Monday, May 30, 2016

RIP: ANH NGUYỄN VĂN HIẾN


TIN BUỒN

Kính thưa quý thầy cô và các anh chị,

Trong không khí "tưởng niệm" của “Memorial Day”, Thukỳ nhận được tin buồn từ chị Lưu Hồng Phúc cho biết em cô cậu của chị là:

Anh NGUYỄN VĂN HIẾN
(Tức Hiếu, cựu học sinh Nguyễn Huệ),
Quê ở Thôn Mỹ Lệ, xã Hòa Bình, Tuy Hòa, Phú Yên,
Phu quân của chị Huỳnh Thị Huờn,
Cũng là bào đệ của thầy Nguyễn Chung (Giáo Sư Bồ Đề)
Đã từ trần ngày 25-5-2016 tại Sài Gòn, Việt Nam,

HƯỞNG THỌ 75 TUỔI.

Mọi chi tiết xin liên lạc chị Lưu Hồng Phúc:            <hongphucluu@yahoo.com>


Trân trọng thông báo, và 
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU,
Thukỳ.





Saturday, May 28, 2016

PHÂN ƯU: CỤ BÀ TRẦN THỊ LANG

TIN BUỒN
Kính thưa quý Thầy Cô & các anh chị,

Trong không khí "tưởng nhớ" của cuối tuần “Memorial Day”, Thukỳ nhận được phone từ anh Ngô Phấn cho biết Thân Mẫu của anh Hồ Xuân Lạc (cựu HS Đặng Đức Tuấn & Nguyễn Huệ) là:
Cụ bà TRẦN THỊ LANG
Đã  qua đời ngày 26 tháng 5 năm 2016,
Tại TP Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam,
Hưởng thọ 94 tuổi.

Anh Ngô Phấn cho biết, hiện gia đình anh Hồ Xuân Lạc đang sinh sống tại tại Portland, Oregon, U.S.A.
Tang lễ sẽ được cử hành vào ngày 2 tháng 6 năm 2016.
tại Thôn An Niên, Tuy Hòa, Phú Yên.
Mọi chi tiết xin liên lạc anh Ngô Phấn (503) 805-0689.

Trân trọng thông báo, và 
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU,
Thukỳ.







Friday, May 27, 2016

CỜ VÀNG DIỄN HÀNH VỚI QUÂN ĐỘI HOA KỲ (Ngọc Yến)






Kính chuyển tới quý vị quý bạn 3' Video, bài tường thuật & 2 photo diễn hành Cờ Vàng trong "Torchlight Armed Forces Parade" Ngày Quân Lực Hoa Kỳ 21/5/2016 (Armed Forced Day)là cuộc diễn hành của quân đội Hoa Kỳ
lớn nhất nước Mỹ --- tại Lilac Festival, Spokane, Washington state.
   
Cờ Vàng Diễn Hành với Quân Đội Hoa Kỳ
tại Spokane, Washington State Thứ Bảy 21/5/2016

Hàng năm, thành phố Spokane tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ có một cuộc diễn hành ban đêm ở downtown, gọi là “the Armed Forces Torchlight Parade”, lớn nhất nước Mỹ, tổ chức từ năm 1938, để vinh danh Quân Lực Hoa Kỳ. Lồng trong lễ hội Lilac Festival, cuộc diễn hành này đi qua các đường phố dài gần 2 miles, có khoảng 150,000 ngàn khán giả đón chào, và hàng triệu người theo dõi qua các hệ thống truyền thông Hoa Kỳ. Đây là cuộc diễn hành lần thứ 78, diễn ra vào Thứ Bảy 21 tháng 5– 2016, khởi hành lúc 7:45 giờ đêm và
chấm dứt hơn 10 giờ.

Mưa dầm dề suốt ngày, bỗng nhiên mưa tạnh trước giờ diễn hành. Tháng 5, trời lạnh 48 độ F, dân chúng vẫn tập họp đông đảo hai bên đường, náo nhiệt cổ võ các đoàn diễn hành nhộn nhịp đi qua. Đầy đủ các quân chủng Hoa Kỳ: Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Lực Lượng Phòng Vệ Duyên Hải. Xen kẻ là các đội diễn hành của các trường trung học, với đồ hình và đồng phục rất đẹp, trống kèn sôi động. Người ta thấy các xe hoa thiết kế rực rỡ đẹp mắt, các hoa hậu Lilac City, ngựa, các đội vũ múa, binh lính và sĩ quan Mỹ, cùng các loại cơ giới hạng nhẹ của quân đội Hoa Kỳ, cùng nhiều đoàn thể dân sự tại Washington, Oregon, Idaho và Canada.

Lần đầu tiên, người Việt ở Spokane hân hạnh tham gia diễn hành. Dẫn đầu, là một nữ quân nhân người Việt đang thụ huấn trường sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, song hành với một thanh niên trong quân phục của Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa. Theo sau là biểu ngữ ghi: “Vietnamese American Community in Spokane, Thank You Vietnam Veterans, Thank You America”, bày tỏ lòng biết ơn các chiến sĩ Hoa Kỳ, Việt Nam và Đồng Minh đã đóng góp xương máu trong cuộc chiến Việt Nam. Đồng thời cảm tạ người Mỹ và quốc gia Hoa Kỳ đã tiếp nhận người Việt tỵ nạn cộng sản.

22 người Việt diễn hành, mang 18 lá cờ vàng ba sọc đỏ, cũng là để ghi ơn 18 đời vua Hùng Vương thời lập quốc. Ba thế hệ: từ cụ bà 80 tuổi bên cộng đồng Công Giáo, các cô bác ở tuổi 60-70 thuộc Hội Cao Niên, các cựu chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các huynh trưởng Gia Đình Phật Tử ở tuổi 30, tới cô nữ quân nhân Mỹ ở tuổi 20.
Nhiều quân nhân đã đưa tay nghiêm chào hàng cờ tung gió đi qua, giữa những tràng vỗ tay của dân chúng hai bên đường. Nhiều người hô lớn trả lại “Thank you! Thank you!”. Tại các trạm truyền thông, xướng ngôn viên đã nhắc lại Bản Tuyên Ngôn của chính quyền Spokane, được Thị Trưởng ấn ký hồi tháng 4/2016, công nhận Ngày Truyền Thống Giỗ Tổ Hùng Vương, Cờ Truyền Thống, Cờ Tự Do của Việt Nam, đồng thời vinh danh các Chiến Sĩ đã đóng góp và hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.

ngocyen ghi
24.5.2016

(Có 204 đội diễn hành năm nay. KHQ-TV website chỉ chọn
post 10+ photo tiêu biểu, trong đó có toán người Việt)

 




































BÊN TRONG CÁNH CỔNG SẮT SƠN MÀU ĐỎ (Lê Thị Hoài Niệm)

Bên trong cánh cổng sắt sơn màu đỏ
Lê thị Hoài Niệm

Hắn phải nghe theo lời vợ, dù hắn không là tín đồ của “đạo thờ bà”, và luôn luôn nhẩm đọc thân lệnh: kiên định lập trường!
Lập trường của một thằng lính bị bắt buộc… thua trận và phải lưu vong tận xứ người, nhưng nhất quyết không về lại quê nhà khi nào lá cờ đỏ của phường ăn cướp vẫn còn “ngạo nghễ tung bay” và những tên Cộng sản vẫn còn nghênh ngang như trêu ngươi những thằng người như hắn.
Nhưng hắn phải về, vợ hắn nói đúng: “nếu chế độ này nó không sụp mà Mẹ mình sụp thì sao?”

Hắn nhớ thương Mẹ quá chừng chừng. Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì. Hắn rời xa mẹ hắn từ ngày ba hắn từ giã chốn dương gian giặc giã lan tràn, bỏ lại mẹ hắn và đám con ba đứa, hắn là thằng con lính lớn nhất nhà, ngày ấy mẹ hắn chỉ mới tròn trèm 5 chục. Bây giờ bà đã già quá rồi, hắn gọi điện thoại thăm bà hoài, dù thính giác của bà đã lểnh lãng. 

Tội bất hiếu nặng quá! Hắn mà có tội đó với chính người mang nặng đẻ đau sinh ra mình, nuôi mình khôn lớn thì làm sao mà dạy con? Trường hợp bất khả kháng, không có cơ hội thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ, “thời cuộc đã đổi khác”(?), nhiều người vẫn bảo thế. Người ta đi tới đi lui hà rầm, rủ nhau về du lịch từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc không sót hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao trong túi rủng rỉnh đô la (đừng bàn ra bàn vô chống đảng). Hắn phải làm theo “chỉ thị” vợ hắn ban ra: “về thăm Mẹ già trước khi quá trễ!”
Hắn đành mắt nhắm mắt mở mà về, vì Mẹ!

oOo
Chiếc Toyota 4 cửa chạy chầm chậm để hắn nhìn đường sá. Ngang qua khu phố chợ Long Hoa, hình ảnh đầu tiên tại quê nhà đập vào mắt hắn, vẫn là con đường lầy lội, bùn đất đỏ tràn lan, những người đàn bà đang xắn quần lội qua vũng bùn để vào chợ. Không biết bên trong khang trang, đẹp đẽ cỡ nào, chứ hơn ba mươi năm rồi mà chung quanh chợ dơ vẫn hoàn dơ, sửa chữa vẫn hoài sửa chữa, làm hắn thất vọng vô cùng. Ngày xưa trong hoàn cảnh chiến tranh, bị “anh em” phía bên kia về phá hoại liên miên đã đành, chứ bây giờ sau mấy chục năm hòa bình rồi, sao vẫn còn lầy lội, bẩn thỉu như xưa?

Xe chạy ngang qua khu vực Tòa Thánh, trực chỉ về hướng nhà của hắn. Con đường này ngày xưa rộng rãi, quang đãng thoáng mát, lòng đường trải đá đỏ cũng lắm ổ gà, nhưng không ồn ào, lại có vẻ thơ mộng, bởi hai hàng cây gòn rợp bóng ven đường. Nhờ vậy những buổi đạp xe đi học ở trường tỉnh, con đường dù dài hun hút, vẫn không làm bọn hắn thấy mệt nhiều, nhất là những buổi trưa hè, đạp xe theo sau “áo trắng tan trường”, dù cả hai bên đều mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng vẫn mang mang những nét tình tứ, mộng mơ. Sau này về Sài Gòn đi học, con đường Duy Tân có nhiều cây dài bóng mát, cũng không nhiều bóng cây cao bằng con đường tuổi nhỏ hắn đi qua. 

Nhưng bây giờ thì khác quá, làm hắn lại buồn lòng. Con đường xưa giờ đã hoàn toàn thay đổi, người ta đã chặt hết cây để nới rộng lòng đường, nhà cửa mọc lên san sát nhưng vô cùng mất trật tự. Quán xá, tiệm cà phê hát nhạc giựt râm ran, tiệm cắt tóc, tiệm sửa xe Hon da, nhà may quần áo, nhà bán xi măng, v.v… đầy dẫy hai bên đường. Chẳng bù với ngày ấy, mỗi một gia đình là một vuông đất rộng thênh thang, sau vườn đầy ắp cây ăn trái, như nhà hắn có đến 4 cây mít, cứ đến mùa là quả nặng trĩu cành, trái nào cũng to đoàng ôm không hết vòng tay, chín lừng thơm nức mũi, chưa nói đến những “dái mít” non vừa bằng vài ngón tay đem chấm với muối ớt làm rỏ dãi những thằng bạn học dân phố chợ. Rồi thì mãng cầu, nhãn, sa- pô- chê, còn đu đủ là đồ bỏ v.v…. Thế mà hôm nay, chỉ thấy nhà và người thế chỗ, xe cộ lên xuống nườm nượp, đất đỏ văng tung tóe, nhất là xe Honda 2 bánh với tiếng nổ ầm ầm văng khói mù trời đất. Người đâu mà xây cất nhà cửa nhiều quá vẫn là câu hỏi lởn vởn lờn vờn trong đầu hắn.

Xe chạy chầm chậm ngang qua khuôn viên trường tiểu học, hắn chợt mừng vì biết đã đến gần nhà, vì ngôi trường này là nơi đầu tiên thầy giáo dạy cho hắn biết cầm cây bút và đọc chữ a- b- c. Đã bao nhiêu năm rồi không có gì thay đổi ngoài bảng hiệu tên trường. Hình như học trò quá đông mà phòng ốc vẫn y nguyên, lớp sơn loang lổ, sân trường vẫn nền đất hoang sơ, chỉ hai cây cổ thụ bên hông trường là lớn thêm theo năm tháng. Hắn thở dài vì một thoáng so sánh vắt ngang qua bộ nhớ. Cạnh nhà hắn phía bên kia nửa vòng trái đất, cũng một trường tiểu học, mà sao nó đồ sộ, khang trang to lớn hơn cả một trường… đại học bên này. Hắn buồn.
Một thoáng ngỡ ngàng khi chiếc xe dừng hẳn lại trước cánh cổng sắt màu đỏ, thằng cháu đi về cùng với người tài xế xe quen của nó, nhe răng cười và nói đã tới nhà rồi.

Hắn bước xuống xe mà chân loạng choạng, nửa muốn bước tới, nửa lại chùn. Sự ngại ngần trước căn nhà như xa lạ đã kiềm hãm sự thôi thúc muốn bươn chạy ào vào nhà để gọi mẹ, để được ôm bà vào lòng, để được sờ nắn hình hài, vóc dáng thân yêu của người mẹ già sau ngần ấy năm xa cách, và cả người em gái của hắn nữa. Ngày hắn đi, con bé còn độc thân, bây giờ đã con đàn con đống. Nhưng cánh cổng sắt sơn màu đỏ đã chận ngang sự nôn nóng trong lòng hắn. Hắn chỉ đứng xa những chấn song và cất cao tiếng gọi mẹ sau lời gọi mở cổng của thằng cháu... 

Người đàn bà đứng tuổi chậm chạp cầm cái chìa khoá tra vào ổ, cùng lúc ngó chăm chăm vào hắn, như muốn hỏi ai đây, thằng cháu cười cười hối thúc mở cổng lẹ lên. 

Cổng mở. Hắn muốn nhào tới ôm lấy em gái hắn, nhưng không biết tại sao hắn không thể nào thể hiện tình cảm của mình, có lằn ranh vô hình nào đó đã hiện hữu trong tình thân giữa anh em hắn. Và người em đã làm thay hắn, khi biết người đàn ông đứng đó là anh ruột của mình đã trở về thăm nhà sau ngần ấy năm dài. Cô ta hét thật to và nắm tay hắn ù té chạy vào nhà gọi mẹ. 

Mẹ hắn quờ quạng cầm cây gậy lần bước đi. Hắn đứng chết trân và khóc lớn tiếng. Mẹ hắn già nua bệnh tật như vậy sao? Hắn ôm chầm lấy mẹ, nhấc bổng bà lên và xoay bà mấy vòng với nước mắt nước mũi chảy dài, nụ cười nhăn nheo của bà làm hắn càng khóc to hơn nữa. Hắn khóc nhưng mọi người chung quanh, ngay cả mẹ hắn, đều cười vui.

Ngày về nhà đầu tiên của hắn đâu khác chi triệu người bỏ xứ ra đi ngày ấy. Hắn biết mẹ hắn là người vui nhất, bà cười nói huyên thuyên, bà hỏi trăm ngàn chuyện, hắn cứ để bà tự nhiên nói, hắn trả lời ít ỏi, vì đôi tai nghễnh ngãng nghe câu đựơc câu mất của bà. Hắn thương mẹ quá chừng chừng. Bà càng sờ soạng lên hình hài đứa con trai bao nhiêu, nỗi ân hận dày vò trong hắn lại cuồn cuộn trào dâng ngần ấy. Hắn hối tiếc, phải chi hắn về sớm hơn vài năm, thì mẹ hắn đã nhìn rõ dung nhan đứa con trai lớn của mình. Và bà đã nghe rõ được những lời yêu thương trìu mến từ cửa miệng đứa con một cách rõ ràng, thích thú.

Hắn vui lắm! hắn thầm nói lời cảm ơn tới vợ hắn đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Cảnh mẹ và con gặp nhau, tình cảm chất chứa bao năm nó tuôn tràn như dòng suối mùa lũ, nó chảy cuồn cuộn, ào ào, liên tục làm quặn lòng thằng người luôn dùng lý trí để xét suy, hành xử mọi việc. Chỉ mới quá nửa ngày, mà mẹ con hắn đã đi lại một quãng đường của thời gian hơn ba mươi năm dài đằng đẵng.
Ngày ấy, trong căn phòng hành quân của phi đoàn ở vùng 4 chiến thuật (Bình Thủy- Cần Thơ), nơi mà có những vị Tướng anh hùng, tuyên bố sẵn sàng chọn địa thế này làm căn cứ địa “tử thủ” để chống bọn Cộng sản xâm lăng, nếu thủ đô lỡ lọt vào sự kiểm soát của quân địch. Hắn nhìn thấy “bảng phi vụ” có sẵn tên phi hành đoàn, số máy bay, nhưng thiếu giờ bay và nơi làm việc, nên cứ ngồi chờ (stand- by), mà không biết rằng đã có những cấp chỉ huy cũng như vô số bạn bè đà bỏ ngũ trốn đi. Câu: “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” mà hắn vẫn thường nghe người ta ca tụng, đối với hắn, thật mỉa mai và chua xót, nhiều lúc muốn hét toáng lên và chửi đổng. Anh em không bỏ, nhưng đã không thông báo cho nhau khi rời căn cứ. Bạn bè không bỏ, nhưng đa số đã âm thầm, lặng lẽ tìm đường thoát thân cho riêng cá nhân và gia đình mình. Chỉ có hắn và một số ít đồng đội là triệt để tuân hành kỷ luật, dù pháo địch đã bắt đầu bắn vào phi trường. Mãi đến khi nghe “Thông điệp” tuyên bố đầu hàng Cộng sản của Tổng thống Dương văn Minh từ chiếc radio nhỏ trên bàn, làm bọn hắn rụng rời, chết điếng. Thế là hết!

Ngày ấy, trong cơn hỗn loạn, hoang mang cùng tột, hắn đã cùng mấy đồng đội chạy bay tóc băng qua phi đạo, nơi đang bị đạn pháo của địch bắn nổ rền trời. May quá còn chiếc trực thăng nằm im lìm trong “ụ” như chờ đợi bọn hắn đến để phục vụ lần cuối. Tiếng nổ của máy và cánh quạt quay đều, bình xăng còn đầy làm hắn cảm thấy nhẹ người, vội cất cánh bay lên. Ngồi trước cần lái, người đầu tiên hắn nhớ đến là mẹ. Hắn đã muốn quay đầu chiếc trực thăng bay về với mẹ, rồi sẽ ra sao thì ra. Nhưng những đồng đội trên tàu đã ngăn không để hắn làm theo điều hắn nghĩ. Nước mắt lưng tròng, hắn đã gọi thầm tên mẹ để nói lời từ giã và điều khiển con tàu quay mũi về hướng Côn sơn theo yêu cầu của đa số. 

Để rồi cuối cùng, dưới cơn mưa tầm tã, những giọt mưa buồn hay là giọt nước mắt tức tưởi của những người lính, mà suốt thời trai trẻ đã gắn liền với chiếc áo lính và những cuộc hành quân. Chiếc trực thăng của hắn đang bay, cũng cùng số phận của nhiều trực thăng đơn vị bạn, khi đáp xuống sàn tàu chiến hạm Mỹ. Hắn đâu còn đủ can đảm để tự mình “đập tàu xuống nước”, nên chỉ biết đứng nhìn con tàu đã cưu mang mạng sống của chính mình và biết bao nhiêu người trong ngần ấy năm tháng bị xô xuống biển sâu mà lòng quặn đau như bị mũi dao nhọn xoáy vào, càng nhìn càng buồn nẫu ruột. Nhưng nỗi buồn cũng bị xé nát từng mảnh nhỏ trước cảnh tượng ồn ào, hoang mang lo lắng của rất nhiều người đồng cảnh ngộ.

Điều an ủi đã được yên bình cho bản thân, không làm hắn quên đi nỗi uất hận thương đau. Nhất là khi tàu cặp bến “Subic bay” của nước Phi luật Tân, Tổng thống Marcos của nước đồng minh VNCH mới tuần trước, giờ đã quay ngược kim đồng hồ 180 độ, ra lệnh… lột hết những bộ đồ trận, nón, giày của những người đang còn khoác bộ đồ Lính VNCH trên người. Hắn cởi bỏ bộ đồ bay mà hồn vía cũng bay theo, người lâng lâng muốn ngã quị. Người ta trao cho hắn chiếc áo thun trắng và quần màu xanh đậm của “US Navy” rộng thùng thình để mặc vào người, che giấu một nỗi tủi nhục cùng tột. Trong hắn lúc đó là nỗi buồn, sự giận dữ và niềm uất hận đang chen lấn nhau qua từng hơi thở. Hắn hận cho chính mình bất lực, cuối cùng cũng “trốn chạy”, bị sỉ nhục vì làm người Lính thua cuộc, dù rằng trong những năm khoác chiếc áo bay, hắn cũng đã vào sinh ra tử, lê lết trên thân tàu từ vùng hai tới vùng bốn chiến thuật, từ lúc còn ở phi trường Sóc Trăng sang tận Bình Thủy- Cần Thơ, đã hai lần bị đạn phòng không của địch bắn rớt phải vào quân y viện. Để cuối cùng phải ra đi trong tức tưởi không lời từ giã. Hắn xa hẳn mẹ từ những ngày tháng đó.

Mẹ hắn, như có mắt thần soi thấu tâm can phèo phổi của đứa con, nên hiểu được tâm trạng của hắn từ lâu đã không trở lại nhà. Trước khi đưa miếng trầu với cau vào miệng, xỉa cục thuốc, thói quen của bà cụ hằng ngày, bà đã mò mẫm cầm tay hắn, bóp bóp mấy cái rồi chậm rãi:
- Bay đã dzề rồi, má gặp lại một lần như dzầy trước khi đi gặp ba bay là tao mãn nguyện. Tao biết, bay có khó khăn, khó xử. Nhưng thôi con à, chuyện gì cũng qua lâu quá rồi, có để mãi trong lòng cũng chẳng được gì đâu. Thiệt ra, nhà này được bình an là cũng nhờ Nó, nếu không có nó đứng ra đỡ đần, che chở, thì tao với em gái bay làm sao chịu thấu, suốt ngày chúng nó cứ kêu lên xã để “làm việc” hỏi cung tra khảo, có làm ăn gì được đâu. Rồi bắt tao đi tìm, kêu bọn bay dzề, đi đâu kêu? Bao tháng năm dài có biết gì tin tức tụi bay đâu? Sống hay chết còn không biết mà, tao với em bay cuối cùng đành chấp nhận nó, để mà sống sót con à! Có Đấng Chí Tôn thương xót, sau đó bay nhắn tin dzề, còn sống ở bển. Má mừng. Từ khi thấy người ta dzề nước nhiều, tao dzà em bay cũng có mong bay dzề, nhưng bay cứ hẹn qwài mà không thấy dzề. Cũng may bay có gọi điện thăm thường xuyên, dzà gửi tiền dzề nuôi nấng gia đình đầy đủ, thôi dzậy cũng được. Cuối cùng bay cũng đã dzề, giờ má có chết cũng mãn nguyện!

Buổi chiều, hắn và người em đang ngồi tâm sự trước cửa nhà, có người mở cánh cổng sắt đi vào trên tay cầm mấy lá “cờ đỏ sao vàng”. Hắn khựng lại và nhìn trân trối vào người đàn ông trông gầy gò, đen đủi, ốm yếu, được em hắn giới thiệu là “ba của mấy đứa nhỏ”.
Người đàn ông niềm nở bắt tay hắn. Bàn tay xương xẩu, lạnh ngắt, tự nhiên làm hắn rùng mình.
Bữa cơm chiều đơn sơ, đạm bạc đầu tiên trong căn nhà mới, trên nền đất cũ của bao nhiêu năm tuổi nhỏ làm hắn chạnh lòng. Hắn trệu trạo những hạt cơm cứng ngắt, có cái gì đó ngăn chận, làm những hạt cơm như muốn dừng lại nửa chừng ở cuống thực quản. Hắn gần như mắc nghẹn, khi người đàn ông là em rể hắn bắt đầu vào chuyện:    
- Nước nhà đã “giải phóng” lâu lắm rồi, đã hơn 3 chục năm rồi, nhưng sao mãi đến bây giờ anh Hai mới dzề?
- Ừ thì bận lo làm ăn nuôi con vậy mà!
- Tôi không nghĩ đó là lý do chính đáng. Chắc anh Hai lo sợ một điều gì? “Đảng và nhân dân ta” lúc nào cũng coi “Việt kiều” là những “khúc ruột xa ngàn dặm”. Ngày trước lỡ ra đi thì bây giờ hãy trở về để xây dựng quê hương, Đảng và nhân dân ta rất “khoan hồng” và kêu gọi “xoá bỏ hận thù” lâu rồi mà, chắc ở nước ngoài anh cũng đã biết?
Rất bực bội, hắn ngó mẹ hắn, nhưng bà đâu có nhìn thấy nét mặt khó coi của hắn. Người em gái hắn, có lẽ “vô tâm” nên cứ ép hắn ăn, thằng cháu thì nín thinh ngó lơ chỗ khác. Tìm cớ thoái thác, hắn ậm ờ:
- Cũng có ý định về thăm nhà, nhưng bận làm kiếm tiền để lo cho mấy đứa nhỏ ổn định việc học hành tới nơi tới chốn..
- Thiếu gì người có con phải lo, nhưng người ta vẫn dzề hằng năm!
- Ừ thì…
Hắn bỏ lửng câu trả lời, sự uất nghẹn đang dấy lên, muốn thoát ra nhưng cứ bị chặn lại nên nó càng muốn bứt, sự bực bội dồn trên khuôn mặt. Hắn đang tự hỏi có nên nói ra những điều hắn nghĩ từ bấy lâu nay, hay nghe lời mẹ hắn mà bỏ qua tất cả, mua sự im lặng trong những ngày còn ở lại để mẹ hắn vui lòng? Thằng cháu nhìn mặt hắn, hình như đã hiểu đôi phần bèn gỡ rối:
- Ba để cho cậu ăn cơm, đi từ sáng giờ, cậu đói lắm rồi.
Mẹ hắn biết được tâm trạng hắn, cũng góp lời:
- “Trời đánh tránh bữa ăn”, đứa nào muốn nói gì thì ăn xong hãy nói.
Bữa cơm đầu tiên trong gia đình hơn ba mươi năm gặp lại, rồi cũng trôi qua. Hắn cố gắng nhìn kỹ người đàn ông, bây giờ là em rể hắn. Người đàn ông này mà là “kẻ thắng trận sau cuộc chiến?”
Với vóc dáng gầy gò, ốm yếu, con người khắc khổ trông già nua trước tuổi, nhưng nét mặt nhìn kỹ cũng không mấy thay đổi với người thanh niên ngày trước hắn gặp cũng tại nhà này. 

oOo
Ngày đó, trong “Thánh thất”, nơi Ba hắn thường đi lễ, Ông đã gặp và động lòng trắc ẩn nên dễ dãi cho người thanh niên này đến nhà ở nhờ, vì nghe đâu hắn bị “mồ côi cha mẹ”, không nơi nương tựa nên phải vào chùa ở. Người thanh niên trông bề ngoài rất “ngoan đạo”, biết chữ nghĩa và chơi đàn tranh rất hay, được mọi người trong đạo có cảm tình. Biết ba hắn thích đờn tranh, nên đã không ngần ngại đến gần làm quen và hứa đến dạy đờn cho ông Cụ. Mục đích anh ta đã đạt được trong mấy năm dài, khi mà nhà hắn trở thành một nơi chốn an toàn, và nơi mọi tin tức hành quân gì của “phe ta” đều được người thanh niên thâu lượm hết. Bao nhiêu bạn của hắn đã đến nhà thăm chơi, bao nhiêu người có chức sắc trong cảnh sát, trong quân đội, đều tạt ngang qua nhà hắn nói chuyện với ba hắn râm ran, vô tình khai vanh vách nay “tảo thanh” chỗ này, mai đi hành quân chỗ kia, nhất là những “căn cứ địa” của bọn cộng sản nằm vùng. Hắn không biết rõ ngày đó có bao nhiêu cuộc hành quân của “phe ta” bị thất bại? nhưng rõ ràng là hắn cảm thấy giật mình khi nhớ lại. Một “thằng phi công” về thăm nhà, ngồi nói chuyện với tên “cộng sản nằm vùng” mà không hề hay biết.
Nhìn quanh một lượt, hắn đặt câu hỏi:              
- Tại sao nguyên cả xóm mình, không nhà nào bị bom, bị cháy, mà chỉ có nhà mình bị?
Hắn muốn chính tai nghe được câu trả lời thỏa đáng.
Người đàn ông suy nghĩ một chút rồi trả lời:
- Không giấu gì anh Hai, trước khi cả nước được “giải phóng”, nhà mình được chọn làm căn cứ cho “cách mạng” đặt bộ chỉ huy cơ sở, nên “bọn Nguỵ” nó chấm tọa độ pháo kích vào. Lúc đó thì mẹ và nhà em đã được “cách mạng đưa sơ tán” vào Chùa ở rồi.

Hắn tức muốn lộn ruột lên khi phải ngồi nghe những từ ngữ “cách mạng, nhân dân, giải phóng, khoan hồng..v..v..”, mà từ lâu hắn ghét cay ghét đắng. Hắn muốn hét thật to cho vơi đi sự nghiệt ngã, trớ trêu. Thì ra chính hắn và gia đình hắn cũng đã góp phần vào việc làm “mất nước!” Dù vô tình, nhưng đã lơ là không truy xét “hồ sơ lý lịch” của đối phương. Mà làm sao xét được, khi mà trong phủ Tổng thống cũng đầy dẫy những tên “Cộng sản gộc nằm vùng”, ngay cả trong binh chủng không quân của hắn, cũng có khối binh sĩ, hạ sĩ quan, ngay cả sĩ quan mặc quân phục không quân Quốc gia mà hoạt động cho cộng sản như tên Pi-lot Nguyễn Thành Trung chẳng hạn. Hắn nghĩ vừa giận vừa thương cho những người quốc gia quá trọng tình người, quá nhân bản, quá dễ dãi để cuối cùng làm người bị thua cuộc một cách tức tưởi, thảm hại..
Người đàn ông tiếp lời:
- Anh Hai đã dzề tới nhà rồi, cả nhà đều đoàn tụ, cũng nhờ ơn “cách mạng”. Bao nhiêu năm nay tui lo cho gia đình này, hôm nay anh có mặt ở đây, nên ngày mai tui mời anh Hai lên thăm “cơ sở ủy ban nhân dân hành chánh xã”, dù gì tui cũng từng là “bí thư chi bộ đảng”, không lẽ tui không “động viên” được “Việt kiều” về nước “đóng góp” cho xã ta.

Như thế này là quá rồi. Hắn muốn “tranh luận” với người đàn ông đang nhân danh “cách mạng” mà ra điều kể ơn. Rằng thì là: nếu không có cái tên Hồ tặc du nhập cái đảng cộng sản hắc ám vào nước VN, và không có những tên nằm vùng, những tên cộng sản miền Bắc xâm lấn miền Nam, thì làm gì có chiến tranh giặc giã, để hắn phải làm người Lính bảo vệ miền Nam với hai lần suýt chết, làm gì có cảnh ly tan, cửa nhà hắn đâu bị đạn pháo cày tan nát, mẹ và em gái hắn đâu lâm vào cảnh bị chèn ép để anh ta nhảy ra làm “ân nhân cứu mạng” rồi bây giờ đi kể công? Nhưng hắn nhìn mẹ hắn, nhớ lời bà vừa dặn hồi xế trưa, lại nhớ thêm lời vợ căn dặn trước khi lên máy bay:
- Về nhà, dượng Tư có nói gì thì cũng cố mà nhịn, mục đích là về thăm mẹ. 

Anh không có ưu thế nào để đi tranh cãi với một tên cộng sản còn gắn chặt hình ảnh đôi dép râu, cái nón tai bèo. Dượng ấy bị đầu độc quá lâu rồi, từ khi sống chui sống nhủi trong hóc hiểm trên núi Bà Đen chờ đêm đêm lẻn đi “giựt cầu, phá đường”. Nơi mà trên đầu suốt ngày trực thăng bay lên xuống xành xạch, dưới đất là lính đi lùng ban đêm. Mãi đến khi vô chùa Cao Đài làm tên “hiền huynh tu sĩ giả” mới dễ thở (?). Dưới mắt dượng ấy, anh cũng vẫn là một “tên giặc lái, tay sai đế quốc Mỹ”, và vẫn là “người thua trận nên bỏ chạy”. Dù anh có hét toáng lên rằng anh đi chiến đấu để bảo vệ miền Nam, chống bọn cộng sản xâm lăng từ miền Bắc, thì hãy coi chừng, chuốc họa vào thân. Nhớ mục đích là về thăm mẹ, không phải lúc để làm công tác đấu tranh! Bọn chúng thù dai và tiểu nhân lắm, chuyên xài luật rừng, chúng mà kêu lên xã để “làm việc” là không có ngày về, nếu không đưa nhiều tiền ra để “đấm mõm” bọn chúng, một hành động “làm tiền” rất có hệ thống, lớp lang với đầy đủ vũ khí trong tay. Hãy nhớ, mỗi người một hoàn cảnh, hoàn cảnh nhà mình nó trớ trêu, phức tạp, miễn mình đừng làm gì trái với lương tâm, đừng đứng dưới lá cờ máu của họ mà tuyên bố vung vít như tên tướng hèn râu kẽm của binh chủng anh, là không ai phiền trách gì đâu… 

Hắn thở dài, tập vài hơi thở theo bài tập khí công để điều hòa lại nhịp đập con tim. Có ở trong cảnh ngộ mới thấm được nỗi đau, sự bực bội. Làm sao hắn có thể nói chuyện bình thường với người “cộng sản giáo điều” này, dù trong gia đình, có vị thứ anh vợ-em rể, nhưng hai ý thức hệ vẫn là hai lằn ranh cách biệt, hắn ghét cay ghét đắng lá cờ máu kia, lý do chính trong nhiều năm nhất định không về thăm mẹ, vậy mà phải nhìn ngồi người em rể vác về để sờ sờ trước mắt.
Hắn tự hỏi: chẳng lẽ mình cũng là một người hèn? Không! ngày đó hắn “anh hùng” lắm chứ. Có những cuộc hành quân tiếp tế, chứng kiến trực thăng bạn bị cháy ngay trong vùng trời trước mặt, nhưng hắn vẫn bay qua dàn phòng không của địch để lao vào đạp những ống chứa nước bằng đạn pháo binh cho tiền đồn mà binh sĩ gần như sắp chết khát, hoàn thành phi vụ. Có những chuyến bốc quân, địch nã pháo gần ngay bãi đáp, nhưng hắn vẫn đưa con tàu xành xạch sà xuống để lính nhảy lên. Nhiều chuyến tản thương, mà bộ đồ bay dính toàn là máu, túi áo bay lúc nhúc những “dòi bò” vì không kịp kéo kín “phẹc-mơ-tuya”. Những ngày ở xứ người, hắn cũng đã tích cực đóng góp, tham gia vào những cuộc biểu tình, mít-tinh để chuyển lửa về trong nước, ủng hộ những người đấu tranh dân chủ v..v..

Nhưng bây giờ, ngồi đây, ngồi để nhìn một người đàn ông gầy gò, đen đủi, già nua “lên lớp” mà không thể mở lời đối đáp được sao? Hắn bèn gạt qua một bên lời mẹ và vợ dặn, phản ứng lại thật mạnh dạn sau khi nhờ thằng cháu nấu ấm trà nóng với mấy cái tách để ngồi… đối ẩm tâm sự.
Hắn bắt đầu với giọng nói chậm mà rõ:
- Bây giờ tôi không nói chuyện với anh (hắn lịch sự gọi người đàn ông) về cái đảng cộng sản, về nhân dân, về cách mạng gì ráo, ba chuyện đó đối với tôi chỉ là sự tuyên truyền láo khoét. Chỉ có ngần ấy chữ mấy anh cứ nói tới nói lui như con vẹt. Tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản, và hãy thành thật trả lời: bao nhiêu năm nay nhà này làm sao có tiền để sinh sống, xây cất lại nhà cửa và con anh có thể lên Sài Gòn học đại học?
- Thì do anh chị ở bên ngoài gửi về giúp.
- A ha! Vậy tiền đó là tiền Mỹ hay tiền Hồ?
Người đàn ông khựng lại, hắn được thể nói tiếp những điều rất thực tế, dễ hiểu may ra giúp người em rể, người cộng sản quanh năm suốt tháng lẩn quẩn lần quần trong cái xã xa thành phố, có thể “tỉnh ngộ”. Hắn đang làm công tác “tư tuởng” ngược? Có lẽ từ trước đến giờ chưa ai nói, không dám nói hoặc không thèm nói cho anh ta nghe, cứ nhịn mãi như mẹ hắn và cả em gái hắn nên anh ta không nhìn rõ được thực hư?

- Tôi nói cho anh nghe, bao nhiêu năm anh đi “làm cách mạng”, gây tang tóc điêu linh cho bao nhiêu người, cuối cùng anh được cái gì đâu, chỉ tôi xem? Chung quanh làng xóm của anh được cái gì, hay cũng còn nghèo xơ, nghèo xác? Lúc nào mở miệng ra cũng cách mạng, cũng nhân dân, mà không đủ sức nuôi nổi một gia đình. Anh còn mơ ngủ, hay không chịu sáng mắt ra. Mấy thằng cộng sản chóp bu, lãnh đạo cái đảng của anh, chúng nó giàu nứt đố đổ vách do ăn cướp của nhân dân, ăn hối lộ không nương tay, con chúng nó vung tiền ăn chơi như rác. Còn anh, suốt ngày cứ khư khư cách mạng, nhân dân, ôm ba cái lá cờ đỏ, lá cờ hại dân hại nước, tôi ghét cay ghét đắng. Anh khư khư giữ nó có thể thế cơm no bụng được không? Hay no bụng nhờ cơm áo gạo tiền từ xứ Mỹ?
Người đàn ông rướn mặt lên ngó chăm bẳm vào hắn, sự ngạc nhiên hiện rõ lên nét mặt. Được thể đứa cháu tiếp:
- Cậu nói đúng đó Ba à, bao nhiêu lâu nay con muốn nói cho ba hiểu ra, nhưng con sợ ba buồn. Người ta làm “cách mạng” giàu có, còn ba thì cứ ôm cứng bác Hồ, cái đảng cộng sản của ba, sợ bị phê bình là hủ hoá, sợ kiểm điểm gì đó, rốt cuộc nhà mình nghèo rớt mồng tơi, may mà con xuống thành phố học hành rồi làm việc cho công ty nước ngoài, nên cũng đỡ khổ. Nếu không có cậu mợ giúp đỡ thì nhà mình làm sao được như dzầy..
- Sao con ăn nói “phản động” dzậy?
- Ba với mấy đồng chí của ba cứ hay dùng từ phản động để áp đặt lên “tư duy” của người khác! - Đứa cháu tiếp - Con và lũ bạn con từ lúc hiểu biết sự đời, tụi nó đâu có thèm để ý đến “Bác, đảng, cách mạng” gì đâu, miễn sao khi ra khỏi trường đại học, tìm được một chỗ làm tốt, thường là các công ty nước ngoài, sống thoải mái là được. Đứa nào mà vô đảng, chẳng qua chúng nó là con ông cháu cha, học dốt lại muốn làm ông to, bà lớn. Lớp nữa muốn tiến thân bằng con đường tắt, đâu có đứa nào còn tin đảng nữa, nhưng chúng không ngu gì nói thật, sợ công an tới nhà còng tay dẫn đi, chụp cho đủ tội lỗi nào là âm mưu chống đối đảng, phá hoại cách mạng, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, mặc dù không người nào có một cây đinh ở trong tay, rõ ràng ai cũng biết cái “đảng của ba” đã dùng “bạo lực cách mạng” để đàn áp người ta mà!
- Nhưng mà…
- Không nhưng nhị gì cả! - Hắn bồi thêm - Nước Việt Nam bây giờ đâu còn “xã hội chủ nghĩa” nữa, tụi nó theo tư bản hết rồi, mà bày đặt gọi “kinh tế thị trường” cho khác chế độ trước. Chúng đem “Bác Hồ” ra làm bình phong, dùng công an trị để doạ nạt, bắt bớ, bỏ tù những ai không a-dua theo bọn chúng. Ngày mai, anh thử lên xã ghi tên nghỉ mấy ngày, tui sẽ đưa anh và cả gia đình lên Sài Gòn, để anh nhìn thấy bọn cán bộ chóp bu cái đảng của anh sống như thế nào, hay là nhờ có “cách mạng, nhân dân” mà tên nào cũng ở nhà lầu, đi xe hơi sang trọng, sống như ông hoàng bà chúa. Còn anh và một số đảng viên quèn cứ đem cái đảng ra dọa, ai nói đụng tới là bắt bớ giam cầm, làm khó dễ bà con… 

Hắn nói xong một hơi, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhưng cũng giật mình thót bụng. Bao nhiêu năm ở xứ sở tự do, muốn nói gì thì nói, nhiều khi có kẻ khơi khơi kêu tên “tổng thống” ra xài xể chơi, nhưng cũng chẳng bị gì. Có điều ở đó hắn nói, mà người nghe cũng đồng cảnh với hắn. Ở đây, trước mặt hắn là người cộng sản chính cống, dù chỉ là một tên cộng sản tép riu. Nhưng sự “bằng mặt không bằng lòng” sẽ khiến hắn bị công an còng tay bỏ vào tù, tẩn cho một trận, hoặc bắt “làm việc” liên miên để khủng bố tinh thần là điều có thể xảy ra. Hắn lại càng không muốn làm “người hùng nổi tiếng”, khiến vợ con hắn ở bên kia phải chạy đôn chạy đáo để kêu cứu, nhờ sự giúp đỡ, để cứu hắn ra. Mới nghĩ đến điều đó, hắn đã ớn xương sống. Thôi thì đàng nào hắn cũng đã có mục đích “về thăm mẹ”, không thể làm phiền đến gia đình, vợ con và những người đang đấu tranh chống cộng. Cả nước gần tám chục triệu người còn “ớn” hai triệu đảng viên (???), hơn hai triệu người đi tị nạn, cũng chưa thấy làm gì để dẹp hẳn được lá cờ đỏ kia, liệu một mình hắn, với vài câu nói bình thường, đâu đáng để “tàn đời trong ngõ hẹp?” Nếu có bị chê là hèn, cũng đành!

Thế là hắn đã đưa mẹ và em gái lên thành phố ở cho đến khi hắn về lại Mỹ, dứt lòng rời xa, từ giã luôn căn nhà có cánh cổng sắt sơn màu đỏ, dù đó là nơi chôn nhau cắt rốn và rất nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ. 

Lê thị Hoài Niệm

_

NGẪM CHUYỆN XƯA NAY (Lão Trượng & Lê Đức Luận)



NGẪM CHUYỆN XƯA NAY
Bài Thơ Yêu Nước
Lão Trượng.

Trong thi ca Việt Nam từ cổ chí kim, có nhiều bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, nói lên niềm đau, nỗi nhục khi bị ngoại xâm dày xéo quê hương. Nhiều bài thơ đã đánh thức lương tri con dân Việt trước hiểm họa đất nước được lưu truyền lại hậu thế.
Xin đơn cử một trong số bài thơ đó: Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vào đầu thế kỷ 20.


Nhà thơ Tản Đà Nguyẽn Khắc Hiếu (1889-1939) sinh tại làng Khê Thượng (Bất Bạt, Sơn Tây), cạnh Núi Tản Viên cạnh sông Đà.Năm 1916 Tản Đà công bố tác phẩm đầu tay Còn Chơi, ngay lập tức được dư luận chú ý! Trong 23 năm (1916 - 1939), Tản Đà cho ra đời 35 tác phẩm đủ thể loại bao gồm: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Tạp Luận, Dịch Thuật... 

Bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách’’ là một sự kiện văn học, nổi tiếng thời kì Tản Đà sung sức.  Để tìm hiểu thấu đáo về sự kiện BĐDR chúng ta đi ngườc thời gian về những năm đầu của thế kỉ 20:
Sau khi quân Pháp đánh chiếm Hà thành, Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thực dân Pháp tạm thời bình ổn được tình hình. Thực hiện chính sách chia để trị bằng cách: Chia Việt Nam thành 3 Kỳ (vùng): Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ. Bắc và Trung Kỳ đặt dưới chế độ Bảo Hộ của Pháp. Chính quyền do chính phủ Nam Triều - Vua quan nhà Nguyễn - trực tiếp điều hành. Nhưng thực chất Pháp vẫn gián tiếp lãnh đạo. Ngay đến việc để vua nào lên ngôi… phế truất vua nào (như trường hợp các vua Duy Tân, Hàm Nghi) cũng do chính quyền Pháp quyết định. 

Còn Nam Kỳ bị Pháp thiết lập chế độ Thuộc địa. Nam Kỳ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương.
Ở mỗi vùng, miền, mỗi địa phương lại có những quan quân đặt ra luật riêng… khiến đất nước không còn là đất nước được trọn vẹn chủ quyền của người Việt Nam. Tấm bản đồ vẽ trên mặt giấy thể hiện chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, chỉ là bức vẽ, còn trên thực tế, Bức Dư Đồ - thực chất đã “rách” tả tơi!

Trước thực trạng tang thương của đất nước bởi hiểm họa ngoại xâm, Tản Đà viết bài thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng mình trước đất nước bị họa xâm lăng: Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 1 ra đời trong hoàn cảnh này. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà. Bài thơ in lần đầu trong tập thơ Còn Chơi.  Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập thơ Tản Đà và sau khi hoàn thành 4 bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách được đăng trong Tản Đà, Khối Tình Con Thứ Ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932      
          
Vịnh Bức Dư Đồ Rách
“Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con chắu lấy làm chơi
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi”.
Nhìn hoàn cảnh đất nước, các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác gỉa, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 2, đăng trên Đông Phương Thời báo, số 635, năm 1927:

“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
Ta bồi cho chúng chị em coi
Giận cho con chắu đà hư thế
Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ
Có hồ có giấy dễ mà chơi.
Bởi chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”. 

Được sự đón nhận và đồng cảm của giới sĩ phu, văn nhân có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại BDĐR… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 - Vịnh Bức Dư Đồ Rách 3, đăng trên ĐPTB số 636, năm 1927:
“Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!
Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ
Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi
Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó
Non sông ai hỡi đợi chờ ai?
Còn núi còn sông còn ta đó
Có lúc ta bồi chúng bạn coi”. 

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh BDĐR - 4, đăng trên ĐPTB số 643 - năm 1927:
“Có lúc ta bồi chúng bạn coi
Chị em nay hãy tạm tin lời
Dẫu cho tài có cao là thánh
Chưa dễ tay không vá nổi trời
Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn
Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi
Việc nhà chung cả ai ai đó
Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?” 

Trong số những bài họa, có hai bài của cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.
I
“Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,
Ta bồi cho chúng chị em coi.
Giận cho con cái đà hư thế,
Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,
Có hồ, có giấy dễ như chơi,
Vì chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi”.
II
“Hóa rách ra lành thế mới hay
Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,
Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,
Gan óc ghe phen trổ gió mây.
Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,
Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.
Người đà mới mới ta nên mới,
Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy”.
*
Gần một thế kỷ trôi qua, đất nước bị Cộng Sản thống trị đã “hèn với giặc, ác với dân” không biết bao nhiêu bài viết, thơ, văn đã phơi bày thực trạng đau thương, phũ phàng nầy.
Là người dân địa phương Hà Tĩnh chứng kiến hình ảnh cá chết hàng loạt ở ven biển, ngày 6/4 ngư dân địa phương phát hiện cá chết vùng biển một số xã thuộc Kỳ Anh ở Hà Tĩnh. Bốn ngày sau, hiện tượng tiếp diễn tại vùng biển ở huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đến ngày 19/4, hiện tượng cá chết hàng loạt xuất hiện ở vùng biển Quảng Trị và tiếp tục lan rộng  4 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thứa Thiên vào Thừa Thiên – Huế... theo giới quan sát thì nguyên nhân xảy ra do “yếu tố gây độc trong môi trường nước” nên thảm họa hiện tượng cá chết bởi ô nhiễm nguồn nước do các nhà máy tại khu công nghiệp Vũng Áng, huyện Kỳ Anh xả thải gây độc. Ngư dân Hà Tĩnh phát hiện do ống thải nước ngầm của nhà máy thép Formosa dưới biển thải chất độc gây nên. Trước thảm họa gây nguy hại cho người dân các tỉnh ven biển nhưng CSVN không thực tâm truy tìm “thủ phạm” mà lấp liếm “vòng vo tam quốc” phó mặc cho người dân cam chịu!

Trước tình cảnh đó, cô giáo Trần Thị Lam, nếu xem qua vài dòng tiểu sử thì cô giáo ở Hà Tĩnh nầy được “đãi ngộ” (Tổ trưởng Ngữ Văn trường PTTH, có bằng khen của UBND Hà Tĩnh) nhưng lương tâm nhà giáo trước thực trạng đất nước quá tồi tệ đã viết bài thơ từ trong nước, được lan truyền rộng rãi và được mọi người đón nhận.

Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh
Trần Thị Lam

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...

Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...

Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...

Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...”.
*
Bài viết của Luật Sư Đào Tăng Dực: Đất nước mình ngộ quá phải không anh? Trả lời cô giáo Trần Thị Lam. Trích dẫn:
“… Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc…”

Bài thơ của cô giáo Trần Thị Lam được cho là bài thơ gây chấn động trên mạng lưới toàn cầu và có tiềm năng làm rung chuyển chế độ. Công an CSVN đã phải câu lưu và thẩm vấn cô, nhưng chưa dám truy tố hình sự vì sợ hãi phản ứng của nhân dân và công luận thế giới.

Dân tộc Việt có một nền văn hóa sâu dày hơn 4000 năm lịch sử trong đó tiềm tàng những tình tự đậm đà và tư tưởng uyên thâm, giúp dân tộc vượt qua những cơn ba đào của lịch sử.

Mặc dầu suốt 7 thập niên liên tục, người CSVN đã ra sức hủy diệt nền văn hóa này và thay thế trước hết bằng ý thức hệ giáo điều Mác Lê duy vật (Marxist dogmatic ideological materialism) và sau đó bằng chủ nghĩa duy lợi trần truồng (naked utilitarianism), nhưng những cố gắng của họ chỉ là vô vọng.

Những dòng nhạc của thế hệ trẻ như Việt Khang và nhất là bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Trần Thị Lam chứng minh hùng hồn rằng, nền văn hóa ngàn đời của dân tộc vẫn luân lưu mạnh mẽ trong tâm thức của toàn dân và khi mùa xuân dân chủ khởi động, thì vươn lên như những đóa hoa sen, từ chốn bùn nhơ nhớp xã hội chủ nghĩa, đem lại hương thơm và tô điểm sắc màu cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Tuy nhiên, bài thơ đầy cảm xúc này không những khẳng định tình trạng tồn vong mong manh và nghiêm trọng của đất nước mà còn nêu ra những vấn nạn cần giải đáp.
Phân Tích:
Khi chúng ta phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ có những nhận định như sau:
Bốn chương (khổ thơ) đầu trên hình thức là những câu hỏi, nhưng một cách mặc thị (implicit) là những khẳng định (affirmations) về tình trạng bi thương của đất nước dưới chế độ CSVN.
Chẳng hạn tuy có 4 ngàn năm văn hiến mà vẫn cam chịu nhục nhằn trước bất công từ bạo quyền, những tượng đài tôn sùng cá nhân hoang phí trong khi khinh bỉ mạng người, guồng máy thống trị tham ô và vô trách nhiệm đưa đến cái chết thê thảm của môi trường thiên nhiên, và nợ công chồng chất ngập đầu các thế hệ hiện tại lẫn tương lai.
Chương cuối cùng chỉ có 4 câu thơ nhưng hàm chứa 2 câu hỏi quan trọng:

1. Một câu hỏi mặc thị (implicit): Lý do vì đâu đất nước nên nông nỗi này?
2. Câu hỏi minh thị (explicit): Đất nước rồi sẽ về đâu anh?
Sau cùng thi sĩ tha thiết kêu gọi “Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu?”
Như một người công dân có trách nhiệm, tôi xin đáp ứng lời kêu gọi ấy và trả lời như sau.
Giải thích nguyên nhân:
Theo quan điểm của tôi, nguyên nhân gây ra tai họa cho đất nước rất nhiều, nhưng tựu trung có 2 tai họa lớn lao nhất:
Một là ngọn gió độc giáo điều ý thức hệ (ideological dogmatism) và
Hai là hiện tượng quái thú định chế hóa cực đoan (extreme institutionalization).
Đây là những ý niệm tương đối trừu tượng, nhưng thảm họa chúng gây ra cho dân tộc vô cùng hiện thực và chúng ta cần tìm hiểu (investigate), nhận diện (identify) và dứt khoát loại bỏ ra khỏi nền văn hóa, tâm thức và hiến pháp của dân tộc trong tương lai.

1. Ý thức hệ giáo điều:
Trước hết khái niệm “giáo điều ý thức hệ” (ideological dogmatism), hoặc “ý thức hệ giáo điều” (dogmatic ideology) không đơn giản và nhiều người, kể cả tôi, đã tốn nhiều giấy mực để viết về khái niệm này. Tuy nhiên, trong phạm vi hôm nay, tôi xin mạn phép đơn giản hóa, dùng văn xuôi và một số hình ảnh vẽ lên một bức tranh ý niệm hầu chuyên chở đến độc giả.

Nếu chúng ta coi dân tộc Việt Nam như một thực tại thì chúng ta có thể mườn tượng thực tại đó như một dòng sông tư tưởng và tình tự (a river of thoughts and feelings) luân lưu từ thủa bình minh của lịch sử cho đến bây giờ và vươn tới tương lai. Đó là một thực tại vô cùng sinh động bao gồm 2 yếu tính. Một là “hằng” và hai là “chuyển”. “Hằng” là có một bản sắc riêng biệt bất biến làm cho chúng ta nhận diện rõ đây là dân tộc Việt chứ không phải một dân tộc khác. “Chuyển” là luôn thay đổi, từng phút, từng giây, như ý nghĩa chuyển dịch của dịch lý hay trong thuyết tiến hóa của Darwin.

Những tư tưởng và tình tự trong dòng sông thực tại có thể ví như các loài thủy tộc, các giọt nước li ti, các loài thủy sản , rong rêu và muôn triệu vi sinh nương tựa vào dòng sông để sinh tồn và hài hòa phát triển.
Ý thức hệ giáo điều có thể được định nghĩa như một cấu trúc trí năng (an intellectual construct) giam hãm tư tưởng con người vào một khung sườn cố định và tước đi sự sống cũng như tính sáng tạo của tư tưởng tự do. Lịch sử loài người đã từng trải qua rất nhiều ý thức hệ giáo điều, nhưng hiện đại nhất của nhân loại ngày hôm nay là các ý thức hệ Mác- Lê và Hồi Giáo cực đoan.

Các ý thức hệ giáo điều này có thể ví như những cơn lạnh cực kỳ lớn lao, trùm lên dòng sông thực tại của những dân tộc dưới vòng kiềm tỏa của chúng, biến toàn thể dòng sông và những sự sống trong dòng sông thành băng tuyết. Tuy dưới mắt của một đệ tam nhân, hình ảnh của dòng sông, các loài thủy tộc và thủy sản vẫn còn, nhưng dòng sông đã mất sự sống chân thực.

Các xã hội dưới sự khống chế của các ý thức hệ giáo điều như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay đều bi đát như thế…
… Đảng CSVN cũng như tất cả các đảng cộng sản từ Âu sang Á, từ trước đến giờ, cùng với các đảng Đức Quốc Xã và Phát Xít độc tài, đều là những con quái thú, hậu quả của tiến trình định chế hóa cực đoan và ăn tươi nuốt sống nhà nước lẫn xã hội dân sự.

Nhân dân Việt Nam bất hạnh lớn lao vì hoàn cảnh lịch sử đã biến dân tộc thành nạn nhân gần một thế kỷ của cơn lạnh vĩ đại ý thức hệ giáo điều Mác Lê và con quái thú định chế cực đoan mà đảng CSVN là hiện thân trung thực…

… Nếu chúng ta hóa giải cơn lạnh ý thức hệ giáo điều, nhổ răng và móng vuốt của quái thú định chế hóa cực đoan, thì với bàn tay và khối óc được tôi luyện qua chiều dài nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt sẽ hồi sinh.

Với sự dập tắt tuyệt đối ý thức hệ giáo điều Mác Lê, với sự cáo chung của đảng CSVN như một định chế thoái hóa và lỗi thời, hằng triệu triệu đóa hoa tư tưởng tuyệt vời sẽ vươn lên từ lòng văn hóa hơn 4000 năm của dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ đạt được nhanh chóng chiều cao thực sự của mình, trong cộng đồng nhân loại văn minh”.
(Trích bài của LS Đào Tăng Dực)
*
Trích bài Vài Lời Biện Minh Cho Cô Giáo Trần Thị Lam của Phạm Đức Nhì

“Tuần vừa qua bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh được rất nhiều người đọc ở hải ngoại ca ngợi. Tôi nhận được một email cho biết đã có 6 nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ. Tôi đã nghe nhạc, đọc thơ và rất xúc động.
Tôi có người bạn làm ăn khá thành công ở Mỹ. Mấy năm gần đây về Việt Nam hùn hạp đầu tư địa ốc. Gặp tôi tháng trước nó than: “Dành dụm được chút vốn dưỡng già bị thằng em họ lừa lấy hết. Giờ lại trắng tay”. Tôi chửi nó “Mày hơn sáu chục tuổi rồi mà khờ như đứa con nít; làm ăn cứ nắm lưỡi còn để người ta nắm cán”. Vợ nó chĩa vào “Chỉ khờ mấy năm nay thôi, chứ sáu chục năm trước ông ấy khôn như rận váy”. Tôi không phân định rạch ròi như vợ người bạn nhưng tự nghĩ câu chửi của tôi chẳng có gì sai sót cả. Làm thơ thỉnh thoảng tôi cũng nhận trong người mình có dòng máu của bà Triệu, bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung để có thêm tự tin, hào khí nhưng cũng có khi tôi bước vào trận chiến đơn thân độc mã (giả vờ quên hết những nhân vật lịch sử kia) để lúc chiến thắng có thể mạnh tay vỗ ngực tự hào. Trường hợp cô giáo TTL tặng thêm 4 ngàn tuổi cho mỗi người Việt Nam để làm nổi bật sự thơ dại, yếu đuối của họ trước chính quyền, theo tôi, hoàn toàn hợp tình hợp lý. Đó là một trong những quyền căn bản của thi sĩ.

… Về hình thức, bài thơ được viết theo thể Thơ Mới trường thiên, gồm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu thường là 8 chữ nhưng khi cần cũng được thay đổi một cách tự nhiên, vần trắc liên tiếp ở câu 2 và câu 3.
Về nội dung, bài thơ có 5 đoạn nhưng hồn cốt nằm ở đoạn thứ nhất:
Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Cái “ngộ” lớn nhất là đất nước mình đã 4 nghìn tuổi mà “dân không chịu lớn”. Ở đây cô giáo đã sử dụng một ẩn dụ thật hay – ví người dân Việt nam như đứa bé chưa rời vú mẹ, vẫn còn bú mớm vì “Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Lời lẽ của đoạn thơ rất đúng, rõ ràng và trong sáng, không cần và cũng không thể giải thích gì thêm nữa. Chúng như một lưỡi dao dài và sắc đâm thẳng vào trái tim mỗi người Việt Nam. Bạn là người Việt Nam ư? Nếu có chút kiến thức, còn chút lương tri, danh dự khi đọc những dòng thơ này đều sẽ tự động cúi đầu nuốt nhục.

Cái hay, cái tài của cô giáo Trần Thị Lam là lời lẽ của cô vừa chân thật vừa nhẹ nhàng, khéo léo nên lưỡi dao của cô đâm nát tim gan của không biết bao nhiêu người - từ người dân bình thường đến đám đông tự xem mình là sĩ phu yêu nước -  nhưng họ không những không thể nào ghét cô được mà nhiều khi còn quý mến, kính trọng, cảm phục cô nữa.

Những bất công lớn trong đất nước mình được cô giáo liệt kê ở những đoạn thơ sau:
Bất Công Đến Lạ Lùng
Đất nước mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…
Cái bất công đầu tiên là “Sinh mạng con người chỉ bằng cái móng tay” nhưng người ta lại vung hàng nghìn tỉ vào những dự án, những công trình phù phiếm, không phục vụ lợi ích của người dân. Mà điều lạ là không ai nhận lãnh trách nhiệm, hậu quả về việc phí phạm tài sản chung đó.
Bất Công Đến Buồn Thảm
Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…
Tài nguyên của quốc gia cạn kiệt, một phần bị khai thác phí phạm để quan chức bỏ túi riêng, một phần lãnh đạo ngậm miệng ăn tiền để ngoại bang tự tung tự tác.

Bất Công Đến Đáng Thương
Đất nước mình thương quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…
Nợ công chồng chất trong khi giới lãnh đạo chóp bu mỗi người có tài khoản hàng trăm triệu, nhiều người hàng tỉ đô la ở ngân hàng ngoại quốc. Số nợ công to lớn ấy sau này lại đè nặng trên lưng, trên vai của con cháu chúng ta.
Đất Nước Sẽ Về Đâu?
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…
Cuối cùng là câu hỏi đau xé ruột cho mỗi người Việt Nam: “Đất nước sẽ về đâu?”

Khi đọc những đoạn sau nếu độc giả thấy dậy lên trong đầu mình một câu hỏi thì cứ quay lại đoạn đầu. Đó là phần quan trọng nhất, đoạn hay nhất của bài thơ; nó là nguyên nhân, là câu trả lời cho những câu hỏi “Tại Sao?”

… Tóm lại, ĐNMNQPKA là bài thơ rất hay. Hình thức tương đối phóng khoáng tuy không có gì mới lạ lắm. Nhưng nội dung thì không chê vào đâu được; những “bất công” (đoạn 2+3+4 hỗ trợ cho đoạn 1) được chọn lựa kỹ, có tính điển hình, ngôn ngữ chính xác mà gợi cảm, tứ thơ cô đọng, sâu sắc, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, đặc biệt phép ẩn dụ ở đoạn 1 thật tuyệt vời. Đọc xong, thi vị của bài thơ - nỗi bàng hoàng đau đớn - vẫn còn vương vấn mãi trong tâm hồn.

Có thể nói đây là bài thơ của một người Việt Nam chửi con người Việt Nam tàn tệ nhất, xúc phạm đến danh dự người Việt Nam nặng nề nhất. Điều đáng nói là hàng bao nhiêu triệu người bị chửi - đặc biệt là những người góp phần to lớn tạo ra những bất công, những trí thức khoa bảng, nhà văn nhà thơ - đều cúi mặt ngậm tăm. Tại sao vậy? Vì bài thơ chửi đã hội đủ 5 điều kiện sau đây:
1/ Chửi đúng điều đáng chửi: những kẻ bị chửi không cãi vào đâu được.
2/ Chửi “nặng” nhưng lời lẽ nhẹ nhàng, khéo léo: chửi sỗ sàng, ngoa ngắt quá thì chúng coi là đồ hạ cấp, không thèm để ý, không thèm nghe; chửi nhẹ quá thì không đủ ép – phê
3/ Chửi “đúng thời vụ”: nhân vụ xả độc ở Vũng Áng, cá chết lền khên, gây thảm họa môi trường, toàn dân Việt và cả thế giới quan tâm.
4/ Chửi bằng tấm lòng chân thật: cảm xúc dạt dào.
5/ Chửi hay: tứ thơ hay quá, ẩn dụ tuyệt vời, càng đọc, càng nghe, càng ngẫm nghĩ càng thấm
Kết Luận
Chỉ cần tứ thơ, hồn thơ thấm vào tim một phần trăm (1%) dân số Việt Nam khiến họ không thể chịu được nỗi nhục nhã ê chề, đứng lên kêu đòi thay đổi thì chúng ta sẽ có cả gần một triệu người dấn thân, tạo thành một làn sóng, một phong trào, nước Việt mến yêu của chúng ta sẽ có cơ may thoát khỏi tình trạng bi đát hiện nay. Nếu được như thế bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? sẽ hiên ngang bước vào văn học sử và cô giáo Trần Thị Lam sẽ trở thành một anh hùng lịch sử của dân tộc Việt.
Mong được như thế lắm thay!.
(Trích bài của Phạm Đức Nhì)
*
Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của Trần Thị Lam được các nhạc sĩ cảm hứng và sáng tác thành nhiều ca khúc được phổ biến trên internet. Cũng như bìa thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách của nhà nhơ Tản Đà đã được nhiều bài họa.

Bài họa của Vĩnh Đường
Hôm nay rảnh rỗi ngồi đọc lại bài thơ của cô Trần Thị Lam và nảy ý họa lại. Bài thơ này đã được khá nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và truyền bá khắp nơi. Khi họa lại, VĐ chợt nảy ý là phải họa làm sao cho mỗi chữ bằng trắc trong câu phải thật ăn khớp với nguyên tác để khi hát, người hát có thể lấy bài thơ họa này để dùng làm liên khúc với thi phẩm được phổ mà không cảm thấy trúc trắc gì khi trình diễn. Tuy nhiên, vì không hiểu biết nhạc lý và vì thời gian có hạn nên sai sót chắc chắn là không thể tránh khỏi. Mong quý độc giả và thân hữu thẳng thắn góp ý khi thấy đoạn nào không ổn để VĐ chỉnh sửa lại cho được hoàn hảo hơn. Xin chân thành đa tạ quý vị. Trân trọng. VĐ

Lãnh Đạo Mình Nhuc Quá Phải Chăng Em
“Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em
Đã ngần tuổi mà sao chưa được lớn
Đã ngần tuổi mà vẫn thèm sống mớm
Hiến cả núi sông để yên kiếp tôi đòi !
Lãnh đạo mình nhục quá phải chăng em
Những dải đất xưa vô vàn kiều vỹ
Chẳng ngại bán, đền nợ nần hàng tỉ
Dâng nạp cho Tàu chỉ qua cái ngoéo tay!

Lãnh đạo mình tồi quá phải chăng em
Bản Giốc, Hoàng Sa, thác ngà núi biếc
Giờ đã mất, nằm sõng soài như chết
Để Tiên Rồng ngùi nhớ nước non xa !

Lãnh đạo mình ngu quá phải chăng em
Mỗi tấc đất giang san chẳng nhọc nhằn ra công giữ lại
Xương máu ông cha ta ngút dài thế kỷ qua đem vun trải
Chẳng biết noi theo, toàn cam cảnh phủ đầu !

Lãnh đạo mình mà vẫn hèn thưa em
Dân ta sống muôn đời sau khó được
Khi Hán tặc kè bên, cứ vờn sau, vờn trước
E chóng chầy gì tổ quốc chẳng còn đâu!

Trả lời bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” của Cô giáo Trần Thị Lam, Hà Tĩnh của anh Lê Đức Luận ở Miền Đông Hoa Kỳ:

“Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “ngộ”
Tiến sĩ đầy đường mà đảng ta vẫn dốt
Liệt sĩ, anh hùng đếm hoài không hết
Biển, đảo mất dần chẳng biết làm sao?
Ừ! Đất nước mình có nhiều điều rất “lạ”
Biển bạc, rừng vàng dân mình vẫn khổ
“Cá chết trắng bờ bởi dân mình ra đái
Chứ phải nào đâu hóa chất của Tàu” (1)
Ừ! Đất nước mình “buồn” quá em ơi!
Biển bạc, rừng xanh dân nào được hưởng
Chúng nó bán rừng, rồi dâng luôn biển đảo
Một mai đây nước Việt sẽ không còn…
Ừ! Đất nước mình “thương” quá em ơi!
Đứa trẻ sơ sinh ăn nhằm sữa độc
Mảnh áo tả tơi, tấm thân gầy guộc
Bây giờ đã thế, sao dám nghĩ tương lai
Ừ! Em đi hỏi: “người sau, kẻ trước”
Còn anh đây sẽ đi hỏi đảng: “Cớ sự làm sao bi đát thế này?”
Em cứ hỏi: “người trước, kẻ sau”
Anh sẽ hỏi Trời cao, Đất rộng: “Đến chừng nào Đảng được đem chôn?”
Nhưng xin Em đừng hỏi: “Đất nước sẽ về đâu?…”
Mà hãy hỏi: “Khi nào ta đứng dậy?…”

(1).- Có tin đồn nói ra như vậy để làm mờ bớt tội lỗi của nhà máy luyện thép Formosa.

Bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam được đăng lên FB vào 8 giờ tối  ngày 25.4.2016. Hôm sau công an Hà Tĩnh đã mời cô giáo Lam lên trụ sở “làm việc” và ép lực cô phải rút bài thờ này xuống. Mặc dầu sau đó bài thơ bị rút xuống, nhưng đã quá trễ, bài thơ được phổ biến rộng rải khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại, và chắc chắn sẽ còn lưu lại trong lòng người Việt Nam trong một thời gian rất dài như một dấu tích của một giai đoạn đau thương nhất của đất nước VN.

Giáo viên giỏi cấp tỉnh và gắn bó với trường gần 20 năm nay. Trao đổi với VietNamNet, cô giáo Lam cho hay, đây là bài thơ được sáng tác theo cảm hứng nhất thời chứ không nhằm mục đích nào khác. Do sức ép dư luận, trong ngày 27/4, cô giáo Lam đã xóa bài thơ và tự khóa Facebook cá nhân của mình. Hiện nay, cô đã mở tài khoản trở lại.

Như đã đề cập ở trên, trước thực trạng xảy ra vụ cá chết bởi nhà máy luyện thép Formosa, người dân phẫn nộ nên biểu tình chống đối bị CSVN đàn áp thẳng tay cho thấy chế độ độc tài đảng trị chỉ biết thảm nhũng trục lợi, thối nát và hại dân!

Chúng ta sống trên mảnh đất tự do mà bỏ đi “căn cước” tỵ nạn Cộng Sản mà quay lưng với nỗi thống khổ xảy ra tại quê nhà thì “bức dư đồ rách” nầy càng ngày càng tả tơi!
Lão Trượng