô đuối sức hạ ngay mặt Đầm
Ô-Loan hai chữ ghép vần
Chim Ô (Thước) chnặng hạ trần Tiên Loan
Truyền nhân hậu thế Ô-Loan
Giai nhân mắt biếc phượng loan sánh bằng
An Ninh, An Hải, An Dân,
An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Hòa
Nụ cười duyên dáng phong hoa
La-Hai dáng ngọc muợt mà Tiên-Châu
Dừa xanh sóng bể rì rào
Nét hoa hàm tiếu xuyến xao lòng người
Bao năm góc bể chân trời
Cung đàn lỗi nhịp chia phôi cuộc tình
Xa xôi cách trở dậm trình
Đại dương sóng vỗ tự tình tháng năm.

Ngư Sĩ


CHỊ SUI


Đêm nằm đưa võng, nhớ chị sui, 
Mò đến giường chị sao tối thui,
Đưa tay móm thử sao êm quá, 
Cái "bốp" lên đầu: tui là tui!
Chưa tới sáu mươi mà tôi hên quá, có tới những hai chị Sui nhỏ tuổi hơn tôi nhiều.  Còn hên hơn nữa là cả hai anh Sui đều đã đi bán muối mấy năm nay rồi, để lại hai chị phòng không chích bóng; ngó thấy muốn ứa nước mắt, thiệt tội nghiệp vô cùng.
Có những lúc phởn chí, tôi ngâm lên bài thơ Chị Sui, giọng ngâm trầm ấm rỉ rả trong canh vắng, nghe hay hơn ông Nguyễn Ngọc Ngạn trong Thúy Nga Paris rất nhiều:



Đêm nằm bên vợ nhớ chị sui
Thấy tình cảnh chị luống ngậm ngùi
Ước ngày nào đó tôi góa vợ
Ghé thăm nhà chị chắc là dzui ...

Bà vợ nhỏ của tôi ban đầu nghe tức lắm, nhưng cũng nhờ như thế mà bà ấy biết chìu chuộng, đối xử vời chồng đàng hoàng hơn xưa, chứ cà chớn cà cháo là tôi ... ghé thăm chị sui liền một khi .. thì mất cả chì lẫn chài.


Bây giờ bả nghe ngâm thơ riết đã lờn rồi, nên tuyên bố thẳng thừng:

- Đi đâu thì đi, càng đỡ mòn của nhà.

Xin quí cụ cao niên đừng hiểu lầm là tôi có vợ nhỏ rồi hừng chí bắt chước.  Bởi vì bà xã tôi hơi nhỏ con (nhưng rất mắn đẻ) nên hồi tôi mới quen bả thì gọi là người em gái nhỏ, bây giờ bả đã đến tuổi “mày thuôn lá ổi, vú thõng dưa gang” rồi thì tôi kêu là vợ nhỏ, chứ chính thực bả là vợ lớn.


Hai chị Sui tôi hồi còn con gái chắc là đẹp lắm, bởi vì theo lời hai chị mô tả thì đồ đạc còn nguyên si, không có bơm hút, cắt chích gì hết mà trông vẫn còn phông, nói theo kiểu bình dân là “cứng cạy” lắm.  Chắc nhiều người không biết cứng cạy là cái gì.  Đó là trái dừa vỏ hết còn là màu xanh, nó đã biến qua màu xám vàng, cơm ở trong không còn mềm èo, mà cùi dừa cũng chưa khô khốc như dừa khô, làm mứt thì ăn vừa miệng vô cùng.  Nói tóm lại thì dừa cứng cạy vừa dòn, vừa mềm mà còn nước nôi lắm lắm.


Bây giờ nói về chuyện chị sui thứ nhứt:


Con trai tôi quen con gái chị được chừng một năm thì cưới nhau.  Ngày thằng Cậu Cả dẫn tôi đến nhà vợ tương lai của nó, tôi đi cắt tóc, nhuộm đen, mặc bộ đồ lớn, đeo kiếng trắng gọng vàng coi cũng oách như ông này ông nọ chớ chẳng phải chơi.


Thấy ánh mắt là tôi biết chị cũng “chịu đèn” tôi rồi, nhưng cả hai còn thẹn thò đâu dám nói ra.  Hôm đám cưới, chị mặc một chiếc váy đen.  Chị nhảy đầm tốc cả váy lên coi rất điệu nghệ, tiếc rằng tôi là người chân quê, hồi nhỏ chỉ biết nhảy cò cò, sau lớn lên đi lính thì biết thêm nhảy xổm với nhảy dù, chớ có biết nhảy đầm nhảy đìa chi đâu, bởi vậy cứ ngồi trơ mắt ếch ra xem chị nhảy mà nuốt nước miếng ừng ực.

Ngày tôi có đứa cháu nội đầu tiên thì chị dọn về ở chung với con, để săn sóc cháu ngoại cho tụi nó đi làm.  Mỗi lần phải đi lên City làm giấy tờ gì đó, là tôi lại kiếm cớ tạt ngang thăm cháu nội.


Nhấn chuông xong thì thấy chị vội vàng chạy ra mở cửa, tay bế đứa bé mũm mĩm đang chu mỏ ra phun mưa, chân tay chòi chòi đạp đạp.


Chị đưa đứa nhỏ cho tôi bồng, miệng nói:

-Dễ thương lắm đó.

Tôi nhìn vào tay đứa nhỏ đang níu cổ áo bà ngoại nó mà kéo doãng ra, thấy rõ hai trái ổi xá lị không có gì che đậy nên tôi nói nhỏ:
-Ừ, dễ thương quá à!
Chị ngước lên nhìn tôi, màu hồng đỏ bừng lên tới tận tai, miệng cười mủm mỉm coi dễ thương hết sức.


Chị sui nhỏ nhẻ hỏi:
- Bữa nay anh có rảnh không, mời anh vô nhà chờ chút tui nấu chè anh ăn.

Tôi là tay hảo ngọt có tiếng, nghe chị mời chè thì khoái chí tử, bồng thằng nhỏ xà vào cái ghế bành.  Thấy chị sui lấy ra một rổ hột me, tôi quăng thằng cháu nội vô cái lồng con nít rồi ngồi bệt với chị ...


Chị sui nói với anh sui
Giờ nầy còn sớm ở chơi khoan về
Vô đây phụ lột hột ... me
Để tui chuẩn bị nấu chè mình ăn.




Hôm nay mồng mấy vậy anh?

Nhìn ra ngoài ngõ ánh trăng đã tròn
Hồi xưa ông xã tui còn
Ảnh phụ tui nấu thường hơn anh à

Tụi tui ngồi dưới trăng ngà...
Ăn chè, tán dóc thật là vui tươi
Thắm thoát gần chục năm trời...
Ảnh chết, tui bỏ cả xôi lẫn chè

Hôm nay làm lại đó nhe
Bảo đảm, anh thử sẽ mê tới già...

Tối đó về nhà, vợ tôi thấy tôi bần thần đầu óc mơ màng cứ tưởng tôi bịnh nên giã chén muối ớt, cắt mấy trái khế để tôi ăn chua vào cho giải cảm.  Nào ngờ nhìn chén muối ớt mà tôi lại nhớ đến hai trái ổi xá lị, nước miếng cứ dâng lên miệng, cục Adam thì cứ chạy lên chạy xuống.  Tôi nuốt nước miếng ừng ực, hít một hơi để dồn chân khí chạy xuống ... phía dưới, vừa ăn khế vừa tưởng tượng đến ổi xá lị.


Ăn xong, tôi vội chạy ngay lên giường trùm mền, mơ màng rồi ngủ quên hồi nào không biết.  Có ai ngờ là tôi bị bịnh mộng du, thế mới có chuyện xảy ra ....  Có trời biết, đất biết, Chúa biết, chị sui biết ... mà tôi hổng biết.


Hèn chi sáng hôm sau tôi ghé qua thăm thằng cháu nội lần nữa thì chị sui ra mở cửa, mặt ửng hồng, thẹn thùng hỏi:



Tối qua ... anh đến nhà tui?
Sao không gọi cửa ... mà ... chui hàng rào?

Tôi thộn mặt ra chắc chắn là … rất ngố.  Tại sao mình lại phải chui hàng rào mà không … vượt rào?  Nhưng tôi nhanh trí mạnh miệng chối phăng còn ngố hơn:

Đêm khuya chị ngáy ào ào,
Tui chun dzô đó khác nào tui điên?

Than ôi, nhưng đó chỉ là giấc mơ, cơn mộng du thôi, chớ có bóng đèn làm chứng cho tôi, mối tình anh sui chị sui vẫn còn ngây thơ trong trắng không vướng chút bụi trần.  Ai không tin thây kệ.

Bây giờ kể đến chị Sui thứ hai:
Thằng con trai kế của tôi ra trường đi làm việc đã lâu.  Thành phố nó ở lại không có mấy người Việt, mà từ hồi các con còn nhỏ, chúng tôi thường khuyên nhủ là nên lấy người Việt Nam, kẹt lắm thì lấy Tàu, Thái, Phi cũng còn đỡ, chứ lấy Mỹ hay Mễ thì ba má không phản đối nhưng cũng không thích đâu.


Mấy đứa nhỏ nghe lời, nên bạn bè cặp xách thì cũng có lai rai, nhưng khi lấy vợ thì tuân theo ý cha mẹ, là cô dâu phải biết húp nước mắm.  Nhân dịp về Việt Nam thăm bà nội, nó được giới thiệu với một cô gái đẹp lắm, lại con nhà giàu.


Nghe người ta đồn là con gái bây giờ ma mãnh lắm, nó lợi dụng qua đây được rồi là đá liền mà theo thằng khác, nên tôi phải thân chinh về tận bên đó coi lại cho chắc, chứ thằng con tuy gần 30 tuổi rồi mà còn ngây ngô như đá.


Gia đình chị Sui ra rước tận phi trường.  Đứa con dâu tương lai ôm bó hoa lớn tặng cho tôi ngay khi gặp mặt tại cổng.


Dĩ nhiên tôi để ý theo dõi nét mặt, tướng đi, lời nói của con nhỏ thì thấy được quá.  Con nhà giàu mà không chưng diện, mặc chiếc áo đầm trắng đơn giản, giống như thiên thần.


Còn chị Sui tương lai của tôi thì khỏi nói, mới chừng bốn mươi thôi và nhan sắc thì ôi thôi ... chậc chậc ... giới địa ốc bên Việt Nam gọi là “điện nước đầy đủ cả”.
Anh Sui đã cất bước theo ông bà khoảng chừng năm năm nay, để lại cho chị một gia sản kếch sù, gồm nhiều căn nhà ở thành phố và các tỉnh miền tây, với một đoàn xe tải ba bốn chục chiếc, chuyên chở hàng từ những cửa khẩu về SG hay các tỉnh.  Tôi choáng ngợp trước sự giàu có của họ, cho dù ở bên Mỹ tôi cũng chẳng nghèo hèn gì.

Nhà đàng gái có nhiều xe, nhiều tài xế, nhiều người làm, nên nếu sau này con nhỏ đó có về làm vợ thằng con tôi, chắc nó cũng không biết nấu ăn, giặt quần áo gì đâu, chỉ tội cho thằng con lo hầu vợ mà thôi.  Nhưng ngẫm đi nghĩ lại, bà xã tôi ngày xưa có là tiểu thư khuê các con nhà giàu gì đâu, mà bây giờ tôi cũng vẫn phải nai lưng ra hầu việc bả vậy.  Thôi cũng đành phó thác cho mệnh trời.


Giấy tờ làm hôn thú, bảo lãnh cũng còn khá lâu, nên chị Sui muốn nhờ tôi làm một thư mời bả qua Mỹ, thực tế là đi chơi, nhưng giấy tờ là mời một “đối tác” từ bên VN qua để làm ăn.


Chắc bả muốn coi gia đình tôi có môn đăng hộ đối không, thằng con tôi là kỹ sư thiệt hay dỏm, nó đang làm ông sếp hay đang cong đít lau sàn nhà.

Thư mời, tôi có bấm con dấu nổi của công ty, bả dòm thấy nổi cộm lên một cục chắc lé con mắt, vì mộc bên VN đóng đỏ toè loe, nhưng làm sao oai bằng con dấu của tôi được.
***


Mấy tháng nay, kinh tế Mỹ lao xuống vùn vụt, thằng Cậu Cả nhà tôi bị lay off, nó đành dọn về nhà cha mẹ ở chứ không còn đủ khả năng ở nhà lớn nữa, mà nhà tôi thì các con dần dần như con chim mọc đủ lông cánh, bay đi khắp bốn phương trời.


Chị Sui ở một mình cô quạnh nên tôi phải thường xuyên ghé thăm thay thế cho đám nhỏ.  Một bữa tôi nghe chỉ than mà thấy thương quá.



Cám ơn anh đã ghé qua ...
Con gả đi hết cửa nhà quạnh hiu !
Làm tui cảm thấy buồn thiu
Riết rồi sanh bệnh ít nhiều anh ơi !

Thế rồi tôi và mấy đứa con thuyết phục bà vợ nhỏ của tôi nên rốt cuộc mời được chị Sui về ở chung với gia đình tôi.
Sắp tới chị Sui thứ Hai qua đây chơi, tôi cũng không đành để chỉ ngụ tại khách sạn, nó lạnh lẽo và bất tiện lắm, tôi sẽ đem về ở chung nhà.  Tưởng tượng đến cảnh mấy người đề huề “chung một mái nhà” mà tôi thấy mình như sắp lên thiên đường.
***
Chị Sui thứ Hai chưa qua mà tôi bây giờ đã biết thế nào là cảnh một ông nhiều bà.  Trời ơi là sướng như tiên mặc dù hơi ... điên cái đầu.


Trước hết nói về “cái sướng” là bởi mấy bà trong nhà lúc nào cũng chìu chuộng, trổ tài chinh phục trái tim mong manh của tôi.

Bà xã tôi hồi giờ ăn hiếp bắt tôi nội trợ lo cơm nước thì nay lại chịu khó lăng xăng, lí xí nấu nướng bưng cơm dâng tận tay tôi, lại còn bưng nước, xĩa răng cho tôi nữa.  Tôi mới ưỡn lưng than mỏi là bả xà vào đấm bóp, massage cho tôi ra cái điều tôi là sở hữu của bả.


Còn chị Sui thì tự nhiên đòi dạy tôi nhảy đầm.  Chỉ bảo là hôm đám cưới thấy tôi ngồi thộn mặt ra ngó thiên hạ nhảy nhót giống y mặt con cóc tía mà tiếc cho tôi và ... chỉ hết sức nên phải kiếm dịp mà luyện võ nghệ cho tôi.  Chỉ bảo điệu sì lô cóc khô gì gì đó là dễ nhất và hợp với cái tướng to con của tôi.  Ừ, nhảy thì nhảy, tôi sợ gì mà không tập.  Sẵn bà vợ nhỏ của tôi mắc đi đánh tứ sắc ở nhà bạn, vợ chồng thằng Cậu Cả được dịp xúi vào, hổng hiểu tụi nó có dụng ý gì:


- Má đi rồi, Ba tới đi Ba.

- Ừ, tới thì tới. Nhảy đầm là một môn nghệ thuật mà.

Thế là thằng con mang đờn ra, còn tui thì diện bộ đồ vía vào.  Chị Sui vào trong thay đồ thật lâu làm tui sốt ruột quá xá, không tranh thủ mà làm phí thì giờ vàng ngọc thật là uổng.  Nhưng úi trời, lúc chị Sui ỏn ẻn từ trong phòng bước ra hai con mắt tui muốn nổ đom đóm, máu cam từ từ ứa ra từ mũi y hệt trong phim Tàu.  Chỉ mặc bộ đồ kiểu gì mà cứ y như không mặc.  Hai trái ổi giờ được che bởi những bông hoa vải đỏ nho nhỏ được đính trên cái áo voan màu da mỏng dính.  Còn thêm những cái tua đỏ dài dài như tấm màn mỏng nửa che nửa hở.  Kiểu này mà nhảy nhót sao được, chưa chi tui đã cứng cả cẳng, run cả đầu gối.

Nhưng phải công nhận chị Sui thật là tài, chỉ dìu tôi đi tới đi lui theo tiếng nhạc dìu dặt mê ly.  Biết nhảy đầm mà hấp dẫn như vầy là tôi đã xin đi học nhảy từ hồi mới chui ra khỏi bụng mẹ.  Ô, mê lý, mê ly đời ta!  Hai trái ổi của chị sui lâu lâu chạm nhẹ vào tôi làm tôi nổi cả da gà, da rắn ...  Mà đâu cần chị sui chạm, chỉ cần nhìn bộ đồ chỉ mặc kiểu “có mà như không” là trái tim tôi cứ thắt lại, mắt nổ hào quang.


Ấy chỉ là mấy điều sung sướng của tôi, kể nhiều lộ hết bí mật.  Còn nỗi khổ thì trời ơi là khủng khiếp.


Cái thằng cậu Cả của tôi thật là ngu đại ngu.  Cái ngu thứ nhất là nó đem ông Sui, bà Sui ghép với nhau.  Cái ngu thứ hai là nó thấy hai sui nhảy đầm hết xảy nên biểu con vợ vào lấy máy chụp hình chụp vài “bô” làm kỷ niệm.  Thế mới có cái hình đẹp ác chiến và cũng là nguyên cớ cho cái trận ghen ác liệt xảy ra.



Anh sui cùng với chị sui,
Đôi ta say đắm mùi ơi là mùi.


Cái hình này tôi đã nhét dưới mấy cục tạ mà hổng hiểu sao nó lại lọt vào tay vợ tôi.  Sau này mới biết hóa ra thằng con nó thấy đẹp rửa ra và gởi cho Paris by Night xin ghi tên cho hai đứa tôi dự thi khiêu vũ.  Lại thêm một cái ngu của nó là xớn xác ghi địa chỉ không đúng nên thơ được châu về hợp phố và lọt vào tay con vợ chằn lửa của tôi.  Ngu gì mà ngu truyền kiếp !  Đúng là con hơn cha nhà mất nóc.


Trước con sư tử giơ nanh vuốt, tôi quỳ thụp xuống xin tha mạng và mếu máo ngâm bài thơ:



Trên đời quý nhất là CON
Cho nhau chẳng tiếc, mình còn dùng chung.
Tiếc chi cái tấm ... thân còng
Còn "ngon" mà chẳng ai dùng, phí đi !!!

Dĩ nhiên là nghe tôi ngâm xong, bả gầm lên và nhào vô cấu xé “tấm thân còng” và xé tan nát luôn cái hình làm tôi tiếc đứt ruột.  Nhưng nghĩ cho cùng, cái hình đã được save trong computer thì mắc mớ gì mà tiếc.


Chỉ tiếc có một điều là con vợ của tôi nó ra tối hậu thư:

“Một chị Sui sống chung nhà là đủ.  Còn chị Sui thứ hai thì ông lo mà đem chỉ đi đâu thì đi.  Tui không cho phép rước thêm vô căn nhà này”.

Nguyễn Viết Tân và Thanh Mai