ĐÔI DÉP LÀO CỦA THẦY LÊ THÍ
TRƯƠNG CÔNG HẢI
(Thân gởi các em lớp A8 Trần Phú)
Tàn cuộc chiến, Lê Thí cũng như bao bạn bè trang lứa ở miền Nam đều phải đánh cược số phận mình theo một dòng bị trôi giữa đôi bờ chân lý của cuộc đời. Niềm hãnh diện về danh xưng là giáo sư trung học của một thời, nay được dùng lại dưới màu áo kỹ sư tâm hồn, nhà giáo không những vui vì được lưu dung mà còn phải lo vá víu lại cuộc đời mình theo những ô đã kẻ sẵn trong tờ tem phiếu. Là Thầy dạy Sử, ngoài những biên khảo về lịch sử địa phương, Thí còn làm thơ và viết truyện ngắn. Xin giới thiệu đến bạn đọc một truyện ngắn tiêu biểu để hoài niệm về một thời mà câu nói đùa: “ Thầy giáo tháo giàygiáo chức dứt cháo”, thấm thía hơn bao giờ hết.
ĐÔI DÉP LÀO CỦA THẦY LÊ THÍ
Khoảng đầu thập niên 1980, đời sống của người Thầy giáo cực kỳ
khó khăn, tôi phải đi xe đạp thồ kiếm thêm tiền mua sữa cho con. Cứ
mỗi 5 giờ sáng là ra đứng đầu đường Hoàng Diệu Đà Nẵng để chờ khách, khi trời vừa
rựng sáng, lại bỏ đường Hoàng Diệu vì đây là nơi gần trường đang dạy sợ dễ bị gặp
học trò nên đổi xuống đường Lý Tự Trọng hoặc Trần Cao Vân dễ có khách
hơn. Có khách hay không thì cứ đến 10g30 cũng phải quay về nấu cơm
trưa để còn lên lớp xuất chiều. Một sáng nọ, đang gò lưng trên đường
Trần Cao Vân về nhà chuẩn bị đi dạy, chợt có một bà cụ dáng ở quê ra đứng đón
xe. Vừa mừng vừa lo, mừng vì được một cuốc xe có thêm tiền, lo vì sợ lỡ khách
đi xa, về trễ cơm không kịp giờ dạy.
Tôi dừng xe rồi hỏi: Cụ đi mô. “”
Bà bảo “ Đây xuống bến xe
Vĩnh Trung mi lấy mấy?. ”
Thấy tuyến đi trùng với lộ
trình về nhà nên tôi nói: “Đúng giá là một đồng rưỡi, còn chừ cụ cho mấy cũng
được, con đang trên đường về nhà mà.”
Bà cụ cười giơ hàm răng
toàn... lợi và nói: “Thằng ni đi xe thồ mà nói nghe vui hỉ!”
Nói xong bà cụ cúi xuống cầm đôi dép Lào đã mòn gót, cụ bỏ
đôi dép vào giỏ xe và nói:
“ Xuống bến xe mi nhớ nhắc tau lấy đôi dép ni, chớ không phải mi
đợi tau quên rồi lấy luôn nghe chưa!”
Tôi cười: “Cụ yên tâm, con không mang dép bằng tay nên không lấy
đôi ni mô!”
Lên xe,chuyện qua chuyện lại mới biết bà ở Điện Bàn ra mang cho
con trai đang làm công nhân ở cảng một ang gạo, vì nghe nói gạo tiêu chuẩn ăn
không đủ, còn bà thì biết tôi là thầy giáo cấp 3 đi xe ôm ngoài giờ để kiếm
thêm tiền mua sữa cho con .
Một chặp, tôi nghe bà ngồi sau chép miệng: “ Răng ai cũng khổ hết
trơn ri hè! ”
Đến bến xe Vĩnh Trung, tôi quay lại dặn bà : “Cụ ngồi im, đừng
lo, để con tìm xe Vĩnh Điện cho cụ đi.”
Tìm được xe đi Vĩnh Điện, tôi dừng lại, cám cảnh cám người,
tôi liền nói với cụ:
“Cụ nhớ lấy đôi dép, con
chở hộ cụ một đoạn thôi không lấy tiền.”
Bà liền giãy nãy: “Thằng ni nói nghe được, tau không trả tiền xe
nhưng chờ tau một xí.”
Vừa nói cụ vừa lật lớp áo
ngoài rồi mở cây kim băng cài túi áo trong, lấy ra 3 đồng đưa cho
tôi.
Tôi liền nói “Con nói rồi, con chở giùm không lấy tiền xe
mà”.
Cụ bà liền la lên: “Tau không trả tiền xe, tau cũng không cho
mi, mi có chân, có tay, mi làm mi ăn, tiền ni tau gởi mi đem về mua sữa cho
cháu tau, mi không lấy, tau la làng là mi móc túi. Răng? Nhận đi con cho bà
vui”.
Nói xong cụ nhét tiền vào túi áo của tôi rồi cắp nách đôi dép
Lào đã mòn gót leo lên xe.
Lần đó tôi đứng khóc một mình giữa bến xe Vĩnh Trung cho đến khi
chuyến xe rời bến... Bà ơi, giờ đây bà đang nơi mô, đứa cháu
nhỏ năm xưa bà cho tiền mua sữa nay đã là tiến sĩ, giảng viên của một trường đại
học danh tiếng ở nước ngoài. Bà ơi, cho đến hôm nay trong cuộc đời
này, từ lúc chia tay con vẫn còn nợ bà... một hộp sữa!
(Lê Thí)
Đây
là một câu chuyện kể không hề có hư cấu, bởi người viết biết rất rõ về tác giả,
vì cùng là bạn đồng nghiệp, đồng cảnh ngộ , dạy chung trường vào những năm đầu
thập niên 80. Câu chuyện đơn giản giữa đời thường nhưng nó đã chạm
được tới đáy tâm hồn người đọc bởi nét bi hài của một xã hội thời cơ chế.
Hơn nữa, nó được khắc họa như một bức tranh hiện thực xã hội giúp ta thấy
được nhiều điều: * Bà cụ sợ mất đôi dép, chứng tỏ giữa người với
người còn thiếu tin nhau, vì một cơ chế đang đưa nền kinh tế hậu chiến tới sự bần
cùng. * Cùng cảnh đói nghèo, con người dễ đồng cảm và xích lại gần
nhau hơn. Ông Thầy xe ôm đã chạnh lòng, không tính tiền xe nhưng cụ bà vẫn trả,
mà lại trả bằng đồng tiền mang mệnh giá nghĩa tình. Với khí thế
đang lên của ba dòng thác, thì một cụ bà dân dã, một Thầy giáo lưu dung, họ là
hai phân số của hai cuộc đời khác biệt gặp nhau trên cùng mặt phẳng đói nghèo,
bằng sự đồng cảm, họ đã tự động hòa đồng cùng mẫu số tình người, đó âu cũng là
Là một chuyện kể, nhưng xét về tính cách đặc trưng của nhân vật,
hiệu ứng cảm xúc của người đọc và giá trị nhân văn mà cây chuyện mang lại, thì
có thể coi đây là một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, bởi ngôn ngữ đối thoại
trong câu chuyện rất tự nhiên, chân thực và sinh động, nói ít hiểu nhiều. Chính
điều này đã khiến tính cách dân dã trong câu chuyện tự nó lột xác, h thân thành
nghệ thuật, vì chỉ có nghệ thuật mới có khả năng khơi dậy, truyền tải cảm xúc
nhanh, giúp ta nhận biết được sự sâu sắc ẩn mình trong những điều tưởng như
bình dị và đơn giản.một cách thể hiện tinh thần hữu ái giai cấp vậy,
vì khi nước cạn mới biết bèo sát đất .óa Phần cuối truyện,
tác giả có băn khoăn là đang nợ bà cụ một hộp sữa, phải hiểu đây là một món nợ
ân tình, chưa gặp lại để thăm bà với một hộp sữa làm quà. Với thời này, chắc là
sữa Ensure. Điều người viết thích nhất là câu trả lời vừa dí dỏm vừa
đủ gây niềm tin khi cụ bà lo bị mất cắp đôi dép : “ Cụ yên tâm, con không mang
dép bằng tay nên không lấy đôi ni mô !”. Ý nói là con cũng có dép rồi, đôi dép
Lào đang mang dưới chân đây. Như vậy trong câu chuyện kể còn có ẩn
thêm một đôi dép nữa, là Đôi Dép Lào Của Thầy Lê Thí, tôi xin chọn câu này để
làm tiêu đề cho bài viết của mình. Nhìn chung, kịch tính của truyện nhẹ
nhàng, tạo được nút thắt và cách tháo gỡ đặt căn bản trên hai chữ đồng cảm.
Tình huống xử lý của cả hai đều phù hợp với tính cách đặc trưng của từng nhân vật.
Một câu chuyện tưởng như bình thường giữa đời thường nhưng nó hàm ý một
thông điệp thấm đẫm tính nhân văn. Có điều là, khi còn đứng trên bục giảng,
ông Thầy xe ôm đã từng gởi nỗi lòng mình qua bài thơ “Gởi Học Trò khi Về
Hưu “: “Ngày tôi về, em đứng ở nơi đâu Có thấy dáng
tôi liêu xiêu Trên hành lang nắng đổ Em đâu biết bao
điều tôi chưa nói Bao điều tôi giữ lại riêng tôi. Tôi
đã diễn tròn vai điều phải diễn Tôi khóc cười
Trên bục giảng rưng rưng .” Nhưng còn khi đứng giữa chợ đời
thường, qua câu chuyện kể này thì Thí đã không diễn, mà thực sống với tư
cách của một nhà mô phạm đi ra từ nền giáo dục nhân bản và khai phóng trước
75. Bây giờ người viết mới thấu hiểu được một trong những điều
Thầy chưa muốn nói, biểu lộ qua khổ thơ cuối cùng của bài thơ cùng tên:
“Em đừng trách Những điều tôi chưa nói
Chuyện áo cơm Hèn mọn một kiếp người.”
Phải chăng dây là một góc khuất, một ẩn số cuộc đời mà bạn tôi chỉ muốn
giữ lại cho riêng mình.
TRƯƠNG CÔNG HẢI
No comments:
Post a Comment