Tuesday, September 30, 2025

NGÀY EM SANG NGANG (PH)

 


Ngày Em Sang Ngang

 

Em sang ngang gió mây hờn

Lòng anh buốt nhói quay cuồng mối tơ

Từ em hồn quyện vào thơ

Khiến anh chao đảo vật vờ mộng du

 

Chông chênh lạc giữa sương mù

Trăng ơi xin gửi thiên thu nỗi buồn

Sao trời nhấp nháy lệ tuôn

Tình sâu suối trải trọn nguồn sầu đau.

 

Từ tay nhỏ giọt máu đào

Rưng rưng dòng nhạc dạt dào nhớ thương

Chúc em hạnh phúc miên trường

Còn ta rừng núi sa trường kiếm cung...

NHỚ MẸ HIỀN (THƠ- TRẦN CÔNG LÃO MÃ SƠN)

 


NHỚ MẸ HIỀN

TRẦN CÔNG LÃO MÃ SƠN

 

Nhớ thương Mẹ lắm, Mẹ hiền ơi

Mẹ đã xa con mãi mãi rồi

Đã mấy mươi năm con mất Mẹ

Mà lòng thương nhớ vẫn không nguôi.

 

Mẹ đã đưa con đến với đời

Khổ công dưỡng dục mới nên người

Đến ngày ly loạn con xa Mẹ

Không gặp được nhau nói một lời.

 

Ngày Mẹ bước lên tàu thiên cổ

Con đang lưu lạc ở quê người

Con không có mặt đưa tiễn Mẹ

Đau lòng con lắm Mẹ hiền ơi !!!

 

Nuôi con nhờ lúc Mẹ về già

Đến lúc Mẹ già con bỏ đi

Tích cốc phòng cơ, cơ bất cốc

Dưỡng nhi đãi lão, lão vô nhi .

 

Hương lòng bốc khói tận trời xanh

Tưởng nhớ công ơn đấng sanh thành

Đã lỡ kiếp này, con bất hiếu

Xin nguyền đáp nghĩa kiếp lai sinh.

 

Trần Công Lão Mã Sơn

MÁU VÀ HOA (LÊ ĐÌNH QUANG)

 

MÁU VÀ HOA



 

(Truyện ngắn)

Tôi là Lê Đình Quang, biệt danh Long Hồ – sĩ quan binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, người con của xứ Huế, xuất thân từ Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Tôi chưa lập gia đình, nhưng đã có người yêu.

Nếu ai hỏi tại sao tôi yêu cuộc đời chinh chiến – yêu như chính bản thân mình – thì tôi xin thưa:

Tôi yêu quê hương đất nước, yêu Huế, yêu Mạ hiền, yêu Băng Thanh – cô nữ sinh Đồng Khánh năm nào, người con gái có đôi mắt buồn như mùa thu xứ Huế.

Tôi lớn lên bên tiếng chuông chùa Thiên Mụ, dưới những hàng phượng tím ven sông Hương, và trong lời ru ngọt như mía lùi của Mạ mỗi đêm mùa đông. Mỗi khi nhớ lại, tôi thấy tim mình ấm như có ngọn lửa nhỏ thắp trong đêm mưa Huế. Tôi yêu Huế như yêu chính dòng máu đang chảy trong tim mình.

Có người từng hỏi tôi:

– “Sao lại yêu đời lính? Sao lại chọn con đường súng đạn?”

Tôi không trả lời bằng triết lý, cũng chẳng viện dẫn lý tưởng cao siêu. Tôi chỉ khẽ đáp:

“Vì tôi yêu quê hương này. Yêu tự do. Yêu Mạ hiền. Yêu Băng Thanh. Và tôi không muốn những gì tôi yêu thương bị đánh mất.”

Mỗi lần nghĩ đến Băng Thanh, tôi lại thấy ánh mắt nàng buồn như một vầng mây tím mắc cạn trên sông Hương. Tôi thường lúng túng nhìn xuống, sợ bắt gặp ánh mắt ấy, sợ trái tim mình mềm yếu trước chiến tranh chưa biết ngày về.

---

Chiến trường Quảng Trị 1972, trong sử gọi là "Mùa Hè Đỏ Lửa", với tôi – đó là mùa hè của máu, mồ hôi và lời vĩnh biệt.

Phần lớn 81 ngày đêm ấy, chúng tôi không ở trong Thành cổ, mà chiến đấu ở ngoại vi – các làng xã bị đạn xé toạc, những ngôi nhà chỉ còn nền móng, khu chợ, trường học, bệnh viện – từng góc phố, từng bụi rậm đều có thể có địch.

Có những mái ngói đỏ vỡ tung, tường loang lổ máu khô, gió thổi qua làm văng ra những mảnh vữa rơi lộp độp. Tôi nhìn đám đổ nát ấy, chợt thấy như chính ký ức của người dân cũng bị bứng khỏi đất.

Cổ Thành Quảng Trị là một khối vuông mỗi chiều hơn 500 mét, phía sau là sông Thạch Hãn, ba hướng còn lại – Bắc, Đông, Nam – là nơi giao tranh ác liệt nhất. Chúng tôi đánh để đừng cho địch vào trong thành. Có tới tám tiểu đoàn tham chiến, nên nếu tất cả dồn vào bên trong thì chỉ cần một lượt B-52 rải thảm là sạch. Bởi vậy, trận chiến chủ yếu diễn ra ngoài thành cổ, là cuộc chiến của từng bước chân, từng bụi cỏ, từng đoạn đường đầy xác người.

Từ ngày 27 tháng 7, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến chúng tôi thay thế Sư đoàn Nhảy Dù, đảm nhiệm tiếp tục chiến dịch tái chiếm Thị xã và Cổ Thành Quảng Trị.

Ban đầu, chúng tôi tưởng tượng việc “tái chiếm” sẽ là một đòn thần tốc. Nhưng không. Đó là từng trận đánh giáp lá cà, từng ổ kháng cự như găm chặt vào thịt da thành phố. Từng ngôi nhà bị chiếm lại, rồi lại mất. Có nơi chúng tôi phải đánh đi đánh lại ba lần chỉ để chiếm một khu chợ – nơi địch núp dưới hầm sâu, đào thông ra cả dãy phố.

Tiếng pháo nổ suốt ngày đêm. Cả thị xã lúc nào cũng trong trạng thái lúc nhúc lửa khói, như một cái nồi đang sôi. Địch đào địa đạo, dùng bẫy mìn, cài lựu đạn lẫn trong xác chết. Có đêm, bạn tôi vấp phải xác người, té xuống – thì xác ấy phát nổ. Là xác giả, nhồi thuốc nổ bên trong.

Tôi thấy rùng mình, không biết mình còn phân biệt nổi đâu là người, đâu là bẫy nữa. Chúng tôi bắt đầu nghiến răng bước đi không cúi đầu nữa. Vì cúi xuống cũng có thể chết.

---

Ngọc – bạn thân tôi – chết ngay trong một trận đánh như thế.

Đó là ở khu bệnh viện cũ – từng dãy tường loang máu, mùi tử khí nồng nặc. Ngọc vừa mở cửa phòng cấp cứu, vừa quay lại nói nhỏ: “Coi chừng bên trái…” thì một loạt đạn xé tới. Cậu gục xuống, ngực thấm đỏ.

Tôi ôm cậu trong tay, nghe cậu thều thào:

“Quang… Mạ tao… nhớ báo cho Mạ tao biết...”

Tôi gật. Tôi không khóc. Nhưng đêm ấy, cổ họng tôi như bị nhét đầy khói súng, muốn hét mà không thành tiếng. Tôi chỉ biết siết chặt tay bạn, sợ nếu buông ra thì Ngọc sẽ trôi tuột vào cõi khác. Đêm ấy, tôi không ngủ được. Tôi viết tên Ngọc vào mũ sắt của mình. Có lẽ để nhớ, hoặc để xin cậu che chở tôi khỏi viên đạn tới sau này.

---

Từ ngày 10 tháng 9, các đợt thăm dò vào Cổ Thành bắt đầu. Chúng tôi phát hiện bên trong vẫn còn những đơn vị Bắc quân trụ lại. Đêm 12 rạng sáng 13, Tiểu đoàn 3 và 6 TQLC đột nhập thành, mở đường máu vào giữa lòng pháo kích.

Lúc này, địch đã kiệt quệ hoàn toàn. Nhiều người trốn trong hầm lâu ngày không ăn, người run rẩy, có người ngất vì đói. Có người bò ra khỏi hầm, giơ tay xin đầu hàng và… xin ăn. Nỗi đau là ở chỗ: họ không còn là chiến binh. Họ là những đứa trẻ đi lính. Không tìm được đường rút qua sông, họ ở lại và… chờ chết.

---

Sáng 15 tháng 9, đơn vị tôi – Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến – đánh vào Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Một trung tâm chỉ huy của Bắc quân. Cuộc đánh không kéo dài – chỉ trong buổi sáng, chúng tôi làm chủ hoàn toàn, bắt sống gần 20 tù binh.

Chúng tôi chia thuốc men, băng bông, cả lương khô cho họ. Vì có những người bị thương đến không ngồi dậy được, mà không có ai băng bó cho.

Trong số đó, tôi gặp Nam.

Nam gầy đến mức áo quần rũ xuống như mặc đồ của người lớn. Gò má nhô cao, cánh tay khẳng khiu, nhưng đôi mắt… đôi mắt ấy sáng như sao trời. Nam không xin tha. Chỉ cúi đầu khi tôi chìa nước và mảnh bánh.

Tôi đưa cho em một điếu thuốc. Em đón nhận bằng hai tay. Châm lửa xong, em run run rít một hơi dài, mắt nhắm lại, gương mặt hốc hác giãn ra như tìm được chút hơi người giữa bãi tha ma. Rồi em khẽ nói:

“Cảm ơn anh… Em tưởng tụi em bị bắn hết rồi…”

Tôi thoáng rùng mình. Không hiểu sao lại có cảm tình với em đến vậy. Có thể vì em quá trẻ. Có thể vì em gọi tôi là “anh”. Có thể vì giữa đống đổ nát máu lửa ấy, một đứa lính Bắc Việt lại vẫn còn giữ được sự tử tế. Tôi nghĩ: nếu không mặc màu áo khác, có lẽ em đã là học trò trong lớp của Băng Thanh, hay đứa em trai hàng xóm tôi từng cho mượn tập vở.

---

Tôi đã sống sót trở về sau trận chiến ấy. Sau 81 ngày đêm không có ngày nào trọn vẹn. Tôi về lại Huế. Mạ ôm tôi khóc, mái tóc bạc xõa lên vai áo trận sờn rách, tay run run, miệng cứ gọi hoài hai chữ:

“Con ơi…”

Mùi nước mắt của Mạ hòa lẫn với mùi mồ hôi và khói thuốc súng còn vương trên áo tôi, khiến lòng tôi nghẹn lại.

Băng Thanh đến nhà, mang theo một bó hoa trắng. Nàng cầm tay tôi, nắm nhẹ:

“Em mừng… anh còn sống trở về.”

Đôi mắt nàng ướt, long lanh như có cả trời mưa Huế dồn vào đó.

Chúng tôi cưới nhau năm sau đó. Dù tháng Tư 1975 kéo cả quê hương vào một khúc quanh khác, dù chúng tôi phải bỏ lại tất cả để đến Mỹ với hai bàn tay trắng, nhưng tình yêu – cũng như nhân phẩm – không bao giờ rời bỏ chúng tôi.

Chúng tôi đã có con, và tôi đã dạy con mình rằng:

“Đừng bao giờ xem kẻ thù là quỷ. Vì nếu con làm thế, con sẽ đánh mất phần người của chính mình.”

Mỗi lần nói, tôi thường ngừng lại, để khoảng trống ấy như một phút mặc niệm cho những người đã khuất.

---

Đã năm mươi năm trôi qua.

Tôi nhớ Ngọc, nhớ những bạn bè đã nằm lại nơi đó. Tôi nhớ Bệnh viện, Chợ, Trường học, nơi người ta từng đến để sống – giờ trở thành chốn chết.

Tôi cũng nhớ ánh mắt Nam – người lính Bắc Việt trẻ tuổi – người từng là “kẻ thù” nhưng đã nhắc tôi rằng:

Trong chiến tranh, nếu mình đánh mất lòng người, thì mình đã thua rồi, bất kể thắng trận.

---

Giờ này Nam đang ở đâu? Có còn sống không? Em có còn nhớ người sĩ quan đã cho em nửa mẩu bánh và một điếu thuốc ngày hôm đó?

Tôi không cần biết em sống ở miền nào, đi theo chế độ nào. Tôi chỉ mong em vẫn sống. Và sống như một con người, không bị ai bắt phải căm thù thêm lần nữa.

Vì nếu chiến tranh là máu...

Thì hòa bình – nhất định – phải là hoa.

 

---

HẾT

---

Có những câu chuyện không phải để phán xét, mà để lắng nghe. Không phải để xác định ai đúng, ai sai, mà để hiểu con người đã sống, đã đau, đã yêu thương như thế nào trong cơn bão lửa của thời đại mình.

“Máu và Hoa” là một truyện ngắn như thế.

Tác phẩm được viết từ góc nhìn của một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa, người từng trực tiếp tham gia trận chiến Quảng Trị mùa hè 1972 – một trong những chương khốc liệt nhất của cuộc chiến Việt Nam. Nhưng vượt lên trên khói đạn, truyện không chỉ kể về súng và máu, mà còn kể về một tình yêu chưa kịp thành hình, một tình đồng đội vừa gọi tên đã hóa thiên thu, và một ánh mắt người lính phía bên kia khiến nhân tính bật sáng giữa địa ngục trần gian.

Truyện không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh – từng chi tiết, từng xác người, từng cái chết rất thật. Nhưng cũng chính trong hiện thực ấy, tác giả đã giữ lại cho mình – và cho người đọc – một đóa hoa: lòng nhân hậu, sự bao dung, niềm tin rằng con người có thể vượt qua chia rẽ nếu còn giữ lại được sự tử tế.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ mùa hè đỏ lửa ấy.

Ngày nay, khi đất nước đã thống nhất, nhưng lòng người vẫn còn ngổn ngang những lớp bụi lịch sử, “Máu và Hoa” không đến để khơi gợi hận thù. Trái lại, nó góp một tiếng nói chân thành vào hành trình làm lành vết thương dân tộc. Nó không đại diện cho tất cả sự thật, nhưng là một phần sự thật – phần sự thật cần được kể lại bằng trái tim, không phải bằng khẩu hiệu.

Vì nếu chiến tranh là máu, thì hòa bình, rốt cuộc, phải là hoa.

 

---

CHÚ THÍCH VỀ QUAN ĐIỂM

(Ghi chú của tác giả Lê Quang Thanh Tâm)

Chiến tranh – dù đã đi qua hơn nửa thế kỷ – vẫn để lại những vết thương sâu đậm trong lòng dân tộc. Những vết thương ấy không nên bị đào xới để oán hận, mà cần được nhìn lại để hiểu – với tinh thần nhân bản và khách quan.

Truyện ngắn này là một lát cắt nhỏ, một hồi ức chân thực từ góc nhìn của một người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – người đã trực tiếp tham gia chiến dịch Quảng Trị 1972. Những gì được kể ra trong truyện là cảm nhận, ký ức và tâm tình từ một người trong cuộc – không nhằm tô hồng hay bôi đen bất kỳ phe nào.

Chống chỉ định:

* Không nên đọc với tâm thế cực đoan, chỉ để xác lập “ai đúng – ai sai”.

* Không dùng truyện để quy kết, chụp mũ, hay áp đặt quan điểm chính trị một chiều.

* Không xem đây là đại diện cho toàn bộ sự thật lịch sử – mà là một phần của nó.

Hướng dẫn sử dụng:

* Đọc với lòng trắc ẩn của con người dành cho con người.

* Đọc để hiểu thêm một góc nhìn – từ bên kia chiến tuyến mà có khi chính chúng ta chưa từng lắng nghe.

* Đọc để đi đến điều cần đi đến nhất: hòa giải – chứ không phải hòa tan, tha thứ – chứ không phải lãng quên.

Lịch sử không thuộc về riêng ai. Và sự thật – muốn đầy đủ – phải được kể từ nhiều phía. Đây là một trong số đó.

@nêu bật

#Truyenngan #Truyen #Mauvahoa #Quangtri

Monday, September 29, 2025

FBI ĐIỀU 274 ĐẶC VỤ ĐẾN ĐIỆN CAPITAL TRONG SỰ KIỆN NGÀY 6 THÁNG GIÊNG (NATHAN WORCESTER)

 


FBI điều 274 đặc vụ đến Điện Capitol trong sự kiện 6/1

Nathan Worcester

Nathan Worcester

9/26/2025|Updated: 9/26/2025

Những chi tiết này đến từ một báo cáo “hậu hành động” của FBI ghi lại việc triển khai lực lượng.

Theo báo cáo này, FBI đã điều hàng trăm đặc vụ tới Điện Capitol Hoa Kỳ và các địa điểm lân cận vào ngày 6/1/2021. Báo cáo cũng bao gồm nhiều khiếu nại về “thiên vị chính trị” bên trong FBI.

Trang Just the news công bố tài liệu này ngày 26/9. Cùng ngày, giám đốc FBI Kash Patel đã lên tiếng ủng hộ bài tường thuật của trang tin trực tuyến đó.
“Lý do duy nhất các bạn có câu trả lời là vì chúng tôi đang tìm kiếm và công bố tài liệu phơi bày tham nhũng ở mức kỷ lục,” Patel viết trên X , đáp lại một bài đăng dẫn đường link bài báo của nhà báo John Solomon.

Báo cáo nêu rõ 274 đặc vụ đã được điều tới nhiều địa điểm ở Washington ngày 6/1, bao gồm Điện Capitol và khuôn viên xung quanh, khi các cuộc biểu tình leo thang thành vụ đột nhập tòa nhà.

Một số trong 274 đặc vụ này là những người đã ứng phó với chiếc xe tải đỏ đậu gần Capitol có chứa linh kiện làm bom xăng, theo tài liệu. Số khác điều tra các quả bom ống đặt tại trụ sở Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa và Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ — cả hai đều gần khu phức hợp Capitol.

Một báo cáo tháng 12/2024 của Văn phòng Tổng Thanh tra (OIG) Bộ Tư pháp cho biết chưa tìm thấy bằng chứng “cho thấy hay gợi ý rằng FBI có nhân viên hoạt động bí mật trong các đám đông biểu tình hay tại Capitol ngày 6/1.”

Tuy nhiên, OIG có ghi nhận 26 “nguồn tin bí mật” (confidential human sources) có mặt tại Washington ngày 6/1, trong đó có ba người vào trong Điện Capitol. Báo cáo cũng nêu FBI “triển khai hàng trăm đặc vụ và nhân viên đến Điện Capitol và khu vực lân cận.”

Kết luận của OIG có thể phù hợp với báo cáo hậu hành động nếu các đặc vụ trong báo cáo không phải là nhân viên chìm. Tuy vậy, họ có thể là cảnh sát mặc thường phục.

Lo ngại thiên vị chính trị

Báo cáo còn ghi nhận nhiều quan ngại của các đặc vụ về điều họ coi là thiên vị chính trị trong cơ quan. Christopher Wray là giám đốc FBI lúc đó.

“FBI cần nói rõ với nhân viên và công chúng rằng, bất chấp thiên vị chính trị rõ rệt, cơ quan cuối cùng vẫn coi trọng nhiệm vụ và ưu tiên của mình. Cơ quan phải điều tra tội phạm một cách bình đẳng và quyết liệt, không phân biệt chủng tộc, đảng phái hay động cơ; và phải bảo vệ mọi người Mỹ bình đẳng và quyết liệt như nhau,” một bình luận ẩn danh viết.

Một bình luận ẩn danh khác nhắm vào văn phòng hiện trường Washington của FBI, mô tả đó là “một văn phòng vô vọng, quan tâm đến việc đeo khẩu trang và tuyển dụng nhóm chủng tộc/giới tính ưu tiên hơn là bắt tội phạm thực sự.”

Bình luận thứ ba kêu gọi FBI “phải thực sự trung lập về chính trị,” viết rằng cơ quan “cần xử lý mọi tội phạm một cách công bằng dù từ phe trái hay phải, và mục tiêu cuối cùng phải đến từ sự liêm chính của nền Cộng hòa của chúng ta.”

“Cội nguồn của điều đó là một hệ thống bầu cử minh bạch. Hiện nay không phải vậy,” bình luận tiếp.

Nhiều bình luận so sánh phản ứng của FBI ngày 6/1 với phản ứng trong các cuộc biểu tình và bạo loạn mùa hè 2020.

“Các đặc vụ đứng nhìn ở Washington, D.C. và chứng kiến các cửa hàng bị cướp phá, đốt cháy và tước đoạt mọi thứ có giá trị,” một bình luận nêu.

Một người khác cảnh báo rằng “phản ứng của FBI với vụ bạo loạn tại Capitol nặng mùi thiên vị chính trị.”

Một số bình luận phàn nàn về giao tiếp kém, trang bị không đầy đủ, và huấn luyện thiếu thốn.

Dân biểu Barry Loudermilk (Cộng hòa–Georgia), chủ tịch tiểu ban đặc biệt mới của Hạ viện về 6/1, viết trên X rằng báo cáo hậu hành động “nghiêm trọng hơn bất kỳ ai tưởng tượng, và mở ra nhiều câu hỏi hơn nữa.”
Một thành viên khác của tiểu ban, Dân biểu Morgan Griffith (Cộng hòa–Virginia),  
Viết trên X  : “Chúng tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho sự thật đầy đủ và minh bạch hoàn toàn.”