NGUYỄN MINH HỰU
BÀI 1 & 2
NgMHuu biên soạn
dựa theo nhiều sử liệu nằm rải rác trong nhiều sách sử và tài liệu khác nhau.
(Sưu tập này gồm 8
bài, mỗi lần đăng 2 bài, trong số 14 bài sưu khảo).
Được gọi là “Góc Khuất của Lịch Sử” vì
những biến cố hay sử liệu được nêu ra trong loạt bài này được rất ít người biết tới hoặc nếu
có biết thì chắc cũng chỉ đại cương chứ không đi sâu vào chi tiết.
Trong loạt bài này, chữ
"nước Trung Hoa" và "người Hoa" được dùng (đã có từ trước
tại Miền Nam trước 30 tháng 4, 1975) thay vì chữ "Trung Quốc" và
"người Trung Quốc" mới có sau này.
(1 of
8) Một Nghi Vấn Lịch Sử trong thời Hai Bà Trưng
Nước ta từ thời các vua Hùng đến đời nhà Trần chưa hề có một quyền sử ký nào. Mãi đến triều đại nhà Trần (1225-1400) vua Trần Thái Tông mới sai Hàn Lâm Đaị Học Sĩ Lê Văn Hưu sưu tầm, sao chép để thực hiện bộ "Đại Việt Sử Ký" đầu tiên cho nước ta, hoàn thành vào năm 1272 dưới thời vua Trần Thánh Tông.
Sử liệu dùng để thực hiện bộ sử nầy gồm việc thu thập những truyền thuyết trong dân gian, cóp nhặt những trang triều chính ít ỏi khắc trên gỗ hoặc ghi trên giấy của những triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê (Lê Đại Hành), Ly', và đặc biệt là dựa theo các bộ sử như “Hậu Hán Thư” của Phạm Việp, “Thủy Kinh Chú” của Lịch Đạo Nguyên và “Sử Ký” của Tư Mã Thiên (đều viết bằng chữ Hán) của Trung Hoa.
Đến đời nhà Hậu Lê, quan Ngự Sử Ngô Sỹ Liên hiệu đính lại Đại Việt Sử Ký, thêm vào nhiều chương mục và đổi tên quyền sử này của Lê Văn Hưu thành "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư".
Dựa theo bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ấy và bộ Việt Nam Sử Lược của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim, tất cả các sách Việt Sử dành cho học đường của nước ta từ xưa đến nay đều ghi chồng Bà Trưng Trắc tên là Thi Sách, nhưng không phải như vậy.
Tôi nhớ hồi còn đi học Trung Học tôi có đọc một bài tiểu luận của giáo sư Nguyễn Phương, rằng chồng Bà Trưng Trắc tên là THI chứ không phải là THI SÁCH. Ấy là do sự sai lầm trong cách đọc chữ Hán (do chữ Hán không có cách ngắt câu nên nhiều chữ đọc dính vào nhau gây nên nhầm lẫn). Tôi xin sưu tầm và đưa lên đây để chia sẻ cùng Quý Vị và các bạn.
Vào thế kỷ thứ VI, Lịch Đạo Nguyên, đã đi sang đất Việt cổ, đến thăm vùng Mê Linh. Khi trở về Trung Hoa, ông viết sách Thủy Kinh Chú (nghiên cứu về các dòng sông) trong đó ông có đề cập đến chuyện Hai Bà Trưng và viết như sau (phiên âm Việt Ngữ theo cách phát âm Hán-Việt và thêm vào dấu chấm và phẩy cho câu văn rõ nghĩa): “… Châu Diên Lạc tướng tử, danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ tử, danh Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tậu nhập Cẩm Khê…” (Nghĩa là: Con trai của Lạc tướng Châu Diên tên là Thi, hỏi (sách) con gái Lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. (Bà) Trắc là người can đảm, cùng (ông) Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem đánh, (ông, bà) Trắc & Thi chạy vào Cẩm Khê…”. Nguyên tác chữ Hán không hề có dấu ngắt câu và được đọc liên tục).
Chữ "sách" có nghĩa là "hỏi" hay
"cưới" chứ không phải là cái tên
nhưng bộ Đại Việt Sử Ký dựa vào Hậu Hán Thư (mà phần ghi chép cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng thì từ Thủy Kinh Chú) và đọc dính hai chữ
"Thi" và "sách" lại với nhau thành cái tên ghép là
"Thi Sách" vì cách viết chữ Hán ngày xưa không có dấu ngắt câu.
* * *
* * * * * * * * * * * *
(2 of 8) Chữ Nôm
"Gươm" trên thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn
Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn của thời Xuân Thu (chữ
Hán “Việt Vương Câu Tiễn”: 越王句踐 trị vì từ năm 496 trước Công Nguyên đến năm 465 trước
Công Nguyên, đọc “Đông Chu Liệt Quốc” thì rõ) nằm ở vùng Tô Châu, Hàng Châu,
Thượng Hải ngày nay, không thuộc vào bộ
tộc Bách Việt sinh sống ở các tỉnh cực Nam Trung Hoa và nước Văn Lang của ta
ngày xưa. Thế nhưng cái điều lạ lùng là trên thanh kiếm của Việt
Vương Câu Tiễn lại có chữ "gươm" đó là danh từ chữ Nôm chỉ loại binh
khí chủ lực của thời trước mà người Trung Hoa gọi là "kiếm" chứ không
hề gọi là "gươm".
Trong Hán văn, người ta luôn luôn dùng chữ "kiếm" chứ không
bao giờ thấy có chữ "gươm" chẳng hạn như trong các bộ phim Trung Hoa:
"Nhất Kiếm
Diệt Quần Ma", "Đồ Long đao, Ỷ Thiên Kiếm", "Hoa Sơn Luận Kiếm", "Uyên
Ương Kiếm",
v.v...
Trong văn chương chữ Nôm, chữ "gươm" xuất hiện khắp nơi, chẳng
hạn như:
"Chín tầng gươm báu trao
tay...." (Chinh Phụ Ngâm Khúc)
hay "Thước gươm đã quyết,
chẳng dung giặc trời...." (Chinh
Phụ Ngâm Khúc),
"Gươm đàn nửa gánh, non
sông một chèo...." (Truyện Kiều),
v.v......
Trích: “Mùa đông năm 1965, tại một
con mương gần hồ chứa nước Chương Hà thuộc thành phố Kinh Môn, tỉnh Hồ Bắc,
người dân đã phát hiện ra một thanh kiếm bằng đồng thiếc.
Khi rút kiếm ra khỏi vỏ, thân kiếm vẫn sáng
loáng, không hề bị gỉ, lưỡi sắc ngọt, cắt đứt dễ dàng hơn 20 lớp giấy. Các nhà
nghiên cứu khẳng định đây chính là thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn.” (Hết
trích )(trích từ
http://vietbao.vn/The-gioi/Bi-mat-ve-thanh-kiem-cua-Viet-Vuong-Cau-Tien/70045071/159/).
Trên thanh gươm ấy có khắc hàng chữ 越王鳩淺自乍用劍 (Việt Vương Câu-Tiễn Tự
Tác Dụng Kiếm) (Chữ "Gươm" nguyên thủy trên thanh gươm được
viết lại thành "kiếm" trong ngôn ngữ Trung Hoa và được trình bày trên
sách báo Hoa ngữ) nghĩa là thanh kiếm
do Việt Vương Câu Tiễn tự làm để dùng (trong cuộc chiến phục thù của Câu Tiễn
đã đánh tan được nước Ngô và bắt được rồi giết chết Ngô Vương là Phù Sai, tháng
11 năm 473 trước Công Nguyên).
Chữ "Kiếm" trong lời diễn dịch của sách báo Hoa ngữ ghi trên đây
là chữ "kiếm" 劍 được dùng từ trước đến giờ trong Hoa ngữ. Thế
nhưng chữ "kiếm" được khắc trên thanh gươm của Việt Vương Câu Tiễn lại là chữ 'gươm"
của chữ
Nôm ta. Thế mới lạ lùng.

Hán văn của Đặng
Trần Côn: Cửu trùng án kiếm khởi đương
tịch 九 重 按 劍 起 當 席
dùng chữ
"kiếm" 劍 trong Hán Văn
(Hoa ngữ xưa nay).
Diễn Nôm (của Phan
Huy Ích): Chín tầng gươm báu trao tay �� 吝 鎌 宝 �� ��
dùng chữ "gươm" 鎌 trong
chữ Nôm của ta, giống y chang chữ khắc trên thanh gươm của Việt Vương Câu Tiễn
từ thời năm 496 trước Công Nguyên mà người Trung Hoa và văn chương Trung Hoa
không hề dùng.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(Còn nữa--Kỳ sau tiếp)
No comments:
Post a Comment