Thursday, November 13, 2025

TỐNG BIỆT HÀNH - KHÚC BIỆT LY KIÊU BẠC (TẢN MẠN - HOÀI NGUYỄN)

 

Tống biệt hành – Khúc biệt ly kiêu bạc...

 


Tản mạn – Hoài Nguyễn

------------------------------

Thời còn học Trung học Đệ Nhất cấp, bọn học trò chúng tôi vẫn thường hay thích trích dẫn những đoạn thơ tiền chiến yêu thích của thi sĩ như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên... đọc được tại Thư viện Trường trong “Việt Nam Thi nhân Tiền chiến” của Hoài Thanh - Hoài Chân chép vào bìa phía trong của những cuốn sách giáo khoa để sau đó thỉnh thoảng lại đọc nghêu ngao!

 

Có bài thơ tương đối dài của Thâm Tâm mà thời ấy, ban đầu bọn chúng tôi cứ cho là thi sĩ đã nói lên tâm trạng của một anh chàng có người yêu “sang sông” để đi lấy chồng nên truyền miệng nhau đọc, chỉ thuộc có bốn câu:

“Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”

 

Đến sau này khi lên Đệ Nhị cấp và qua các sách báo, chúng tôi mới “vỡ lẽ” ra đây là một phần trong bài “Tống biệt hành”, một bài thơ để tả cảnh tiễn biệt một người bạn đi xa của Thâm Tâm sáng tác từ năm 1940 chứ chẳng phải nói lên cảnh buồn bã của đôi lứa phải chia tay như “Tôi đưa em sang sông”!

 

Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình (1917–1950) quê quán tại Hải Dương, là một nhà thơ thời tiền chiến xuất thân trong một gia đình nhà giáo, thuở nhỏ học tại Hà Nội.

Từ năm 1938, Thâm Tâm từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn, viết kịch và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ...

Thâm Tâm làm thơ ít, sinh thời ông chưa in được tập thơ riêng nào như các nhà thơ tiền chiến khác và số bài thơ bây giờ tập hợp được chỉ độ vài ba chục và mới được in sau này vào năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.

Thơ Thâm Tâm được người đời nhớ mãi như những bài “Tống biệt hành”, 3 bài thơ “Gửi TT.Kh, Màu máu Tigon, Dang dở” là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho “thi sĩ bí ẩn” TT.Kh. trong năm 1940. Trong các “bài thơ Tigon”, ông tự nhận là người tình cũ của TT.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là TT.Kh. Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là giai thoại văn học chứ vẫn không ai biết chính xác là như thế nào!

Tuy vậy Thâm Tâm lại nổi tiếng với bài thơ “Tống biệt hành”, với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất cao, có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...

 

“Tống Biệt Hành” xuất hiện năm 1940 trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, sau đó được tuyển chọn vào sách Việt Nam Thi nhân Tiền chiến của Hoài Thanh - Hoài Chân, được xếp trong tuyển chọn năm mươi bài thơ trữ tình tiêu biểu của mười thế kỷ thơ ca Việt Nam.

Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình một dửng dưng...

.

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí nhớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong!

Ta biết người buồn chiều hôm trước:

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay:

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

.

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi,

Em thà coi như hơi rượu say.

.

Bài thơ này khi đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy có nội dung chừng ấy nhưng khi được tuyển chọn vào sách Việt Nam Thi nhân Tiền chiến lại in thêm một khổ thơ nữa ở cuối như sau mà có tài liệu cho rằng Thâm Tâm đã lược bỏ!

Mây thu đầu núi, gió lên trăng

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.

Ly khách ven trời nghe muốn khóc,

Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm.

 

Phân tích về hình thức và nội dung thì “Tống biệt hành” được Thâm Tâm là theo lối “hành” có nghĩa như một khúc hát, lời ca, một thể thơ cổ điển có nguồn gốc bên Trung Hoa.

Còn nội dung thì rất rõ ràng, đó là khúc ca tiễn biệt một người ra đi vì nghĩa lớn...

Bài thơ với hai câu mở đầu, khiến nhiều người (cả bọn học trò chúng tôi thời ấy) cứ ngộ nhận đây là một bài thơ buồn vì “đưa người yêu sang sông!”:

“Đưa người, ta không đưa qua sông.

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?...”

Nhưng khi đọc thêm những câu tiếp theo thì người đọc có thể liên tưởng đến câu chuyện Kinh Kha, người nước Tề, thời Chiến quốc. Kinh Kha vốn là kiếm khách nổi tiếng. Khi Tần sắp đem quân uy hiếp nước Yên, thái tử Đan nước Yên kết bạn và có nhờ Kinh Kha sang Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng nhằm ngăn chận ý đồ thôn tính nước Yên. Việc hành thích Tần Thủy Hoàng của Kinh Kha không thành và bị đâm chết giữa cung điện Tần. Nhưng câu chuyện về Kinh Kha thì sống mãi trong cuộc đời và văn chương...

Hình ảnh tiễn đưa Kinh Kha sang Tần vì “đại cục” bên bờ sông Dịch và Kinh Kha hát hai câu mà người đời gọi là “Dịch thủy ca” (Bài ca sông Dịch) khi từ biệt Cao Tiệm Ly, tỏ rõ quyết tâm của mình:

Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,

Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.

(Gió vi vu, sông Dịch lạnh,

Tráng sĩ một đi không trở về).

 

Với những dòng thơ đặc tả tâm trạng, thái độ của người ra đi cũng như người ở lại, Thâm Tâm đã khắc họa nên hình tượng “ly khách” với một vẻ đẹp quen thuộc của mẫu người hùng của văn chương cổ điển. Suốt bài thơ, tuy tác giả không hề đề cập đến ngọn nguồn nào đã khiến người tráng sĩ lên đường... song ai cũng hiểu rằng đây chính là hình bóng của Kinh Kha giã biệt người thân, qua sông Dịch, sang Tần làm thích khách. Đọc hết bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được ý thơ này để yêu mến, trân trọng một ước vọng, một mơ mộng với nét đẹp hào hùng của người tráng sĩ quyết ra đi dẫu có hy sinh cũng vì đại nghĩa.

Bài thơ ra đời vào năm 1940 trong bối cảnh Thế giới đang diễn ra chiến tranh Thế giới thứ hai và xã hội Việt Nam có nhiều đảng phái, phong trào cách mạng hoạt động sôi nổi hy vọng với tình hình nước Pháp đang bị Đức Quốc xã chiếm đóng, nhà cầm quyền thuộc địa sẽ bị suy yếu và cơ hội dấn thân cứu quốc của lớp người trẻ lên đường làm cách mạng giải phóng dân tộc đã thấm sâu vào những tầng lớp văn nghệ sĩ thời bấy giờ...

 

Trong bài “Tống biệt hành” người đọc thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ, điệu thơ gấp, lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại, uyển chuyển ủy mị như phần nhiều thơ theo trường phái lãng mạn thời bấy giờ, nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.

“Tống biệt” hay chuyện chia ly là chuyện muôn thuở, đề tài quen thuộc của văn chương. Nhưng với Thâm Tâm, “chuyện tống biệt” chừng như theo một ẩn ý khác!

Người ra đi trong “Tống biệt hành” không mang vẻ tầm thường của những cuộc chia ly vì tình cảm, vì cơm áo mà phảng phất có một lý tưởng hoài bão vì nghiệp lớn có phần gần gũi với hình ảnh của những “chinh phu” trong thơ cổ!

 

Thời xưa phương tiện giao thông chủ yếu của người dân quê là chiếc thuyền đò nên dòng sông, bến đò vẫn là địa điểm của những cuộc tiễn biệt. Con sông còn như một ranh giới, một vành đai bao phủ và che chở mỗi vùng làng mạc. Mỗi người, khi qua sông luôn mang tâm trạng khắc khoải khi rời bỏ quê hương cùng gia đình và người thân của họ. Hình ảnh dòng sông, con thuyền đò đi vào tiềm thức mỗi người như một biểu tượng của giã biệt, xa cách. Qua bên kia sông đã là một cuộc đời khác, một “thế giới” khác rồi!

Trong “Tống biệt hành” người đọc dễ dàng nhận ra có hai nhân vật là “người đi - kẻ tiễn” không rõ cụ thể trên dòng sông bến đò nào và người ra đi mang một “chí nhớn” nên kiêu bạc lên đường giã biệt những người thân trong gia đình một cách “dửng dưng”!

Đó cũng chính là tâm trạng của những lớp thanh niên thời ấy can đảm rời xa mái ấm gia đình dấn thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi họa mất nước và trong bao lớp người đó có cả nhà thơ Thâm Tâm sau này lên đường tham gia kháng chiến chống Pháp và mất trên núi rừng Cao Bắc Lạng năm 1950 khi tuổi đời còn quá trẻ (33 tuổi)

 

Những lớp người trẻ tuổi nhất là trí thức thành thị thời ấy khi lên đường làm cách mạng luôn mang tâm trạng của một Kinh Kha, một đi không trở lại nhưng trong “Tống biệt hành” thì Thâm Tâm ra đi không vì nông nổi mà có một lý tưởng và rất hào sảng khi tuyên bố “Chí nhớn chưa về bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại...” cho chúng thấy tính lạc quan của người ra đi vì nghĩa lớn!

Tuy vậy cũng có lúc tâm trạng người ra đi bị lay lắt vì tình cảm gia đình, của mẹ, của chị, của em níu kéo .... nhưng cuối cùng “Ly khách” dứt khoát thể hiện tâm hồn rắn rỏi, mãnh liệt, nhưng đượm vẻ chua chát và bi phẫn:

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi,

Em thà coi như hơi rượu say.

 

Một chiều hạ mưa ngồi đọc, nghe lại Hoàng Oanh diễn ngâm và Khánh Ly trình bày “Tống biệt hành” do Trầm Tử Thiêng phổ nhạc, tôi có một chút bâng khuâng khi nhớ lại một quãng đời đã qua cũng đã trên 40 năm cũng từng là một “Ly khách” rời xa nhà cũng chẳng phải vì “chí nhớn” gì mà chỉ làm bổn phận công dân của thời ấy nhưng khi trở về thì chỉ với “bàn tay không”! Nghe mà thoáng buồn cho một “tráng sĩ lỡ vận thì...”

Đọc “Tống biệt hành” có lẽ chúng ta bây giờ cũng như lũ học chúng tôi ngày xưa chỉ còn đọng lại khổ mở đầu bài thơ của Thâm Tâm vì nó mông lung quá, mơ hồ quá và có thể “vận” vào những trường hợp của từng tâm hồn riêng biệt!

“Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”

 

Kể từ khi “Tống biệt hành” ra đời đến nay đã trên 70 năm, mặc dù ngày nay nhiều nhà thơ cũng có những thi phẩm nói về chuyện ly biệt, cũng mang “sắc màu Kinh Kha” đầy lãng mạn cũng không kém phần bi tráng, kiêu hùng nhưng không ai có thể phủ nhận sức sống kỳ diệu của bài thơ “Tống biệt hành” này...

 

Hoài Nguyễn - 19/5/2018

No comments: