BÀI 3 & 4
3 of 8) Tại sao Quang Trung Hoàng Đế băng hà ở tuổi
39?
Cái chết của Quang Trung
Hoàng Đế xảy ra khi Ngài ở tuổi 39 (1753 – 1792) nhằm vào một ngày mùa thu,
tháng 8 năm Nhâm Tý (1792), sau khi lên ngôi Hoàng đế được 5 năm. Nếu Ngài chỉ
cần sống thêm 5 năm nữa thôi, thì đất nước chúng ta đã hoàn toàn khác hẳn bây
giờ. Vì lúc ấy Quang Trung Hoàng Đế (QTHĐ) đang chuẩn bị lực lượng tổng tấn
công liên minh Nguyễn Ánh và Pháp, đồng thời yêu sách với vua Càn Long triều
Mãn Thanh để lấy hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa sát nhập vào
Đại Việt.
QTHĐ là một thiên tài quân
sự, có tài ba và đảm lược giống như Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ của thế kỷ 13,
khi mà Mông Cổ chỉ là một nước có dân số rất ít ỏi, lại sống rải rác trong vùng
đại mạc hoang vu, sỏi đá, khô cằn; thế mà ông ấy đã thiết lập nên một đế quốc
rộng lớn nhất thế giới tự cổ chí kim, trải dài từ Á sang Âu. Thế thì ta vẫn tin
chắc rằng QTHĐ sẽ đại thắng Nguyễn Ánh và thâu tóm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng
Tây của Trung Hoa, nếu Ngài chỉ cần sống thêm được 5 năm nữa là đại công cáo
thành.
Âu cũng là số trời, mệnh nước
bắt dân tộc ta phải mất đi một đấng anh hùng. Phải chăng dân tộc ta phải trả
cái quả báo cho cuộc tiêu diệt dân tộc Chiêm Thành???!!!.
Theo chính sử nhà Nguyễn
(sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" (Quốc Sử Quán triều Nguyễn),
hoàng đế Quang Trung chết vì một chứng bệnh kỳ bí, bắt đầu từ một cơn đột quỵ,
khiến ông rơi vào trạng thái hôn mê nhiều ngày. Chứng bệnh này được sử gia nhà
Nguyễn giải thích như sự trừng phạt của thần thánh dành cho việc quân đội của
ông đã xâm phạm các tôn lăng của chúa Nguyễn khi chiếm thành Phú Xuân (Huế).
Thế nhưng đây chỉ là quyển sử
được viết bởi những công bộc của nhà Nguyễn, nên không có gì làm tin, ngoài việc
QTHĐ bị đột quỵ rồi hôn mê bất tỉnh nhiều ngày và băng hà đúng như nhiều sử gia
khác đã viết. Ấy rất có thể là do chứng nghẽn hay đứt mạch máu não
(stroke) mà cho đến bây giờ với nền y học tiến bộ vượt bực cũng chịu bó tay.
Ngày nay nếu may mắn có thể cứu sống được thì bệnh nhân cũng bị bại xụi hay mất
trí nhớ. Ấy là Thiên mệnh rồi.
Thế nhưng có nhiều sử gia
khác nghi rằng cái chết của Ngài là do vua Càn Long của Mãn Thanh sắp đăt. Sau
khi QTHĐ từ chối cống nộp vàng mà còn yêu sách rất cao ngạo là đòi vua Càn Long
giao hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây cho Đại Viêt. Vua Càn Long rất căm tức
nhưng vẫn làm mặt hòa hoãn vì biết Hoàng Đế Quang Trung muốn dùng sự từ chối ấy
của Càn Long để khởi binh Bắc phạt rồi chiếm đất. Càn Long gửi tặng vua Quang
Trung một chiếc cẩm bào mà vua Quang Trung thường mặc trong những buổi lâm
triều. Có thể vua Quang Trung đã mất cảnh giác, mặc cẩm bào ấy nhiều lần nên
chất độc tẩm trong áo đã ngấm vào da thịt và hít thở vào phổi đã khiến nhà vua
tử vong. Điều này khiến ta có thể suy nghĩ giả thiết ấy là đúng vì bấy
giờ Càn Long rất tức giận vua Quang Trung mà tại sao lại ưu ái tặng cho Ngài
chiếc áo cẩm bào quý giá kia?
Tiếc rằng hài cốt của Vua
Quang Trung không còn để các khoa học gia ngày nay có thể khai quật và khám
nghiệm từ những mảnh xương để có thể tìm ra sự kiện có hay không có chứng tích
của chất độc trong xương cốt của Ngài. Vì sau khi toàn thắng nhà Tây Sơn, vua
Gia Long cho quật mồ anh em Tây Sơn, lấy xương nghiền nát, trộn với thuốc súng
rồi nạp vào súng thần công (giống như các khẩu "Thần Oai Phá Địch Đại
Tướng Quân" còn lưu giữ bên cạnh các lăng Tẩm nhà Nguyễn ở Huế) mà bắn
xuống sông. Xương sọ của 3 anh em Tây Sơn thì bị vua Gia Long sai đem về để cho
các quần thần và quân lính hàng ngày đi tiểu lên đó, rồi sau cùng đập nát ném
đi. Do đó cái chết của Quang Trung Hoàng Đế ở tuổi 39 mãi mãi vẫn là một nghi
án lịch sử.
Tượng Quang Trung Hoàng Đế
Thần
Oai Phá Địch Đại Tướng Quân:
* * * * * * * * * * * * * *
(4 of 8) Tại sao họ Nguyễn chiếm đến 30% dân Việt ?
Rất nhiều người giải thích rằng trong thời nhà Nguyễn các vua có rất nhiều vợ và có rất nhiều con. Do đó họ Nguyễn sau nầy chiếm đại đa số.
Sự giải thích này rất phiến diện nếu không nói là
sai lầm. Vì lẽ tổng số vài chục người con của các vua nhà Nguyễn, sinh ra vài trăm cháu, không thể nâng con số họ Nguyễn lên đến 30% như bây giờ.
Có người lại giải thích rằng khi vua Gia Long lên ngôi, ông ép nhiều người cải họ sang họ Nguyễn. Đây
là điều phỏng đoán vô căn cứ vì lúc bấy giờ họ Nguyễn đã có quá nhiều trong dân gian từ lâu rồi (kể cả trong chi tiết mang số 4 tôi nêu ra dưới đây) thì đâu cần gì mà vua Gia Long phải ép ai đổi họ, và để làm gì ? có lợi gì ?, rõ ràng không có cơ sở lý luận.
Gom nhặt các sự kiện ghi rải rác trong các bộ Việt Sử như "Việt Nam Sử Lược" của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim, "Việt Nam Văn Học Sử Yếu" của Giáo Sư Dương Quảng Hàm, "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" của Lê Văn Hưu được Ngô Sĩ Liên hiệu đính (được dịch ra Việt ngữ từ nguyên bản viết bằng Hán Văn), "Việt Sử Tân Biên" của Phạm Văn Sơn (1958), thì những biến cố tóm lược sau đây đã đưa đến sự kiện là họ Nguyễn chiếm đại đa số (30%) trong tổng số dân Việt ngày nay, như sau.
1. Sau khi Trần Thủ Độ soán ngôi nhà Lý và đưa cháu của mình là Trần Cảnh mới 7 tuổi lên làm vua (Trần Thái Tông), Trần Thủ Độ giết sạch con cháu nhà Lý một cách dã man. Để trừ mối nguy nhà Lý phục hưng, Độ ra lệnh cho dân chúng ai có họ Lý thì phải đổi sang họ Nguyễn. Sử không ghi lý do tại sao là họ Nguyễn mà không là các họ khác.
2. Khi Hồ Quý Ly (ông ấy trước có họ Lê, sau đổi thành họ Hồ) lật đổ nhà Trần, ông ta đã giết rất nhiều con cháu của dòng họ Trần. Vì thế, sau khi nhà Hồ sụp đổ, con cháu của họ Hồ vì sợ trả thù nên tất cả đã đổi sang họ Nguyễn. (Sao không là họ khác mà lại thích họ Nguyễn? Không biết !!!)
3. Khi nhà Mạc suy tàn, con
cháu của dòng họ Mạc cũng lại đổi họ sang Nguyễn. (Sao không là họ khác mà cũng lại thích họ Nguyễn? Không biết !!!)
4. Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, rất đông dân chúng miền Bắc (Đàng Ngoài) di cư vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn sinh cơ lập nghiệp. Để tưởng nhớ công ơn của Chúa Nguyễn, đa số người dân bấy giờ đổi họ sang họ Nguyễn. (Ngay cả anh em Tây Sơn cũng đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ có tên trước khi đổi họ là Hồ Thơm).
5. Khi triều đại nhà Nguyễn nắm quyền từ năm 1802, một số con cháu của họ Trịnh cũng vì sợ bị trả thù nên lần lượt đổi họ sang Nguyễn, số còn lại trốn lên Bắc sang Trung Quốc. (Sao không là họ khác mà cũng lại thích họ Nguyễn? Không biết !!!)
6. Trong triều đại nhà Nguyễn, những người mang họ Nguyễn được hưởng nhiều đặc ân, được triều đình ban thưởng. Họ Nguyễn bấy giờ là biểu tượng của vinh quang cho nên nhiều người có họ khác cũng đổi sang họ Nguyễn để được hưởng ké sự quang vinh đó.
Đó là 6 nguyên do đưa đến kết quả là họ Nguyễn chiếm đến 30% tổng số dân tộc Việt Nam ngày nay.
# # # # # # # # # # # # #
# # # # # # # # # # # # #
Phần nói về dòng họ Nguyễn Phước của nhà Nguyễn
(Nguồn tham khảo:
Trong dòng họ Nguyễn Phước của nhà Nguyễn, chữ chỉ họ được dùng theo hệ phái nhà Nguyễn do vua Mình Mạng đặt ra. Ví dụ vua Tự Đức tên là Nguyễn Phước Hồng Nhậm, vua Hiệp Hòa tên là Hồng Dật, vua Hàm Nghi tên là Ưng Lịch, vua Đồng Khánh tên là Ưng Kỷ, vua Thành Thái tên là Bửu Lân, vua Duy Tân tên là Vĩnh San, vua Khải Định tên là Bửu Đảo, Vua Bảo Đại tên là Vĩnh Thụy, v.v.... và ngày nay ta thường thấy họ Vĩnh, họ Bửu, họ Quý, v.v.... lấy họ theo hệ phái của Nguyễn Phước tộc.
Vua Minh Mạng đã nghĩ ra nhiều cách để duy trì đế nghiệp của mình và con cháu kế tục lâu dài về sau. Trong đó có một cách mang đậm sắc thái văn hóa, tâm lý xã
hội. Đó là cách đặt
tên kép. Nghĩa là bên cạnh tên chính, phải ghép thêm một tên phía trước theo phân định bắt buộc để biết vị trí, thứ lớp của mình trong hàng ngũ của hoàng tộc (ví dụ tên của vua Bảo Đại là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, v.v...) theo phổ hệ sau đây:
Bài Đế Hệ Thi của vua Minh Mạng (Đọc từ trên xuống dưới, từ phải qua trái theo lối chữ Hán,):
MIÊN HƯỜNG ƯNG
BỬU VĨNH
BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG
HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT
THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG
BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG
HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT
THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG
- MIÊN: Trường cửu phước duyên trên hết
- HỒNG: Oai hùng đúc kết thế gia
- ƯNG: Nên danh xây dựng sơn hà
- BỬU: Bối báu lợi tha quần chún
- VĨNH: Bền chí hùng anh ca tụng
- BẢO: Ôm lòng khí dũng bình sanh
- QUÝ: Cao sanh vinh hạnh công thành
- ĐỊNH: Tiên quyết thi hành oanh liệt
- LONG: Vương tướng rồng tiên nối nghiệp
- TRƯỜNG: Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi
- HIỀN: Tài đức phúc ấm sáng soi
- NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi
- KHAM: Đảm đương mọi cơ cấu giỏi
- KẾ: Hoạch sách mây khói cân phân
- THUẬT: Biên chép lời đúng ý dân
- THẾ: Mãi thọ cận thân gia tộc
- THỌAI: Ngọc quý tha hồ phước lộc
- QUỐC: Dân phục nằm gốc giang san
- GIA: Muôn nhà Nguyễn vẫn huy hoàng
- XƯƠNG: Phồn thịnh bình an thiên hạ.
Bài Đế hệ thi được
khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách), cất trong hòm vàng
(kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên hệ thi cũng
được khắc trong các cuốn sách bằng bạc. Có tư liệu cho rằng tới thời Vua
Tự Ðức, chúng đã bị nấu ra để trả nợ chiến phí bốn triệu
đồng cho Pháp và Tây Ban Nha theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Không ai biết sự thật ra sao vì đến ngày Ngài Bảo
Ðại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này đã biến
mất.
No comments:
Post a Comment