Thursday, June 5, 2025

50 NĂM- CÒN ĐÓ NỖI BUỒN (PHẠM TÍN AN NINH)

 


50 Năm – Còn Đó Nỗi Buôn –

Phạm Tín An Ninh


Phat NGUYEN


Cám ơn bài viết của ông Phạm tín An Ninh đọc, mà thấy xót xa quá...Xót cho

những người lính VNCH hy sinh cả tuổi trẻ và sinh mạng mà cuối cùng ngay cả

nấm mộ cũng chằng được yên. Một câu nói thấm thía về thế hệ chúng ta qua

những việc làm những đau thương đã trải cuối cùng...chẳng là gì hết.

Hắn có một bản "hiệp định Paris" do quốc hội VNCH ấn hành... đọc mà đau như

bị ngọn gió chướng tàn độc quất nát mặt...những chiến công của chiến sĩ VNCH

phải trả bằng xương máu mới có đã bị cuốn trôi trong cái hiệp định chết tiệt

này...đau hơn nữa khi ủy ban hòa bình Nobel vội vã và sai lầm trao giải hòa


2

bình cho Lê đức Thọ và Kissinger đã bị thế giới phản đối...sau đó cũng chính Lê

Đức Thọ phải từ chối nhận giải vì mưu đồ của họ là tiếp tục chiến tranh để đi

đến cuộc tổng công kích chứ với họ đâu có chữ hòa bình mà dám nhận.

Trong bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!” của cán binh bình Ngọc:

.....

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

....

Vào những năm cuối thập niên 1960, trong tác phẩm "thơ xuân" của tổng cục

chiến tranh chính trị phát hành, nhà thơ Du tử Lê có cho hắn một quyển, trong

đó có in bài thơ của một chiến binh miền bắc, bài thơ đã được in thành truyền

đơn trên mặt sau tờ giấy bạc 5 đồng để tuyên truyền kêu gọi cán binh miền bắc

bỏ ngũ và đấy được xem như giấy thông hành khi về hồi chánh, hắn cũng nhận

được vài tờ.

.......

Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ.

Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?

Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu

Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ…

Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ

Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca.

Và sau vườn luống cải đã vàng hoa

Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật.

Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất

Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng.

......

(Vào đây đọc nguyên bài)

https://www.saigonweeklyonline.com/lich-su-nnv/tho-cua-mot-tu-si-bo-doi-

bac-viet-tu-buoi-con-len-duong-xa-me.html

"Thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải... thực sự

là gì, hoặc chẳng là gì hết?”


50 Năm – Còn Đó Nỗi Buôn - Phạm Tín An Ninh


3


Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng

trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế

giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và

những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án

Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ

niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ

Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng

thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga,

ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát,

nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh

thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải

được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của

Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là

nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở

thành trận cãi vả nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT

Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance

của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các

cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn

ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn

tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết

định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung

cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng

ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm

nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai

cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

***

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị

tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam.

Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH

bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự


4

của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay

thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày

27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia

chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải

đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp

ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải

Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay

sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh

luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy

nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng,

phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng

sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu,

ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp

lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính

phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm

kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến

đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại

quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này,

Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt

Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận,

một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến

tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970,

đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường,

gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này

đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn

ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa

nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết

lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc

biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine


5

vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn,

được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần

như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở

vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH

gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng

minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân

cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo

thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên

tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng

hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh

Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp

dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là

thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như

những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để

bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn

11 Nhảy Dù, mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn

tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB

tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một

lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư

Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào

sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn

Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không

và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn

tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có

bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn

xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại

trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23

BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41

cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52


6

của Hoa Kỳ) yểm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng

chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum,

vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư

Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt,

làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không

còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm

ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám

Mục, Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum, 

cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng

cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải

thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn

này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã

phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi

ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và

QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của

CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước,

đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài

“Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió

chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà

chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được,

cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi

vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris

mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau

thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn

khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên

nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH

sau đó.


7


Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu

hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải

cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều

dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên

ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối

nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính

trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ

đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi

dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến

nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình

thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không

phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các

phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết

viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi

CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng

tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển

đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến

trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số

từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong

khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng

khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên

liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm

thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật

chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận

Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi

tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình

huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55

năm trước:


8


“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu

và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần

đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu

nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua

trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng

tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không

đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc

tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là

còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng

tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến

đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức

tưởi, oan khiên như thế!

                     

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình

thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả

những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch

đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điển hình như trận

chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành

những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy

súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về

bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm

tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có

người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo

lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia,

tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có

người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một

điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ

ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ

thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo

Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất,


9

năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào,

ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc

chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu,

nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày

tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

***

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình.

Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc

quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã

phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom

nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và

Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản

như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn

khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn

lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và

đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi.

Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do

nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế

độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến

tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe

thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới

chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu

Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa

dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một

miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp

vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng

nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê


10

hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ

một số rất ít được chọn lọc, tô son thếp vàng, trưng bày

trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong

số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng

vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều

hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ.

Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng

tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc

một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa

trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít

nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy,

thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa

trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm

lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với

Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị

đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân

tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB

hoang phế nằm lẩn khuất trong một vùng núi rừng Bình

Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ

phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và

ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị

em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay,

phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia

gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn

chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số

nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành

phải hủy bỏ.

                           

Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975,

trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết

dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ,

kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại


11

nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù

lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở

thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy

nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ

“tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang

vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẩn khuất

dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                            Một chứng tích đau lòng khác, những thương

binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn

cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do

nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất

trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một

chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng

hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội,

đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp

gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu

Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp

mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo

trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người

đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng

đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán,

để cuối cùng phải hủy bỏ.

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của

hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu

vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền

Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất

chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu

đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là

những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra

biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở

phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn

hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi

lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm


12

của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả

quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra

đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu

họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút

bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu

dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ

giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người

Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền

CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành

công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu

thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ

thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những

đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng

cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong

nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền

Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời,

trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng”

miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa phân biệt

đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn

minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng

sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha

đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ

dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có

khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi

nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức

trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành

sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các

tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người

miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy

của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn

phá thạch, sống chết ở đây.


13


50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp

đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với

thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại

học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương

trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là

một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ

hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo

dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình,

hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh,

đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện

thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải

một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như

trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và

môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng

Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường

lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập,

noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người

không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một

phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền.

Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân

vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên

truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học

Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn

Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này

khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy

Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình

tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan

Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên

người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị


14

này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên

tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì,

ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu

cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng

lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất,

đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương

chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương

mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu

hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày

Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô

Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy

ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có

khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị

cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán

Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ

mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê

mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh

đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến

các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay,

đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính

VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan

đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí

thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy

Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền


15

Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì

bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi,

tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn

nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn

được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp

thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập

chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ

nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu

tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa.

Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước

công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở

Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ

thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa

đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân

bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn

Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn

học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng

cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất

nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm

kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng

rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn

học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu,

mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông,

có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên

cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân

văn:


16

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều

trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một

tín hiệu vui.

Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương

Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính

thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng

vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam

hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa

một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia

xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng

ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những

người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn

Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-

1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt

Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc,

Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa

miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối

sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam,

trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã

dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù


17

lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình”

hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến

và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng”

gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước

chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con

đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự

Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

***

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay

nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều

phát triển, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông

thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá

xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm

mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào

những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh

viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ

được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ

Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam

cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore

là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á

khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản                   :  35,611 Mk

-Đài Loan                   :  34,944 Mk

-Malaysia                   :  14,423 Mk

-Thái Lan                   :    7,754 Mk


18

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ

(Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức

trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia

Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người

dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896

Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)       = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                     = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)               = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)           = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi)

theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh

chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm,

đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái

hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân).

Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai

cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng

mấy vạn người vô tội trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ

chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên

hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản

mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ

này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa,

Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt

nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong

hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ

hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch


19

nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa.

Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”,

“gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp

luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống

phè phỡn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn.

Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học

tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên

bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho

các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng

khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng

sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã

chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái

phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già

bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ

nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với

gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi

dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo

dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ

mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc

khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những

người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như

thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn

người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo

ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho

nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi

cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong

những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong

núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào

chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm

chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội

Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị”


20

Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới

bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước

ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt

nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

***

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước

CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao

dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng

chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu

quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho

ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong

khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải

phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương

(ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém

giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn

mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như

trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi

Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ”

đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.


21

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng,

chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn,

đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời

giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng

trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân

đoàn 4, qua các bài thơ


22


Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là

giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc


23

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù

ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn

phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80,

nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn

âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục,

những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng,

cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội

anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh,

nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ

tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi

thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình

hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và

rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên

này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật.

Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của

chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những

đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”


Phạm Tín An Ninh

    Cuối tháng 4-2025  


24


------------------------------

No comments: