Friday, August 22, 2025

CANH TẬP TÀNG (THƠ- DƯ THỊ DIỄM BUỒN/ DIỄN NGÂN BÍCH NGỌC)

 


 

CANH TẬP TÀNG

Canh Tập Tàng - Thơ Dư Thị Diễm Buồn - Diễn ngâm Bích Ngọc

DTDB

 

Em vừa bước qua hàng rào bông bụp

Mùi món ăn bay phưng phức quanh nhà

Cơm gạo nanh chồn, gió thoảng hương xa

Nhẹ len lỏi thơm lừng nồi canh ngọt

 

Đi rẩy về thím cho rau bồ ngót

Chú Ba dở chà tặng mớ cá heo

Ngọai hái mồng tơi, mấy trái dưa đèo

Lặt nắm rau dềnh, cắt thêm trái mướp

 

Bẻ bông bí rợ, đọt bầu, đọt ớt

Bắt cá rô don nấu canh tập tàng

Cơm chiều còn đậu đủa xào, tép ran

Món ăn đạm bạc đậm tình thôn xóm

 

Quê ngoại hiền hòa nuôi em khôn lớn

Đám mía đầu làng, vườn ổi cuối thôn

Đền bà Chúa Sứ, đình, miễu cô hồn

Trường học, nhà thờ, mé sông đất lỡ

 

Ở đâu đâu trong làng em đều nhớ

Từ nhà thủy tạ, lộ đá, đường mòn

Gò ông Cả Kẹo chim hót véo von

Cùng chúng bạn, thả diều trưa lộng gió

 

Làm sao quên tuổi thơ ngây thuở đó

Qua đò ngang, túi lủng mất hết tiền

Tay ôm tròn trái dưa hấu Hà Tiên

Chẻ đôi, trả công lái đò một nửa

 

Về nhà bị bà rầy liền mấy bửa

Bởi trái dưa mẹ đổi lúa làm quà

Chuối cao phơi khô, lít nếp, con gà

Tặng thầy giáo chút quà quê ăn Tết

 

Đường vào thôn, bóng chiều nghiêng chênh chếch

Qua cầu Om, xuống bãi bắt chuồn chuồn

Giáo đường ngân nga trầm bổng hồi chuông

Chiều cô thôn tịch liêu êm ả quá!

 

Chốn hải ngoại em lang thang xứ lạ

Chân trải qua khắp Mỹ, Úc, Âu Châu

Dị thảo, kỳ hoa, thành phố, đền, lầu

Dân bản xứ sang giàu và no ấm

 

Nhớ quê ngoại tận phương trời xa thẳm

Có bếp chiều lửa ấm canh tập tàng

Có gà trưa gáy rộn cuối thôn trang

Có chó sủa đêm thanh bình trăng sáng

 

Có thiếu nữ diện áo dài duyên dáng

Tặng vòng hoa cho chiến sĩ khải hoàn

Và có em tóc buông xõa mịn màng

Đêm Xuân viết thư về vùng tuyến lửa

 

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Email: dtdbuon@hotmail.com

 


VIET NAM KHỞI CÔNG 250 CÔNG TRÌNH- CƠ HỘI NÀO CHO KINH TẾ TƯ NHÂN? (GS.TS. KHƯƠNG HỮU LỘC)

 


Việt Nam khởi công 250 công trình - Cơ Hội nào cho Kinh Tế Tư Nhân?

 

https://www.youtube.com/watch?v=BDAv6qXCk3g


NGƯỜI LÍNH VÀ NGHĨA TRANG XƯA..

 

NGƯỜI LÍNH VÀ NGHĨA TRANG XƯA..


Trời tháng ba.. mưa kéo về đột ngột..

Nửa đêm mưa ..như trút mọi dỗi hờn..

Người lính trẻ..bên đường..ngồi lặng lẽ..

Nét trầm tư..che lấp khoảng hư vô..

Anh vẫn đó..giữa đêm đầy mưa gió..

Áo treilli..đẫm ướt dưới cơn mưa..

Che lấp bởi.. vạn nỗi sầu vạn cổ..

Mắt xa xăm..nhìn về cõi vô thường..

Xa lộ về đêm..trời khuya vắng lặng..

Người lính kia..bước lặng lẽ.. trên đường..

Bóng ngã dài..mưa nhỏ giọt lăn tăn..

Đôi giày bốt.. dấu bùn vương bê bết

Người lính ấy..đứng giữa trời miên viễn..

Nghĩa trang buồn.. trong vắng lặng cô đơn..

Xa xa nữa.. đồng đội nằm cô quạnh..

Anh ngậm ngùi..cùng chia sẽ anh linh..

Người lính ấy..bây giờ về đâu nhỉ ??

Nghĩa trang xưa.. còn đâu đó dấu giày..

Của mỗi đêm..anh lang thang khắp chốn..

Xa lộ vẫn còn..đâu đó..dấu chân anh..

21/3/2022

 

THIẾU PHỤ (THƠ- TRANG Y HẠ)

 THIẾU PHỤ

Thơ: Trang Y Hạ

 


Xe rươm-rướm mồ hôi trèo dốc dựng

dốc Dăk-Tô lởm-chởm đá xanh phơi

trưa dồn nắng, nắng pha màu đỏ chói

trời trong xanh trực-thăng liệng khoe trời.

Chợ triền núi siêng năng bày mấy sạp

trạm xe Lam vài chiếc ngó ngó mông

người đi chợ trở về tay xách nhẹ

Khu-Gia-Binh đứa đứa trẻ ẵm bồng.

Mắt lô-cốt đen thui bờ rào kẽm

bông cỏ tranh hớn-hở nở ra chưng

loài rắn mối dòm thông-hào công-sự

xe nhà binh cắm cúi chạy không ngừng.

Thấp thoáng bóng thiên-thần vờn qua cổng

cổng Chi-Khu một thoáng đẹp hẳn ra

tiên nữ đội, đội mũ hình Thập-Đỏ

khúc bi-ai thiếu-phụ nước mắt nhòa.

Đêm đãi lạnh, chêm thêm mùi sương muối

(chuột đi tìm - bịch gạo sấy, cá khô…!)

dò dẫm đụng, mìn “claymore” ngờ-ngợ

chiến-trường đi thây nào biết mả mồ.

Người thiếu-phụ, Khu-Gia-Binh lẳng-lặng

mừng chồng về ủ-rũ tiễn chồng đi

điệp-khúc xoáy đau lòng đau dao cắt

phấn son nào điểm nhan-sắc nhu mì.

Anh lính trẻ ôm đờn dạo dạo khúc

Biệt-Kinh-Kỳ (thích) Kẻ-Ở-Miền-Xa

mòng muỗi vắt ghì bước chân người lính

có ước mơ mơ mắt biếc tay ngà.

Chấm tọa-độ, đụng Yếu-Khu Tân-Cảnh

ngang ngã ba Thánh-Giá, Hí-Viện im

thèm bia rượu sãi chân vô vô quán

người trăm năm căng mắt biết đâu tìm.

Bầy pháo ngự dãy Ngọc-Linh nhả khói

lớp người trai tụ đỉnh, đỉnh mây bay

hồn mong mỏi quy về nơi cố-thổ

khói nhang thơm mẹ ấp-ủ đêm ngày.

Vốc vài ngụm sông Pơ-Kô tanh-tưởi

Phượng-Hoàng bay phi-đạo đứng bơ-vơ

tuổi mười tám oằn thân phơi chiến-địa

sông một dòng nước xót vỗ đôi bờ.

Mưa nhỏ giọt tỉ-tê bùn đỏ quạnh

sơn nữ gùi gió núi bước xa xăm

mưa rỉ-rả thú rừng nằm khó ngủ

nguyệt thương trăng lạnh-lẽo bỏ đêm rằm.

Xe hồng-hộc mồ hôi ghì dốc dựng

sữa cạn bầu thiếu-phụ dỗ con thơ

từng đóm mắt hỏa châu sâu đôi mắt

chập chờn đêm thắc-thỏm trắng đêm chờ.

 

Trang Y Hạ - DakTo, 1971.

Bài thơ đã được cô nghệ sĩ Mộng Thu Ngâm Thơ trình bày!

Xin ACM vô YouTube để thưởng thức:

https://www.youtube.com/watch?v=8ZEf6ofTYN4&t=471s

 

Lời Gió Mưa:

(Trích trong Truyện ngắn: “Sóng Sau Xô Sóng Trước”).

“Thơ là hơi thở của cuộc sống, thiếu thơ con người sẽ mất chỗ dựa để giải bày với bản thân, với thiên nhiên, với con người, và với lịch sử... Thơ gắn liền cuộc sống như vậy nên thơ cũng phải trải qua bao thăng trầm bởi nhiều nguyên do. Từ đó dòng thơ mỗi thời, mỗi thế hệ đều có khác biệt. Ngày nay là thời đại công nghệ kỹ thuật “internet”, chỉ mở máy ra là đã nghe: - giọng nói, thấy hình ảnh người (yêu, thương) từ khắp năm châu bốn bể... Hẹn hò thư từ qua lại bằng: - “email, tin nhắn” quá dễ dàng, cộng với đủ các loại phương tiện đi lại... Thời đại công nghệ, nhịp sống của từng con người, xã hội - vội vã, hối hả, gấp gáp, thực tế, thực dụng - thời gian là vàng, là ngọc - không thể ngồi đó mà làm thơ - than thân trách phận, hờn giận cuộc đời, không dám dấn thân và cầu tiến.

 

Tại sao lớp trẻ chúng tôi ngày nay ít đọc thơ, thậm chí không thèm ngó ngàng tới thơ! Lý do là, Thơ: “CẢI CÁCH, BIẾN THỂ VÔ TRẬT TỰ”, Ngôn ngữ thơ: Sơ sài, Đơn giản, Đơn điệu, Trần trụi. Nội dung nói mông lung, không chủ đích, tệ hơn nữa lại xài thứ chữ quái đản, dị hợm, sai mạo từ và sai văn phạm..”.

“Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát.”. (Trần Phước Hân).

 

“Đất nước bị diệt vong còn có thể phục hưng, văn hóa (chữ viết) bị tiêu huỷ thì tất cả bị tiêu diệt và nô lệ”.

(Tổng Thống Đài Loan, Tưởng Giới Thạch).

Trang Y Hạ


CHIẾC BA GÁC Ở BẾN XE MIỀN TÂY (NGUYỄN KIÊN)

 CHIẾC BA GÁC Ở BẾN XE MIỀN TÂY

Nguyễn Kiên

Khoá 59 đoàn viên HQ

Nắng mùa Hè rát mặt, lẫn vào cái ồn ào hỗn độn của bến xe Miền Tây. Mùi mồ hôi, dầu nhớt, và khói xe hòa với tiếng rao hàng, tiếng còi inh ỏi, tiếng người gọi nhau như mắc cạn giữa một dòng đời khốn khó. Nơi đây, ai cũng như ai – đều đang vật lộn để sống còn.

Hùng ngồi trên chiếc xe ba gác của mình, lưng áo bạc màu với những vòng mồ hôi lõm đốm, vai áo rách một đường nhỏ nhưng chưa kịp vá. Chân mang đôi dép được khâu lại bằng những cọng kẽm rỉ sét. Mắt anh nhìn mông lung như nhớ về một việc gì như xa xôi lắm.

Hôm đó sáng ngày 30 tháng tư, anh đang phục vụ trên chiếc PCF. Tàu anh đang cập bến âm thầm bên khu Khánh Hội. Tất cả nhân viên cùng lên bờ kể cả sĩ quan thuyền trưởng để về nhà đưa gia đình xuống tàu chạy đi. Riêng anh tình nguyện ở lại tàu vì gia đình anh ở tận Cần Thơ. Đến gần nửa đêm thì tất cả gia đình nhân viên mới xuống tàu đầy đủ. Anh cho tàu chạy đi hướng cửa biển Vũng Tàu, đến sáng mới ra được cửa biển. May là chiến hạm HQ 502 đang trôi lềnh bềnh nơi đó, anh cập vào tất cả leo lên, chỉ mình anh ở lại định lái tàu về Cần Thơ tìm gia đình. Nhưng anh bị chận lại dọc đường và bị bắt.

Anh là hạ sĩ quan Hải quân VNCH, từng phục vụ ở vùng 3 duyên Hải. Sau ngày tháng Tư, anh bị bắt và đi học tập “ngắn hạn”, thực ra là mấy tháng đói rét ở trại cải tạo tận Long Khánh. Trở về, chẳng còn gì – không nhà, người thân đã di tản. Anh ở lại Sài Gòn chờ cơ hội vượt biên, anh xin được chiếc ba gác cũ vô chủ, sửa chữa lại rồi ra bến xe kiếm sống bằng cách chở thuê cho người ta. Sáng đi, chiều về ngủ gác tạm trong căn nhà trọ tối tăm trong một hẻm nhỏ ở Chợ Lớn.

Chiều hôm đó, khi nắng còn hắt le lói qua mái hiên ngả bóng, Hùng đang ngồi lơ đãng trên xe thì nghe tiếng bước chân chạy rầm rập phía sau. Rồi bất ngờ, một cô gái lao tới, không nói một lời, nhảy tọt lên xe anh, kéo trùm bao bố lên người luôn cả đầu, chỉ kịp thở gấp:

– Làm ơn… chạy đi… công an rượt tới…

Rồi cô cởi áo đang mặc nhét vào bụng, bên trong là một áo khác màu để tránh công an.

Chưa kịp nghĩ ngợi, bản năng khiến Hùng đạp mạnh chân, chiếc ba gác rầm rì lăn bánh về phía đường cái.

Mới được vài chục mét thì hai anh công an chặn đầu xe, hét lớn:

– Dừng lại! Kiểm tra!

Hùng thắng lại, tim đập thình thịch. Một người trèo lên xe, lấy chân đá nhẹ cái bao bố.

– Cái gì đây?

Từ trong bao ló đầu ra, giọng con gái yếu ớt vang lên, như sắp khóc:

– Em… em là vợ ảnh… có bầu, mệt quá nên nằm nghỉ…

Cô vén bao bố, lộ ra gương mặt tái xanh và đôi mắt long lanh nước. Công an liếc cô, liếc Hùng:

– Vợ ông hả?

Hùng gật, cố cười:

– Dạ, nhà em ở Thủ Đức, bả đi theo phụ em, thình lình thì mệt, kêu em chở về…

Hai ông công an nhìn nhau rồi lắc đầu:

– Kỳ này tha, chớ mấy người giấu hàng cấm kiểu này tụi tôi bắt suốt. Lần sau nhớ cẩn thận!

Họ đi. Cô gái ngồi dậy, chỉnh lại áo, mồ hôi lấm tấm trên trán. Cô lôi trong bụng ra một bao ni lông giấu ra sau lưng.

– Em cảm ơn… không có anh chắc giờ em bị bắt mất rồi.

– Ừ… mà cô buôn gì vậy?

– Thịt heo… – cô nói, thở dài – Ở quê đem lên Sài Gòn bán lại, chớ không thì đói.

– Nguy hiểm quá. Sao không làm gì khác?

– Không còn gì để làm, anh à.

Từ hôm đó, cô gái – tên Mai – thỉnh thoảng lại xuất hiện ở bến xe. Lúc thì gửi vài ký thịt, lúc thì xin đi nhờ đoạn đường. Cô nói trước tháng 4 1975 cô đang đi học, thì gia đình bị nạn. Đạn pháo kích giết cả gia đình, cô nhờ ở trọ đi học nên mới sống sót.

Lâu dần, hai người thân nhau lúc nào không hay. Mai có nụ cười rất hiền, dáng nhỏ nhắn mà lanh lợi. Cô hay nhăn mặt nói:

– Cái anh này, nhìn lạnh lùng vậy chớ tốt bụng dữ lắm nghe!

Còn Hùng thì chẳng nói nhiều, nhưng ai thấy anh chở Mai thì biết ánh mắt anh không giống chở người thuê nữa. Anh bắt đầu đem xe tới chỗ Mai sớm hơn, thi thoảng còn ghé qua đưa cho cô ổ bánh mì, ly cà phê. Mai ngồi sau xe, tóc bay lòa xòa, giọng líu lo kể chuyện xưa, chuyện nay như chim sẻ ríu rít.

Một chiều trời đổ mưa lớn, Hùng chở Mai về khu nhà trọ. Cô ngồi nép sát lưng anh, lạnh run, áo mỏng dính nước. Trước cửa nhà, cô níu tay anh, khẽ nói:

– Bữa đó em nói dối, em là vợ anh…. Nhưng giờ… nếu em nói thiệt, thì anh có ….

Hùng nhìn cô. Không gian như chùng lại. Mưa lộp độp trên mái tôn, ngoài kia xe cộ vẫn xuôi ngược, nhưng trong khoảnh khắc ấy, anh thấy lòng mình ấm lại, y như chiếc áo khoát Hải hành cũ còn thơm mùi biển mặn năm xưa. Anh không trả lời, chỉ đưa tay vuốt nhẹ tóc Mai. Cô đứng yên, rưng rưng.

Rồi họ về sống chung với nhau. Không đám cưới, không tiệc tùng, chỉ một mâm cơm nhỏ mời mấy người bạn cùng xóm trọ. Họ gọi nhau là “vợ chồng” từ hôm đó. Mai thôi buôn lậu, phụ Hùng đi mua ve chai, chở hàng. Chiếc ba gác cũ được lau rửa mỗi tuần, Hùng còn viết dòng chữ bằng sơn trắng: “Xe Hùng Mai – vợ chồng chở hàng rẻ, vui vẻ, không chém”.

Nhiều năm sau, đời vẫn khó, nhưng họ có nhau. Mai sinh được một đứa con gái, đặt tên là Thu Hằng. Mỗi lần kể chuyện xưa, Mai hay đùa:

– Nhờ chiếc bao bố đó mà má con thoát nạn, chớ không giờ con đâu có mặt trên đời!

Ba mươi năm trôi qua. Bến xe Miền Tây thay đổi, người đổi xe máy, kẽ đổi xe tải. Nhưng, chiếc ba gác cũ vẫn lặng lẽ mỗi sáng lăn bánh, với ông Hùng râu bạc và bà Mai ngồi phía sau, tay ôm giỏ rau, thi thoảng huýt gió nghêu ngao mấy câu bolero thời chinh chiến.

Một sáng mùa đông năm nọ, người ta không thấy chiếc ba gác đâu. Hỏi thăm thì biết, bà Mai bệnh nặng, nằm viện lâu ngày. Ông Hùng thôi chạy xe, ngồi suốt bên giường bệnh. Bà Mai gầy đi, mắt lờ đờ, nhưng tay vẫn nắm chặt tay chồng.

– Anh nhớ không… hôm đó… em chui bao bố… anh cứu em…

– Nhớ chớ. – Hùng cười, nghẹn ngào – Rồi em còn nói em có bầu…

– Em nói dối, mà cả đời… em chỉ mong cái dối đó thành thiệt.

Mai mất vào một chiều mưa. Trời Sài Gòn mưa dai như năm nào. Hùng ngồi lặng bên mộ vợ, tay cầm bó hoa dại cô từng thích, miệng lẩm bẩm:

– Mai à… nhờ em mà anh sống những tháng ngày hạnh phúc. Nhờ lời nói dối đó, mà anh tin đời còn thương người như mình…

Người ta tưng bừng ăn mừng 50 năm giải phóng. Bến xe vẫn nhộn nhịp vẫn đông người. Nắng vẫn gắt. Người ta vẫn mưu sinh như cũ. Nhưng nếu ai để ý, sẽ thấy có một ông già tóc bạc, lâu lâu vẫn ngồi trên chiếc ba gác cũ, ngó về phía cổng bến xe, như đợi ai.

Đợi một người đã từng chui bao bố… và bước vào đời anh, bằng một lời nói dối đẹp hơn cả sự thật.

Tháng 6, 2025

Nguyễn Kiên


Thursday, August 21, 2025

CHUYỆN ĐỜI XƯA (THƠ- THƯƠNG TỬ TÂM)

 



CHUYỆN ĐỜI XƯA

Trên dòng sông nầy mưa đã xuống
Chảy quanh co xuôi ngược đời nhau
Sao người không chờ như hoa đợi
Nở đón vầng trăng hẹn kiếp nào

Trên con đường nầy căn nhà đó
Vú sữa mấy mùa rụng vàng sân
Trong ta cũng mấy mùa lá dỗ
Và mãi mưa dầm mưa quanh năm

Mười năm cô giáo đi dạy học
Mười năm ta lưu lạc phong Trần
Tích xưa kể lại chàng đã khóc
Ngày về Đại Ngãi Cữu Long Giang

Mười năm cô giáo đi dạy học
Sao chẳng dạy nhau giữ đời nhau
Bây giờ cô giáo thôi dạy học
Cuộc tình còn như chuyện đời xưa.


NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN DẶT CHÂN ĐẾN HOA KỲ (HỌC GIẢ- NGUYỄN HIẾN LÊ)

 

NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN DẶT CHÂN ĐẾN HOA KỲ

 


Tác gỉa : học gỉa Nguyễn Hiến Lê.

 

Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn sách "con đường thiên lý" (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.

 

Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).

Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

 

Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

 

Trong cuốn sách La Rueé Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

 

Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

 

Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

 

Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

 

Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

 

Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

 

Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông.

 

Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

 

Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

 

Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

 

Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.

 

Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandìere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần". Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: "Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế".

 

Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19.

 

(Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)