Monday, September 2, 2024

SỐNG VÀ CHẾT Ở SÀI GÒN (HOÀNG HẢI THỦY)

 


Ngày 31-8-2024

Là dân Ông Tạ,,Khoãng những năm sau 1985, Vợ Chồng Chúng tôi đang đứng làm việc tại Tân Bình,một người Thanh niên,hơi đứng tuổi bước vào,và nói,< Tôi là Nhà Văn Hoàng Hải Thủy Tôi mới đi Cải Tạo về,Tôi  đang bị đau đau nơi bụng,...>
Chúng tôi chĩ và giới thiệu Nhà Văn  < Phòng Mach Bác Sĩ Nguyễn Vĩnh Lộc,> gần đó..
Cụ Phán  Bác Sĩ Lộc là Bạn  chúng tôi,, Cụ luôn luôn ăn măc đứng đắn,trên tôi một lớp ở Trung Hoc   và   rất dể thương. Hình như, nay Cụ cũng  đang đinh cư tại Califormia.
Nhưng trước đó, khi hõi thăm Nhà Văn., sau vài câu chuyện,,chúng tôi biếu Nhà Văn môt chai nhỏ Ma-lốc viên ngâm cũa Pháp làm và dăn dò cách dùng.thuốc này.
Nay,không ngờ được biết  Nhà Văn,mà những năm tháng trước đó,chúng tôi đã  coi  say mê feuilleton những Bài Văn  trên Nhật Báo Tự Do của GS Pham V. T...mới đó mà đã trên 50 năm.
Nay coi Email   Chúng tôi biệt  quý trọng , biết ơn quý Nhà Văn chân chính., 
Cám ơn Bất Khuất emails.    NND 24 BBTD.



SỐNG VÀ CHẾT Ở SÀI GÒN
HOÀNG HẢI THỦY
Gửi các bạn tôi (HHT)
“Ôi cố hương xa nửa địa cầu
Ngàn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau…” (Thanh Nam).
Ngày mới đến Hoa Kỳ tôi nói: “Tôi mang Sài gòn trong trái tim tôi…”. Tôi muốn nói tôi yêu Sài Gòn, tôi đã sống đến bốn mươi năm trong lòng thành phố Sài Gòn thương yêu, tôi đã vui buồn, đã đau khổ với Sài Gòn. Nay phải đi xa, tôi mang Sài Gòn theo tôi nên tôi sẽ không thấy nhớ Sài Gòn!
Sự thật không như tôi nói, không như tôi tưởng.
Trước hết, câu nói ấy có cái giọng của Sáu Keo: “Miền Nam trong trái tim tôi…”.
Dù tôi có yêu thương Sài Gòn đến chừng nào đi nữa – là Công Tử Hà Đông bên hông Hà Nội, Bắc kỳ chính cống Bà Lang Trọc nhưng tôi yêu Sài Gòn hơn tôi yêu Hà Nội - dù tôi có sống với Sài Gòn lâu đến chừng nào đi nữa, khi phải xa Sài Gòn tôi vẫn nhớ thương Sài Gòn. Nhớ thương vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, người đàn bà đa tình yêu mình cực kỳ, cho mình hưởng tất cả, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà mình phải xa nàng.
Đêm cuối năm, mưa rơi suốt đêm trên Rừng Phong.
Canh khuya trằn trọc nằm nghe tiếng mưa đập vào khung kính cửa sổ, tưởng như đang nằm nghe mưa rơi trên mái ngói xanh rêu trong căn nhà nhỏ ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ Sài Gòn.
Bồi hồi tưởng nhớ những cây mưa đầu mùa năm xưa ở quê nhà. “Cây mưa”! Đúng là cây mưa. Những năm 1956, 1957 xanh xưa tôi còn trẻ, trong loạt bài gọi là phóng sự tiểu thuyết Vũ Nữ Sài Gòn, tác phẩm đầu tay của tôi, tôi viết: “Sài Gòn sau cơn mưa lớn sạch như người đàn bà đẹp vừa mới tắm xong…”

Inline image

Hơn bốn mươi mùa mưa sau nhớ lại, thấm và thấy đúng biết chừng nào. Sài Gòn của tôi thuở 1956-1960 thanh bình sau những cơn mưa lớn, nhất là những cơn mưa đêm, sạch như người đàn bà đa tình yêu tôi, tôi yêu, khi nàng mới tắm xong.

Sáng nay mưa vẫn rơi trên Rừng Phong. Người tha hương lúc nào cũng nhớ quê hương.

Tết đến. Tết là dịp đoàn tụ gia đình. Tết đến, người tha hương nhớ thương quê hương hơn. Những lời thơ Thanh Nam ray rứt trong tim tôi:

Ôi cố hương xa nửa địa cầu
Ngàn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau.
Đâu đây trong khói trầm thơm ngát
Hiện rõ trời xuân một thưở nào
. . . . .
Tỉnh cơn mê sảng âm thầm
Ngó ra đất khách mưa xuân hững hờ
Tháng Tư, cơn sốt đầu mùa
Gợi trong tiềm thức những giờ oan khiên
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nỗi buồn nào cũng mang tên Sài Gòn!


Tháng Chạp Tây, bánh xe lãng tử đưa tôi đi một vòng Cali. Đêm cuối năm trong một thành phố nhỏ, tôi xem một phim video về Hà Nội do những người Hà Nội làm. Thành phố Hà Nội được người Hà Nội yêu thương quá cỡ. Hà Nội được yêu thương trước 1945, Hà Nội được yêu thương sau 1945. Có đến 50 bài thơ, bản nhạc được làm để ca tụng Hà Nội và diễn tả tình yêu Hà Nội.

Trong khi đó thành phố Sài Gòn thương yêu của tôi có gì? Thành phố Sài Gòn của tôi được thương yêu, được ca tụng như thế nào? Bao nhiêu? Một bài Sài Gòn Đẹp lắm Sài Gòn ơi của Y Vân, một bài Vĩnh biệt Sài Gòn của Nam Lộc. Còn gì nữa?

Tôi sẽ viết về thành phố Sài Gòn và tình yêu Sài Gòn.

Sáng nay, tôi làm một cuộc tính sổ những văn nghệ sĩ đã từ giã cõi đời này kể từ ngày 30 Tháng Tư, 1975. Bản danh sách của tôi không đầy đủ. Tôi xin lỗi vì không thể kể tên tất cả những văn nghệ sĩ đã vĩnh viễn đi khỏi cuộc đời. Nhớ được người nào tôi ghi lại người ấy, ghi không theo thời gian mà cũng không theo vần ABC.

Trước hết tôi phải kể anh Chu Tử Chu Văn Bình. Anh là văn nghệ sĩ chết trước nhất kể từ ngày 30 Tháng Tư, 1975. Anh không chết sau ngày 30 Tháng Tư 1975 mà là trong ngày 30 Tháng Tư 1975. Đạn quân thù cộng phỉ bắc việt bắn theo con tầu ngày ấy đưa anh ra biển đã giết anh, thân xác anh nằm trong lòng đại dương. Anh một đời hai lần bị trúng đạn.

Một buổi sáng năm 1964 – thời điểm quân đội Hoa Kỳ đang kéo vào tham chiến trên chiến trường Việt Nam – khi từ nhà ở đường Trương Tấn Bửu, Phú Nhuận, ra xe hơi để đến tòa báo Sống, nhà in Tường Vân đường Gia Long, có kẻ chờ sẵn trước cửa nhà bắn anh nhiều phát đạn xuyên qua cửa xe sau. Có viên đạn trúng cổ anh, xuyên qua miệng. Nguy hiểm cực kỳ nhưng anh không chết. Anh sống được mười năm nữa…

Và đây là tên những văn nghệ sĩ, những ký giả đã lìa đời kể từ ngày 30-4-1975 đến sáng hôm nay. Những người ra đi vĩnh viễn từ những ngõ hẹp, những cư xá đông người, những nhà tù Sài Gòn: 
* Hoàng An, Mai Anh; Thái Dương Nguyễn Văn Mai, nguyên Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam; Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp, nhạc sĩ Lan Đài (hai người nghe nói bị chết trên biển khi vượt biên); Mạc Ly Châu; Huy Cường diễn viên điện ảnh; Thi sĩ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn; Trần Việt Hoài, thi sĩ, bút hiệu Thiết Bản đạo nhân, chết trong Làng Báo Chí; Thiên Hổ tức Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm nhật báo Xây Dựng, nhà thờ, nhà riêng, nhà in, tòa báo ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ, cùng khu với Cà phê Thăng Long của Vũ Văn Cẩn; Cát Hữu; Minh Đăng Khánh – Khánh có nhiều nghề: giáo viên, ký giả, biên tập đài phát thanh giữ chương trình Gia đình Bác Tám, diễn viên kiêm đạo diễn điện ảnh, họa sĩ, dậy hội họa, bị bọn phỉ quyền Hà Nội bắt Tháng Tư 1976, đi tù về Khánh bị bại liệt nửa người, vẫn lê lết đi lại được cho đến ba năm sau; Trọng Khương, tác giả Bánh Xe Lãng Tử, Ghen; Thiếu Lang; Ngọc Thứ Lang Nguyễn Ngọc Tú, dịch giả Bố Già (The Godfather, Mario Puzo, từng là sách bestseller). 1985 hai nhà xuất bản Mít Cộng tái bản Bố Già của Tú Lé. Tú bị bắt vì choác.

Sau thời gian nằm ở cái gọi là Trại Phục Hồi Nhân Phẩm Khu Nhà Thờ Fatima, Tú bị đưa ra một trại lao động khổ sai của cộng sản – gọi tắt là Trại Lao Cải – ở miền Trung.

Nghe nói sáng sớm, trời lạnh, Tú rít hơi thuốc lào và ngã ra chết; Thi sĩ Bàng Bá Lân; Ký giả Thể thao Thạch Lê tức Trung Tá Lê Đình Thạch, người từng là chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến, anh Thạch đi cải tạo về, qua đời tại nhà ở Khu Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa; Nguyễn Hiến Lê; Hoàng Vĩnh Lộc, đạo diễn điện ảnh, tác giả phim Người Tình Không Chân Dung, Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương…; Hoàng Ly, tác giả tiểu thuyết Một Thời Ngang Dọc, Giặc Cái…; Thi sĩ Hoàng Trúc Ly, tác giả hai câu thơ nghe nói là tả nữ ca sĩ Khánh Ly: “Từ Em tiếng hát lên trời, Tay khơi dòng tóc, tay vời âm thanh…”; Trọng Nguyên; Vương Hồng Sển; Xuyên Sơn; Trần Việt Sơn; Hoàng Thắng; Trịnh Viết Thành; Lê Thanh tức Phòng Cao; Hai nhạc sĩ lớn Lê Thương; Dương Thiệu Tước; Hồ Hữu Tường; Minh Vồ, chủ nhiệm tuần báo Con Ong; Y Vân, tác giả Lòng Mẹ, Sài Gòn Đẹp Lắm Sài Gòn Ơi; Hoàng Thư; Trần Lê Nguyễn; Thượng Sĩ; Huy Thanh Nguyễn Huy Thái tức Trường Sơn; Lê Văn Vũ Bắc Tiến; Mặc Thu…

oOo

Những văn nghệ sĩ chết trong tù:

– Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, bị bắt năm 1984, chết vì cao áp huyết trong Nhà tù Chí Hòa năm 1986.

– Anh Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt tháng 3, 1976, tuyệt thực đòi Việt Cộng trả tự do năm 1978 ở Trại Lao Cải Xuyên Mộc, bị cai tù không cho uống nước đến chết.

– Anh Vũ Hoàng Chương, bị bắt tháng 3, 1976, bị tù sáu tháng, về nhà được bẩy ngày thì qua đời.

– Dương Hùng Cường – Dê Húc Càn, sĩ quan, đi tù cộng sản trở về năm 1980; năm 1984 bị bắt lại trong nhóm Biệt Kích Cầm Bút, chết trong sà lim Nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu năm 1987.

– Huy Vân, sĩ quan, chết trong trại tù cộng sản ở miền Bắc.

– Nhạc sĩ Thục Vũ, sĩ quan, chết trong trại tù cộng sản ở miền Bắc, tác giả bản nhạc “Anh Ở Đây, Bạn Bè Anh Cũng Ở Đây…”

oOo

Những văn nghệ sĩ qua đời ở hải ngoại:

Duyên Anh Vũ Mộng Long, mất ở Paris, 1997. Ký giả Anh Quân, ký giả Nguyễn Ang Ca, mất ở Bỉ quốc, Hùng Cường, Vũ Huyến, An Khê, Vũ Khắc Khoan, ký giả Tô Văn Trần Đức Lai, Tử Vi Lang, Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bình Nguyên Lộc, Thanh Nam Trần Đại Việt, Nguyễn Tất Nhiên, nhạc sĩ Thẩm Oánh, Đạm Phong, Nguyên Sa, Mai Thảo – những ông trên đây sống và chết ở Hoa Kỳ.

Trần Văn Trạch qua đời ở Paris, ký giả Thái Linh Phạm Linh, chị Kiều Diễm Hồng trang Mai Bê Bi nhật báo Chính Luận ngày xưa, qua đời trong một Nursing Home ở Virginia Đất Tình Nhân, Hoàng Trọng, Sĩ Phú, Hoàng Thi Thơ ở Cali, Ngọc Dũng ở Virginia, Mai Trung Tĩnh ở Maryland…

oOo 

Inline image
(Nhà văn Hoàng Hải Thủy. Hình: Người Việt)

Tháng Giêng Tây 2000 gần như tất cả các văn nghệ sĩ VNCH còn sống, quân và dân, đều đã rời quê hương đi ra hải ngoại. Họ sống nhiều nhất ở Hoa Kỳ, rồi Úc, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Canada.

Số văn nghệ sĩ còn sống ở Thành Hồ có thể đếm được trên mười đầu ngón tay: Tú Kếu Trần Đức Uyển; Lê Xuyên Chú Tư Cầu, bán thuốc lá lẻ ở góc đường Ngô Quyền – Bà Hạt, gần chợ Nguyễn Tri Phương; Huỳnh Phan Anh; Trần Phong Giao; Thế Phong, tác giả Việt Nam Bi Thảm Đông Dương; Hồ Nam; Phan Nghị; Văn Quang; Nguyễn Thụy Long Loan Mắt Nhung; Đằng Giao; Dương Nghiễm Mậu; Cao Nguyên Lang; Vũ Bình Thư Lã Phi Khanh, tác giả Lệnh Xé Xác; bà Tùng Long, bà Lan Phương; bà Mộng Tuyết; hai nhà văn nữ Nguyễn Thị Hoàng; Nguyễn Thị Thụy Vũ; Lý Thụy Ý; nhà thơ nữ Hoàng Hương Trang…

Văn nghệ sĩ hiện sống ở Thành Hồ ly kỳ nhất, theo tôi, là Văn Quang, tác giả những truyện tình Chân Trời Tím, Suối Đam Mê, Tiếng Hát Học Trò v.v…

Văn Quang là Trung Tá Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội cho đến ngày tan hàng. Anh nhan sắc không hơn gì anh em chúng tôi bao nhiêu, nếu có gì hơn thì chỉ là anh hơn chúng tôi cái mác carihom Oméga bộ xương cứu chúa.

Nhưng anh có cái số đào huê dễ nể. Anh có đến năm bà vợ – những bà cùng đương sự ăn ở công khai, chính thức vợ chồng với nhau, dù không cưới hỏi, không đãi ăn nhà hàng, trong thời gian dài ngắn không đều là một hai niên, ba bốn niên, tức là không kể những nhân tình, nhân bánh lâu lâu sáp lại nhấp nháy, tan hàng.

Bà vợ nào của anh cũng nhan sắc trên mức trung bình. Đi tù cộng sản mười mấy mùa thu chết mới được về, Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến bút hiệu Văn Quang, có thừa tiêu chuẩn để đi HO sang Hoa Kỳ, nhưng anh đã không đi.

Văn Quang không sang Mỹ không phải vì ghét Mỹ.

Văn Quang ở lại Thành Hồ không phải vì ưa Việt Cộng.

Anh không sang Mỹ vì anh hùng thấm mệt, vì đại bàng mỏi cánh, vì những lý do riêng tư.

Hiện anh sống bình yên trong căn hộ ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Quận Ba, Sài Gòn.

Áo hoa vàng.
(Hoàng Hải Thủy)

Sáng cuối năm trong căn nhà tối
Em mở tủ nhìn đời ngày cuối
Mắt em buồn bừng sáng mầu hoa
Em nhớ lại ngày may áo mới
Hai năm rồi mặc áo bà ba
Đời tẻ nhạt như làn tóc rối.
Áo ướm thân, em khóc, em cười
Em có biết em vừa trẻ lại.
Đây áo hoa vàng anh chọn, em may
Như giọt nước trong dòng tình ái.

Em yêu dấu ngày em trở lại
Đất ngàn năm như cỏ, như hoa
Anh sẽ mặc cho em lần cuối
Áo hoa này rồi tiễn, rồi đưa.

Em lại hỏi có ngày ta phải
Chia áo này cho các con ta?
Em yêu dấu… Em ơi đừng ngại
Mặc cho đời tháng lại, ngày qua
Trong xương thịt ta còn giữ mãi
Những cái gì riêng của đôi ta.
Khi em nằm xuống, khi tàn lửa
Trong hào quang của những tiên nga
Khi xe hạc vàng nhung đến cửa
Đón em về xa cõi trời xa
Anh sẽ mở hồn anh lấy áo
Mặc cho em chiếc áo vàng hoa.
Trong u ám một ngày mây phủ
Nặng những sầu đau, những xót xa
Em đóng cửa hồn, che áo mới
Và ra đường trong chiếc áo bà ba.

Sáng cuối năm trong căn nhà tối
Em mở tủ nhìn đời ngày cuối.
Mắt Em buồn bừng sáng mầu hoa
Em nhớ lại ngày may áo mới.
Hai năm rồi mặc áo bà ba
Đời tẻ nhạt như làn tóc rối.
Áo ướm thân, Em khóc, Em cười…
Em có biết Em vừa trẻ lại.
Đây áo hoa vàng, anh chọn, em may
Như giọt nước trong giòng tình ái.
Trong ưu phiền mắt lặng nhìn nhau
Em thầm hẹn áo này giữ mãi…!
Em yêu dấu, ngày Em trở lại
Đất ngàn năm, như cỏ, như hoa
Anh sẽ mặc cho Em lần cuối
Áo hoa này rồi tiễn, rồi đưa…
Em lại hỏi có ngày ta phải
Chia áo này cho các con ta?
Em yêu dấu, Em ơi, đừng ngại
Mặc cho đời tháng lại, ngày qua
Trong xương thịt ta còn giữ mãi
Những cái gì riêng của đôi ta.
Khi Em nằm xuống, khi tàn lửa
Trong hào quang của những tiên nga
Khi xe hạc vàng nhung tới cửa
Đón Em về xa cõi trời xa
Anh sẽ mở hồn Anh lấy áo
Mặc cho Em chiếc áo vàng hoa.
Trong u ám một ngày mây phủ
Nặng những sầu thương, những xót sa
Em đóng cửa hồn, che áo mới
Và ra đường trong chiếc bà ba.

Hoàng Hải Thủy.
Rừng Phong, Hoa Kỳ

(Sài Gòn trong tôi/ Hoàng Hải Thủy)

* * *
Ghi chú:

NHÀ VĂN HOÀNG HẢI THỦY

Các tác phẩm đã xuất bản trước 1975 là Vũ Nữ Sài Gòn, Tây Đực Tây Cái, Chiếc Hôn Tử Biệt (tái bản với tên Đêm Vĩnh Biệt), Nổ Như Tạc Đạn, Yêu Lắm Cắn Đau, Bạn và Vợ, Môi Thắm Nửa Đời, Người Vợ Mất Trí, Định Mệnh Đã An Bài, Kiều Giang (phóng tác từ tác phẩm Jane Eyre của Charlotte Bronte), Gái Trọ, Đỉnh Gió Hú (phóng tác từ Wuthering Heights), Như Chuyện Thần Tiên (Scoprion Reef), Điệp Viên 007 (phóng tác), Thầy Nô (phóng tác từ Dr. No), Máu Đen Vàng Đỏ (phóng tác)…

Các tác phẩm của ông đã xuất bản sau 1975 là Công Ty Rửa Tiền (The Firm), Mang Xuống Tuyền Đài (The Chamber), Báo Cáo Bồ Nông (The Pelican Brief), Tiếng Kêu Của Máu (The Red Dragon), Mùa Hạ Hai Mươi, Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, Dữ Hơn Rắn Độc…

Nhà văn, nhà báo Hoàng Hải Thủy qua đời lúc 11 giờ 20 phút tối Chủ Nhật, 6 Tháng Mười Hai, 2020, tại bệnh viện Virginia Hospital Center, tiểu bang Virginia, vì tuổi già, hưởng thọ 87 tuổi.

No comments: