Ngày xưa Hoàng Đạo
Tranh
của bé Lam Giang, được triển lãm
tại
Space Needle và in thành postcard.
Đó
là lần đầu tiên tôi được học trong một lớp có trai
có
gái. Lớp chỉ có năm mươi trò, chia làm hai dẫy. Con
trai
ngồi bên phía cửa ra vào, con gái ngồi phía trong.
Thời
gian vừa tàn cuộc chiến tranh Việt Pháp nên nhân sự
còn
nhiều lộn xộn. Tôi phải học chung với những đứa nhỏ
hơn
một hai tuổi như Lê Đông Hải, Nguyễn Quang Thụy,
Tôn
Nữ Thu Hà... và những đứa lớn hơn bốn năm tuổi như
Nguyễn
Thiên, Huỳnh Văn Em, Đặng Thị Lợi, chị Sum,
chị
Thành... là những trò học lớp Nhứt nhưng có thể lấy
vợ
gả chồng được rồi! Ngày 8 tháng 3 năm sau, là ngày
Quốc
Tế Phụ Nữ cũng là ngày tưởng niệm Hai Bà Trưng,
hai
chị Sum và Thành rất đẹp gái được đóng vai Hai Bà,
ngồi
trên mình voi cao ngất ngưởng, còn lũ chúng tôi đi bộ
làm
lính. Vào khoảng năm 1960 những cái cao thấp lộn
xộn
đó được chính quyền giải quyết bằng cách cho khai
tên
tuổi mới với giấy Thế Vì Khai Sinh; thế là những đứa
có
tên Phan Xiếu, Diêu Đức Cu, Nguyễn Quang Ổn... biến
thành
những đứa tên đẹp như tài tử, lại còn tha hồ rút tuổi
xuống.
Học
chung với con gái tôi mới phát hiện rằng lũ này
rất
tình cảm và mít ướt. Mới học được hai tháng thầy
Nguyễn
Hữu Nghĩa của chúng tôi nhận lệnh động viên.
Thầy
còn rất trẻ, da trắng hồng, rất đẹp trai, buổi chia tay
lũ
trò gái rơi bao nhiêu là nước mắt. Nhưng xe phát thanh
của
Ty Thông Tin cả ngày chạy lòng vòng từ Tân Hương
qua
Phương Nghĩa, Từ Phương Quý đến Phương Hòa ra rả
vang
lên bài hát nỉ non:
Vài
hàng gửi anh trìu mến
Vừa
rồi làng có truyền tin
Nói
rằng nước non đang mong
Đi
quân dịch là thương nòi giống
Lạy
trời tròn năm trọn tháng
Nợ
làng ơn nước anh đền xong
Mái
nhà chốn quê thanh bình
Chờ
anh bước về vui bên em
Năm
sau thầy về trong đoàn quân diễn hành đều bước
ngoài
đường phố. Thầy không trắng trẻo đẹp trai như hồi
dậy
học, nhưng thầy đi ngoài bìa nên có những đứa trò gái
nhận
ra chạy theo níu áo khóc như mưa... Mà khóc là phải,
từ
đó chẳng bao giờ tôi gặp lại thầy. Cuộc chiến hung tàn
ngu
xuẩn ấy chắc đã nghiền nát những người thanh niên
tươi
trẻ trong đoàn quân năm ấy, dễ gì mà chừa ra người
nào!
Năm
lớp Nhất tôi được học thêm với hai thầy nữa là
thầy
Phạm Văn Nhàn, dạy ngắn hạn và thầy hiệu trưởng
Trần
Xuân Hà dạy cho hết năm lớp Nhất. Giáo viên tiểu
học
hồi đó thường phụ trách tất cả các môn, kể cả những
môn
liên quan đến nghệ thuật như vẽ và thủ công, mặc dù
hầu
hết các thầy không được đào tạo chuyên môn ấy. Thuở
bé
đi học tôi chỉ mê vẽ và cứ hở ra một chút là đã có tôi hí
hoáy
vẽ rồi. Tôi vẽ Ngô Quyền với trận Bạch Đằng Giang,
những
cọc nhọn chĩa lên trời tua tủa đâm nát thuyền quân
Nam
Hán. Tôi vẽ Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận; ở một góc
tranh
không quên cái đuôi con trâu bị làm thịt để khao
quân
cắm xuống bùn. Tôi vẽ Hưng Đạo Đại Vương chỉ tay
xuống
dòng sông Hoá, vĩnh biệt con voi trận bị lún sình
với
lời thề không về nữa nếu không diệt được giặc
Nguyên-Mông.
Nói chung tôi chỉ vẽ những gì mà các sử
gia
Việt Nam nhồi nhét vào cái đầu non nớt này, còn có
đúng
hệt như thế không thì có trời mới biết. Cho nên đến
giờ
vẽ nếu thầy mượn đôi guốc của Lê Thị Hoà hay cái
nón
lá của Trần Thị Thiệt cho chúng tôi làm mẫu vẽ, thì
đối
với tôi đó là những giây phút thần tiên. Tôi vẽ tranh
lịch
sử trong trí nhớ hay vẽ theo kiểu của những đồ vật đặt
trước
mắt không có gì gọi là sáng tạo cả; có vẽ đến mòn
giấy
bút lũ chúng tôi cũng không bao giờ thành hoạ sĩ nhỏ
được!
Cơ
hội đã đến, một hôm giờ vẽ thầy bảo: Hôm nay vẽ
tự
do, trò nào muốn vẽ gì cũng được. Vẽ đẹp và sớm có
điểm
tốt. Tôi nghe khoái quá, sau một hồi suy nghĩ lung
lao,
tôi lấy ngón trỏ thọc vô lọ mực tím và bôi kín tờ giấy
vẽ
một màu tím đậm. Với cây bút chì có một đầu gôm, tôi
bắt
đầu chà vào tờ giấy vẽ. Mực tím theo gôm bung ra
những
nét dài ngắn màu trắng nghiêng nghiêng lả lướt.
Huỳnh
Phú cao kều chồm xuống hỏi:
-
Mày vẽ cái giống gì vậy?
-
Tao vẽ mưa đêm.
-
Đêm tối thui làm sao thấy được giọt nước!
À
há, may quá có nó nhắc nếu không là tiêu bức tranh
rồi.
Tôi lấy cái ngòi bút lá tre nó cho hồi mới tới lớp còn
trong
cặp ra cạo những đường zic zac liên tiếp, nhỏ mà sắc
nét.
Huỳnh Phú lại chồm xuống coi, lần này nó gật gù:
-
Đúng rồi phải có sấm chớp mới thấy mưa chứ!
Hoàng
Thế Nào khôn thiệc!
Từ
đó cái tên của tôi được đám Hoa Kiều bán thuốc
Bắc
mà bố hay dẫn tôi đến mua thuốc đều tấm tắc khen;
ông
thầy già nhất tay chắp sau lưng đi qua đi lại nhìn tôi:
“Woòng
Xây Hầu hẩu, hẩu lớ”... thế mà nay bị nhiều đứa
trong
lớp sửa đổi thành ra kỳ cục. Không sao! Túy, Ngân
Hạnh,
Thu Hà, Mỹ Lan vẫn nhỏ nhẹ gọi tôi là trò Hào
cũng
được mà. Rồi tôi nhanh chân lên nạp bức tranh để
kiếm
điểm tốt. Cả lớp vẫn còn lui cui, nhiều đứa vẫn loay
hoay
chưa biết vẽ cái gì! Tôi trịnh trọng giải thích với thầy
đây
là bức tranh mưa đêm. Thầy ngắm tranh kỹ lưỡng
xong
thầy ngắm tôi từ đầu xuống chân. Rồi thầy bảo:
“Xoè
tay ra”, lấy cây thước kẻ thầy khẻ vào cái bàn tay
dính
đầy mực tím hai
cái
đau điếng với tội ở dơ!
Đau
lắm vì cái thước kẻ ấy không bằng gỗ tạp mà
bằng
thứ gỗ gì đen thui nặng lắm. Đau mấy tôi cũng chịu
đươc,
nhưng tôi cứ nhớ mãi roi đòn vô lý ấy. Ông họa sĩ
vẽ
bảng quảng cáo cho rạp hát bóng có lúc quên cũng lấy
cây
cọ sơn quẹt lên mặt cho đã ngứa là thường mà, có sao
đâu.
Tôi lủi thủi về chỗ ngồi không dám khoe ai kiệt tác
đầu
đời nữa. Cũng may đứa bạn nào cũng đang nghiêng
đầu,
ngoẹo cổ, méo mồm vẽ, không để ý gì.
*
* *
Ba
mươi năm sau khi đã định cư ở thành phố Tây Bắc
Mỹ,
một hôm tôi nhận được thư của một nhà xuất bản nhỏ.
Họ
xin phép được dùng bức tranh của bé Lam Giang, cô
con
gái út 8 tuổi của tôi để in thành postcard lưu hành
khắp
nước. Tranh với đề tài Mom đang triển lãm tại tháp
Space
Needle. Họ mong tôi trả lời sớm để họ có thể phát
hành
trước Mother’s Day. Dĩ nhiên là tôi đồng ý. Không
biết
nhà xuất bản có thấu được cái ý tưởng của con bé 8
tuổi
trong bức tranh, hay chỉ nhìn thấy mầu sắc tươi đẹp,
hài
hoà và một đống lộn xộn rất lạ mắt. Cô giáo dậy vẽ
Joann
Seeler và người trong nhà thì hiểu ngay bé đang ca
tụng
bà mẹ, cũng giống như thi sĩ Trần Tế Xương làm bài
thơ
xót thương người vợ hiền vô cùng cảm động:
Quanh
năm buôn bán ở mom sông
Nuôi
đủ năm con với một chồng
Lặn
lội thân cò khi quãng vắng
Eo
sèo mặt nước buổi đò đông
.
. .
Có
lẽ cũng vất vả như những bà mẹ khác thôi; Lam
Giang
vẽ nó, đứa con cưng mà mẹ phải lo toan nhiều nhất
đứng
giữa, chung quanh đó: con mèo Maxim luôn luôn đòi
ăn
uống và đi chơi. Buổi sáng khi em đi học bằng xe bus
nhà
trường đậu trước nhà, mẹ thường ngăn không cho chó
Fido
gậm cái backpack lôi kéo em ở lại chơi với nó. Nếu
mẹ
quên thì có bà lái xe bước xuống can thiệp, nhưng Fido
giận,
sủa ầm ỹ. Mẹ còn phải lau chùi cái xe hơi màu xanh,
cho
con blue jay từ trên cây thông bay xuống ít củ hạt khi
nó
dạn dĩ đến trước cửa kính gõ lạch cạch. Nghĩa là mẹ
bận
lắm, thế mà khi đêm về vẫn muốn ôm bé vào lòng kể
chuyện
cổ tích, đôi khi là chuyện vượt biển oai hùng với
con
thuyền nhỏ xíu của bố trong đại dương bao la... Còn
thiếu
gì nữa không trên vành nón của mẹ?... Có người hỏi:
“Hai
cái vòng tròn ở trên má, dưới mắt, có phải cặp kính
không?
Năm ấy mẹ bé còn trẻ lắm chưa phải đeo kính. Xin
giải
thích: đó là bé còn ngây thơ tô hồng đôi má của mẹ
nhưng
giới hạn mầu hồng trong hai khoanh tròn đó thôi!
Ôi
sao con bé lucky thế chẳng bù cho bố nó”.
*
* *
Những
ngày tháng qua thật nhanh, chúng tôi đang học
lớp
Chín, đệ tứ niên, là đàn anh đàn chị trong trường
Hoàng
Đạo rồi. Vào dịp Tết năm ấy lớp Chín tôi đi cắm
trại
một ngày. Địa điểm cắm trại dĩ nhiên phải ở gần sông
để
có nước cho các nàng trong lớp trổ tài nấu ăn. Trên
cánh
đồng rộng thầy Phương tổ chức các trò chơi, thầy
Chút
lo văn nghệ, có Huỳnh Văn Em với cây đàn guitar,
Vương
Đình Thanh đánh mandoline xập xình ríu rít tiếng
nhạc.
Một dẫy lều dựng lên đơn sơ nhưng đúng kiểu cách
dây
nút hướng đạo dưới tàn cây thưa lá. Mới sớm mà lửa
khói
đã chập chờn nơi các mái lều thân thương quá. Các
thầy
bảo: “Chiều mới văn nghệ, giờ chơi tìm mật thư, có
giải
thưởng lớn”. Tôi không thích chơi tìm mật thư nên
một
mình trốn ra bên sông Dakbla. Mùa này sông thật đẹp.
Nước
êm êm trôi theo dòng cát trắng tinh, lâu lâu gặp chỗ
nhiều
sỏi đá sông reo lên vui vẻ, bên kia sông có nhiều
chim
rừng và cò trắng bay lượn, đúng là một ngày đẹp
thanh
bình. Có lúc tôi cởi quần áo xuống sông không bơi
mà
thả ngửa yên lặng nhìn trời mây non nước; đến gần
trưa
mới trở về trại.
Khi
đi ngang qua một cái lều, tôi nghe một giọng con
gái
gọi nhỏ: “Thế nào, Hoàng thế nào có muốn ăn chè
không?”.
Tôi dừng lại ghé mắt nhìn vào trong thì thấy một
trong
tứ đại mỹ nhân của lớp, tay bưng chén chè đậu đen,
mắt
cười long lanh mời mọc. Tôi đỡ lấy chén chè từ từ
đứng
ăn, mà làm gì có ghế để ngồi. Hắn ta mặc áo dài đen,
một
mầu đen ngà voi kênh kiệu, da trắng hồng, tóc nâu sợi
nhỏ
thướt tha. Tôi thầm nghĩ: cắm trại mà mang áo dài
theo,
và cả guốc cao gót nữa, hắn muốn khoe hay nhát ma
ai
đây! Ăn xong tôi để bát với muỗng xuống đất và dợm
bước
đi, nhưng hắn ngăn lại: “Từ từ đợi chút, có nước trà
cho
uống nè”. Tôi đành nán lại. Bỗng hắn ranh mãnh hỏi:
-
Còn đau không?
-
Cái gì đau?
-
Thì bàn tay đó!
-
Bàn tay nào cơ?
-
Thì bàn tay có ngón thọc vào lọ mực đó.
Lúc
này tôi mới hiểu ra giật mình thót người. Hình
như
trong lớp chỉ có mình hắn biết tôi bị đòn; mà sao nhà
hắn
nhớ dai đến thế để chọc ghẹo mình cho được! Bỗng
hắn
nói như ra lệnh: “Đưa tay đây coi”. Tôi chưa phản ứng
ra
làm sao thì hai tay hắn chụp lấy bàn tay tôi, mắt cứ nhìn
đăm
đăm. Thật tình mà nói mấy năm liền chưa bao giờ tôi
dám
nhìn thẳng vào hai con mắt đẹp ấy... và như một chú
ngỗng
đực dại khờ, tôi giựt tay ra, bước nhanh khỏi lều, lại
còn
mừng thầm vì các bạn tôi chơi mật thư đang lũ lượt
kéo
về. Nhưng cũng từ buổi ấy bàn tay trái hết đau. Tôi
không còn
giận thầy mình nữa.
CAO
HOÀNG.