MÀU CỜ VÀ
SẮC ÁO
Năm nay Hè về thật sớm. Cơn
nắng quái dậy mình từ mới giữa tháng 5. Bên kia đường, hàng cây dầu bỗng dưng
trút lá. Gió quyện. Lá rơi. Từng chiếc thốc lên cao rồi lả tả buông mình xuống
thảm cỏ của khoảng sân nhà tôi ở bên này đường. Nhìn bâng quơ ra sân vàng hương
nắng - bây giờ lại phủ thêm một lớp xanh nâu của lá mềm mới rời cây - tôi thấy
mình như vừa sống lại giây phút bâng khuâng của năm nào ngồi trên thềm Palace;
phóng mắt nhìn màu vàng vọt của dải đồi trên sân Cù, ngắm màu xanh của
trời trong in trên mặt hồ im lắng, trải lòng theo vạt nắng thật óng ả đang
vươn dài trên thảm cỏ mượt như nhung trước ngôi khách sạn Palace sang trọng và
nổi tiếng của cao nguyên Lâm Viên.
Không biết có bao nhiêu bạn đã từng tư lự như tôi trong những buổi chiều hè năm
đó. Năm của định mệnh nghiệt ngã đã dành cho chúng tôi, những thanh niên đang
ươm hoa mộng trong đời bằng nhiệt tình rất hồn nhiên của tuổi trẻ. Mùa hè của
binh biến dai dẳng bất chợt chuyển mình vào cơn cuồng nộ.
Mùa hè mà người quân nhân
kiêm nhà văn Mũ Đỏ Phan Nhật Nam đã gán cho hai chữ "đỏ lửa" để nói
đến sự khốc liệt của chiến tranh, lúc đó đã kéo dài gần hai tháng. Hai tháng đủ
để cho giới trẻ miền Nam dậy sóng âu lo và chuyện gì phải đến đã đến. Tháng
5/1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành sắc luật Tổng Động Viên, chiếu
theo điều 004 của Luật Ủy Quyền đã được Quốc Hội thông qua một tháng trước đó.
Ngày ấy tuổi trẻ chúng tôi bị đóng khung. Phận người
đành phải thả trôi theo dòng định mệnh. Chúng tôi không có đường chọn lựa.
Hoặc là vào lính để chấp nhận gian khó, hiểm nguy. Hoặc ngày đêm trốn lánh sự
chận bắt của cơ quan công quyền, sống một cuộc đời vô định đầy hồi hộp và bất
trắc. Sống chết có số. Ai sao mình vậy. Và thế là tôi trở thành một quân nhân
ngay khi vừa đúng 20 tuổi, lứa tuổi thần tiên mang nhiều hoài bão nhứt của
thanh niên trong mọi thời đại! Mưa nắng quân trường tại Đồng Đế chỉ là bước đầu cho
những ngày gian khó. Nắng quái, mưa dầu của 42 ngày Rừng Núi Sình Lầy tại Dục
Mỹ cũng chỉ là phần ngoại cảnh để rèn luyện ý chí, sức chịu đựng và khả năng
thích ứng của thể chất. Lửa đạn chiến trường mới là người thầy đích thực dạy
cho chúng tôi những bài học nhớ đời. Hai chuyến thực tập tác chiến tại Núi Dài, Châu Đốc
và trên vùng Pleime' rong, Pleiku tuy chưa đủ để gọi là kinh nghiệm chiến
trường, nhưng cũng đã phần nào giúp tôi vững lòng chấp nhận hoàn cảnh khi đối
diện với sự tàn khốc của chiến tranh, và từ đó có thêm chút tự tin khi chính
thức nhập cuộc lúc ra đơn vị. Cùng lúc đó, tâm trạng tôi cũng dần dà thay đổi. Nỗi
sầu đời trong tôi biến mất từ lúc nào không hay. Khi nhận lấy trách nhiệm chỉ
huy một trung đội, là lúc tôi nhận ra mình đã thật sự trưởng thành về mọi
mặt. Tôi dần dà vững lòng dấn thân. Tôi tin tưởng đồng đội thuộc cấp. Tuy họ
không "ngán" tôi chút nào - vì ngoại hình của tôi vốn không phải là
vóc dáng lý tưởng của một sĩ quan trung đội trưởng - nhưng họ rất thương mến
tôi. Họ cũng vừa là thầy, vừa là bạn, nên hòa đồng với họ không khó khăn chút
nào. Càng nhớ càng thấy thương những người lính đã cùng
tôi chia xẻ gian nguy. Đa số là thanh niên. Họ - cũng như tôi - nhập ngũ khi
tuổi đời đang độ tươi đẹp nhứt. Họ chỉ biết nghe lệnh và ôm súng lao vào lửa
đạn mà không hề có một lời than trách. Biết chỗ chết mà vẫn cứ tiến vào. Biết
"một đi không trở lại" mà vẫn "Xung Phong ...Sát!" rân
trời. Nếu như tuổi lính được tính bằng năm quân vụ; thì 10 tháng
cầm quân của tôi không có nghĩa lý gì so với quãng thời gian phục vụ, hay nằm
bệnh viện dưỡng thương của nhiều "lão làng" kỳ cựu nhứt trong quân
đội. Nhưng bấy nhiêu đó cũng đã quá đủ để mấy lần
"giỡn mặt" với Tử Thần khi giao chiến với bộ đội chính quy trong
vùng núi Duy Xuyên, Quế Sơn, Nông Sơn, Tiên Phước, Thạch Trụ, Mộ
Đức; hay dò dẫm từng bước trên các bãi mìn của vùng Phong Thử, Gò Nổi thuộc
quận Điện Bàn/ Quảng Nam, hoặc Đức Lương trong quận Mộ Đức/Quảng Ngãi. Tôi không tài nào nhớ hết tất cả mọi người trong
trung đội. Những gương mặt cứ nhòe dần trong tâm tưởng. Theo thời gian thì
trí nhớ cũng cùn mằn. Có lúc chỉ mường tượng người xưa, cảnh cũ...rồi thôi!
Họ đến rồi đi. Đi bằng nhiều cách. vĩnh viễn, tạm thời, đi không trở lại.
Mười tháng hành quân. Năm lần bổ sung quân số. Rốt cuộc, ngày tôi bàn giao
trung đội thì số anh em cũng vẫn không hơn hai chục mạng. Đa số những người mới về đơn vị chừng vài tháng là hy
sinh, hoặc trọng thương rồi giải ngủ. Thời gian sống với nhau không lâu,
nhưng người Lính - tuy sống cuồng vội, ba gai, phá phách và bất
cần đời - vẫn gắn bó với nhau bằng thân tình chỉ có trong quân ngũ. Đó
là tình Huynh Đệ, nghĩa Chi Binh vốn có tính cách rất..."Thầy, Trò"
mặc dù tuổi đời của quan và lính vốn xấp xỉ nhau. Cấp bậc chỉ là để phân biệt ai chỉ huy và ai là người
nhận lệnh. Còn lúc dưỡng quân - ngay hậu tuyến, quanh làng mạc
trong vùng hành quân, hay tại phố xá hậu phương - thì quan và lính đề huề như
nhau, với những màn bá vai lê la quán hàng, chồm hổm phô lưng trần
quanh thau rượu ngay bên quốc lộ, hoặc đàn hát đủ các loại nhạc trên đời
trong sân nhà nào đó ở ven làng. Quên sao được những lần nhai vội, nuốt nhanh bên cạnh
chiếc poncho gói xác của đồng đội! Nhớ vô cùng những thân hình bê bết máu,
mắt mở trừng như muốn níu giữ sự sống đang rất mong manh. Và càng không thể
quên từng miếng lương khô, từng hơi thuốc lá chuyền tay nhau cho đỡ thèm, đỡ
đói. Người lính Việt Nam Cộng Hòa tận hiến máu xương bằng cách tuân hành kỷ
luật thép của Quân Đội. Và tôi, kẻ còn nguyên vẹn hình hài sau khi chấm dứt
chiến tranh, quả đã nợ đồng đội những ân tình, cùng với món nợ máu xương vốn
không có gì tương xứng để đền đáp. Họ chết cho tôi sống. Họ mất đi một phần
thân thể và trở nên tàn phế vĩnh viễn để tôi biết thế nào là hạnh phúc của
một kẻ còn lành lặn tứ chi. Người khinh binh của tôi ơi! Tôi nợ các anh, các
bạn, các em nhiều quá! Tôi thật sự thẹn lòng khi chợt nhận ra là mình đã
không hề có tiếng cám ơn khi đồng đội của tôi đã trở thành "những đòn
bánh tét nhòe nhoẹt máu", hay ngay cả lúc tiễn thương binh về tuyến sau,
tôi cũng không có lời tri ân đúng nghĩa mà chỉ qua loa vài câu an ủi vội
vàng...rồi thôi! |
Đời người vốn đã vô thường.
Cuộc sống giữa lằn tên mũi đạn lại càng mong manh hơn mọi thứ khác trên đời.
Thấy đó, mất đó. Sống nay, chết mai. Mới đầu hôm còn quây quần bên thau rượu
thì sớm mai đã ngậm ngùi vuốt mắt bạn ngay lúc cuốn poncho. Năm 1974, vừa rời
khỏi quân trường, một tá "quan nhí" đeo quai chảo (
lon chuẩn úy ) về nhận trung đội trong những ngày đầu xuân tại hậu cứ; thì
mới chớm hè đã phơi thây trên trảng tranh tại vùng Suối Đá của tỉnh Quảng
Tín.
Cũng trong năm đó, riêng
trung đội của tôi qua mấy lần bổ sung quân số; tôi chỉ mới quen mặt, chưa
kịp nhớ tên những người mới thì họ đã không còn tồn tại trên cõi đời sau một
chuyến hành quân, hay một lần chạm súng!
Nghĩ lại mới thấy mình bé
nhỏ và mọn hèn trước sự hy sinh và mất mát của đồng đội. Đã 40 năm qua rồi
nhưng tiếng đạn bom, tiếng súng lớn, nhỏ vẫn vang vọng trong đầu. Lắm lúc tôi
có cảm giác mình vẫn là người Lính của năm xưa. Sự tiếc thương anh em đồng đội
lẫn chiến hữu trong đơn vị tô đậm thêm nỗi cô đơn sau ngày tan hàng một cách
tức tưởi. Định mệnh chăng? Hay đó là ván cờ thời cuộc mà người Lính Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa chỉ đóng vai trò như những con chốt thí?!
Nơi xứ người, sống trong
cảnh cơm no, áo ấm, mà lòng cứ canh cánh nghĩ về những chiến hữu đã hy sinh,
hay những ai đang còn lây lất trong cảnh đời ngập ngụa khổ đau nơi quê nhà.
Càng nghĩ càng thấy thẹn lòng. Họ nhọc nhằn trong đau khổ đã suốt
bao nhiêu năm qua. Mà tôi thì chẳng làm được gì ngoài những lời cầu nguyện
và chút quà mọn hèn nhỏ giọt đó đây.
Nghĩ đến họ, rồi nghĩ
lại mình mới thấy buồn thêm cho một sự tan đàn trong hận tủi. Dù sao cũng
đã một thời. Dù sao cũng đẹp khoảng trời quê hương. Quê hương đã không còn.
Đúng hơn là đã sa vào tay giặc. Còn tôi thì vẫn là một người Lính chưa giải
ngũ. Tôi vẫn là người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa .Tôi không thể quên
nguồn cội của mình, nên màu cờ quốc gia và sắc áo của binh chủng vẫn luôn được
treo, máng một cách trang trọng trong nhà.
Tôi không phê phán những ai
đã không còn nhã hứng mặc lại bộ quân phục trên người. Có vị còn lên
tiếng phê bình và mỉa mai "những kẻ già nua, cuối đời còn lề mề
trong bộ quân phục để khoe lon lá với mọi người". Bá nhơn, bá
tánh. Họ, những kẻ muốn quên đi nguồn cội của mình ,hay có lý do nào đó nên
không thích trân trọng hình ảnh xưa, kỷ niệm cũ. Nhưng riêng bản thân tôi thì
có dịp là tôi sẽ mặc lại bộ đồ bông, và khoát chiếc Mũ Nâu trên
đầu.
Đây là sắc áo mà tôi đã chọn đúng 40 năm về trước để
phục vụ cho màu cờ của quốc gia tự do mang tên Việt Nam Cộng Hòa. 40 năm
hạ bừng cơn bão lửa trên miền Nam thân yêu đã biến tôi từ một thư sinh
thành người lính chiến. Tôi trưởng thành nhờ Quân Đội. Tôi sống còn nhờ
các Chiến Hữu - còn sống hay đã hy sinh - giúp tôi hoàn thành Trách Nhiệm của
một người Trung Đội Trưởng. Tôi tri ân Họ mỗi ngày
cho đến suốt đời. Tôi sẽ không quên Họ. Không bao giờ!
HUY VĂN.
|
Lebanon,
PA 06/2025
No comments:
Post a Comment