Cao Hoàng
Cao Hoàng là một nghệ sĩ tài hoa. Là một nhà văn, nhà thơ, đã từng là Chủ biên nguyệt san Chỗ Chúng Ta. Là một ca sĩ, nhạc sĩ có
nhiều bài nhạc và chơi đàn guitar
với những bản classic rất điêu luyện. Cao Hoàng lại còn
có tài sản xuất những cây đàn guitar chuyên biệt cho
khách hàng.
Ngoài ra Cao Hoàng lại là một họa sĩ và là người vẽ
bảng “Little Saigon” được gắn tại bốn góc phố ranh giới
lịch sử của khu thương mại người Việt trong thành phố
Seattle.
Những bài viết của Cao Hoàng có nhiều tính chất văn
nghệ đặc thù và hư cấu lạ.
Cao Hoàng là thầy dậy Văn, Nhạc và Họa tại trường
trung học Phú Yên trước 1975 trong nhiều năm đã gây ấn
tượng sâu đậm cho các học trò, khiến cho một số đông học
trò cũ vẫn thường xuyên rủ nhau đến Seattle thăm người
thầy cũ.
Đợi một chuyến phà
Chuyến phà sang đảo
Lúc ấy tôi nhìn qua cửa sổ, con đường cong cong từ
phòng 102 – nơi tôi đang ngồi đợi giờ học – dẫn đến
cafeteria có nắng vàng rực rỡ chiếu trên những cây
magnolia và những cây dogwood đang trổ bông khoe
hương sắc bên cạnh những cây phong Nhật Bản yểu điệu
la đà.
Tiến nói:
- Hôm nọ đang thụt bi-da ở trên lầu cafeteria tao thấy
mày với một thằng Mỹ trắng đang vần một cái bàn bự cho
4
buổi trình diễn văn nghệ chiều thứ sáu; vẫn còn làm ở đó
à?
- Không, quit rồi, bây giờ làm ở library, khỏe lắm, chỉ
có check-in, check-out rồi xếp sách lên kệ. Làm việc
chung với mấy thằng khổng lồ chịu đời gì thấu. Tao là
thằng Việt Nam có thước tấc đầy đủ, nhưng nó cao hơn tao
một cái đầu và nặng gấp hai.
- Tao cũng đang muốn quit cái job mailman. Trường
gì lớn khủng khiếp đi phát thư là muốn rã cặp giò! Đổi job
ở chỗ nào vậy?
- Thì tới chỗ nào người ta cần thì xin, xin được rồi thì
lên con Barbara.
- Là đứa nào vậy?
- Con tóc vàng mắt to thô lố ở phòng financial-aid.
Mày biết nó nói gì không? Nó nói mấy thằng Á Châu
chỉ thích ngồi một chỗ câu cá câu mực thôi cần phải
exercise ở cafeteria mới tốt. Tao nói là tao đã exercise bốn
năm trên chiến trường với mấy thằng VC và thêm bốn
năm nữa trong re-education camp chưa đủ hay sao? Nó
nhăn răng cười bảo khi nào câu được cá cho nó mấy con.
Lúc ấy cái cửa kính thật lớn của cafeteria hé mở, một
người lách ra đi về phía chúng tôi. Đó là June. Em tháng
Sáu hôm nay mặc blue jean áo xanh lá mạ, lưng đeo
backpack. Bộ đồ giản dị, hơi cứng của lũ sinh viên đi học
hàng ngày không làm mất đi vẻ dịu dàng uyển chuyển của
cô. Mái tóc đen mun bay trong gió, đôi mắt long lanh như
cười, chẳng thể đoán được cô đang nghĩ gì, chỉ biết rằng
tôi chết sững khi nhìn thấy cô sáng nay đi trong nắng xôn
xao, dưới những cánh hoa dogwood tuyệt vời.
5
Cửa lớp mở ra, June tươi tắn bước vào. Những thằng
con trai nhao nhao mời chào. Tôi có cảm tưởng cô như
một ngọn đèn thật sáng đang soi vào chỗ tối tăm. Bao giờ
cô cũng chọn chỗ gần hoặc ngay đằng trước chúng tôi. Có
phải cô thích nghe hai đứa tôi thì thầm với nhau bằng
tiếng Việt chăng? Ồ mà điều đó không chắc, có thể do tình
cờ hay bản tánh rất tự nhiên của cô. June bỏ cái túi đeo sau
lưng xuống, nghiêng người quay nhìn chúng tôi, một tay
vén tóc, điệu bộ rất kiểu cách, nhưng chào một câu khá
bình dân:
- Hi, you guys.
Hai đứa chúng tôi cùng nói rất ăn nhịp, để ghẹo cô:
- Hi, June. How are you?
Và Tiến nhanh nhẹn bồi thêm một câu:
- Lúc nào June cũng đẹp như tháng Sáu ở Tây Bắc.
June cười nhẹ, nói thank you rồi ngồi xuống với đồ
nghề lỉnh kỉnh của lớp vẽ.
Tiến huých tay tôi:
- Nói gì với em đi chứ, thằng cù lần. Hôm nay là buổi
học cuối cùng rồi, cuối giờ là liên hoan mãn khóa. Biết có
bao giờ gặp lại em không?
- Mày đừng mơ tưởng hão huyền con ạ! Hè này tao
với mày không đi hái trái cây thì cũng đi cắt cỏ.
- Xin lỗi ạ! Tao mới kiếm được cái job thơm lắm: đi
làm full time cho một nông trại, thế nào cũng vớ được một
em yêu kiều.
- “Người yêu dấu hỡi Clementine” hả? Tao thì chỉ
muốn “ta về ra tắm ao ta”, ừ cứ đi đi, còn tao sẽ vác đàn ra
6
chợ đường Pike quậy cho nó đã tay. Nhớ nghe, thứ bảy
anh đây sẽ ra chợ đánh đàn kiếm bạc lẻ đó.
- Lại mấy cái restaurant tụi Ý hay tụi Mễ mà chơi có
hơn không?
- Tao không thích đánh đàn trong khi họ ăn. Tuyệt đối
không chịu đàn cái kiểu đó.
Giáo sư đã vào lớp, đi cùng với ông là một người đàn
bà đứng tuổi. Tất cả ghế ngồi của chúng tôi đều xếp vòng
tròn quanh một cái bục thấp. Giáo sư giới thiệu người đàn
bà ấy là người mẫu và bà ta lăng lẽ cởi tất cả những cái gì
mặc trên người. Bà ngồi trên một cái ghế đẩu, bao nhiêu
đèn halogen đều chiếu vào bà. Bộ ngực người mẫu chảy
xệ một cách thảm hại, những nếp nhăn ở bụng ở đùi chứng
tỏ đã có một thời người mẫu nặng ký hơn bây giờ nhiều.
Bà già này đáng tuổi má của hầu hết những đứa đang vẽ
bà. Mới tuần trước một thanh niên khỏe mạnh và rất đẹp
trai ngồi làm mẫu, trông cứ như tượng Hi Lạp; tụi con gái
xuýt xoa trầm trồ, hau háu nhìn, vẽ lấy vẽ để. Hôm nay
thằng Johny lanh chanh chiếm chỗ gần bà người mẫu nhất,
nó tha hồ chiêm ngưỡng bộ ngực, những nếp nhăn rất
nghệ thuật và lông tóc đã phai màu. Bực mình nó lớn tiếng
phàn nàn:
- No fair, Bob.
Tụi con gái cười ré lên, giáo sư Robert phải nói giả lả
đôi điều là mình đang cần học vẽ ánh sáng và các góc
cạnh. Không biết bà người mẫu có hiểu gì không, buồn
lòng gì không, chỉ thấy bà như mỉm cười độ lượng. Tôi
nói với Tiến:
- Nếu em tháng Sáu lên thay bà già này thì tuyệt.
7
Tiến nói: Từ hôm vào học tới nay, mày mới nói một
câu nghe được. Vậy khều em quay lại rồi dịch cho em
nghe đi.
Nhưng rồi cả hai đứa không đứa nào dám dịch câu ấy
cho June nghe. Trong không khí tĩnh lặng của lớp học, chỉ
nghe thấy tiếng sột soạt của bút chì kéo trên giấy và một
mùi hương thoảng rất nhẹ từ mái tóc June. Tờ giấy trước
mặt tôi mãi vẫn chưa có hình bóng bà người mẫu, nhưng
đã hiện lên rõ ràng mái tóc óng ả của June, cái sống mũi
nhìn nghiêng rất thẳng và một vệt đen nhỏ, khúc cuối của
một
con mắt thăm thẳm mơ hồ.
Tôi mở hộp đàn ra để đàng trước mặt, ngồi lên một bệ
bằng bê tông và bắt đầu đàn những bản nhạc cổ xưa. Chỗ
này nối với bậc thang lên chợ và bậc thang xuống đường
bến phà. Tôi chọn chỗ này vì có vài mảnh tường bao bọc
nên tiếng đàn vang dội mạnh. Kéo xụp cái mũ rộng vành
xuống tận gần mắt, tôi biết trông tôi phong sương lắm.
Tuổi trẻ qua đi trong chiến tranh và tù đày; còn bạn bè
ư? đứa nằm lại trên đồi máu, đứa chìm dưới biển sâu, đứa
lưu lạc quê người, giờ như lá mùa thu rơi rụng như cánh
hải âu không biết về nơi đâu. La Cumparsita tình tứ reo
lên, La Paloma dìu dặt êm đềm, Bolero flamenco với
những tiếng gõ rối lòng người, Malaguẽna Mexicana quay
cuồng mê dại. Tôi đã cố chọn những bản nhạc dễ nghe để
cầm chân được vài du khách, đám học trò trường South.
Tôi vẫn cúi mặt xuống, mắt nhìn cần đàn hay nhìn chân
của những người dừng lại. Tiền lẻ và bạc cắc bắt đầu rơi
lộp độp xuống hộp đàn cùng với những tiếng vỗ tay lác
đác mỗi khi dứt bản đàn.
8
Ngày còn nhỏ theo cha mẹ đi ăn nhà hàng, một tối, tôi
thấy có người thanh niên đàn vĩ cầm trong tiệm. Anh có
một cái vĩ cầm cũ kỹ phong sương như bộ quần áo anh
mặc trên người. Anh còn có một cái mặt rỗ hoa và đôi mắt
buồn thê thiết. Lúc anh đứng gần tôi, tôi dúi vào túi quần
anh tất cả tiền tôi mang theo và bảo anh đàn cho tôi nghe
bản Dư Âm của Nguyễn Văn Tý. Lúc ấy anh đã vào nhịp
một bản nhạc khác; lập tức anh dừng lại và thỏa mãn cái
yêu cầu của cậu bé. Không biết có đúng tâm sự không mà
tôi thấy anh gò người nắn nót tiếng đàn cho êm ái đê mê.
Thỉnh thoảng anh lại nhìn tôi với đôi mắt buồn bã. Bây giờ
đến lượt tôi. Đã qua được mấy bài đầu tôi bắt đầu đàn với
nỗi mê say của riêng mình.
Có lúc người nghe thật đông, rồi lại biến đi đâu cả.
Chỉ cần đếm những bàn chân, những bàn chân đi giày da
của người lớn tuổi, giày cao gót của phụ nữ, giày chạy thể
thao hay những đôi bé nhỏ của những bé con mến mộ.
Bỗng tôi bàng hoàng cả người khi nhận ra một cặp chân
quen thuộc. Mặt tôi nóng bừng lên, tay đàn lạng quạng
không trôi chảy nữa. Đó là một đôi giày cao gót, có những
sợi da đan chéo và mũi giày rất nhọn; trong có hai bàn
chân xinh xắn với những móng chân hồng hồng được
chăm sóc kỹ. Suốt trong ba tháng mùa xuân gần gũi, từ
đỉnh đầu đến gót chân, có phần thân thể nào của nàng mà
tôi không nhớ như in…
June cúi xuống cái hộp đàn cũ kỹ ấỵ Tôi tưởng cô sẽ
bỏ vào đấy một nắm tiền; nhưng không, cô mạnh dạn đóng
cái nắp lại rồi đứng dậy xách cái hộp đàn của tôi đi ngược
lên cầu thang phía trên. Trời đất! không biết cô định giở
trò gì! Tôi cũng ngưng đàn, ném bỏ cái mũ rộng vành, ôm
9
đàn đi theo cô trước những con mắt ngơ ngác của vài
người đang đứng nghe. Khi lên hết những bậc thang, cô đi
ra khỏi chợ rồi quẹo phải trên hành lang bên ngoài, nơi
người ta bán hoa, đồ chơi, đồ kỷ niệm. Cô đi thong thả
không thèm nhìn lại đàng sau, có tôi ngơ ngẩn thần hồn
luồn lách qua đám người đông đảo. Tất nhiên cô biết tôi
không tiếc cái hộp đàn cũ, có ít tiền lẻ trong đó, nhưng cô
biết tôi cứ phải bám lấy cô, dù cô có bỏ chạy. Với hành
động quyết liệt đó thì tôi phải thua. Rồi June dừng lại
trước một cửa tiệm. Tôi bước tới mở cửa và hai chúng tôi
đi vào. Đó là một tiệm cà phê cũ xưa và quyến rũ như cái
bảng hiệu khắc nổi, sơn đã phai màu. June đưa cho tôi cái
hộp đàn và lại quầy mua hai ly cà phê với bánh donuts.
Chúng tôi tìm được một bàn ở tầng trên, cạnh cửa sổ. Ở
đây nhìn xuống một toàn cảnh bao la của vịnh biển xinh
đẹp. Ngoài xa những hòn đảo nhấp nhô, có những chiếc
phà trắng rẽ sóng qua lại.
Hình như chúng tôi đã quen nhau từ lâu lắm. Nàng đặt
xuống ly cà phê và bánh ngọt cho tôi rồi bắt đầu kể lể:
- Anh đừng vội trách em sao không chịu nói tiếng
Việt. Hai người đàn ông cứ ôm chặt lấy nhau, đâu có lúc
nào hở ra một chút để người ta chen vô? Với lại em cũng
muốn nghe người ta nói lén gì về mình chớ?
- Em nghe được những gì?
- Nhiều lắm. Anh Tiến ăn nói ẩu tả nhưng thành thật;
còn anh ít nói nhưng ma quỷ hơn bạn anh nhiều.
- Phải vậy không? nói rõ đi người đẹp.
- Anh Tiến lúc nào cũng diễu em là dân Mông Cổ,
làm như em chỉ có mông với cổ, còn tâm hồn người ta nữa
10
chứ? Có lần em vẽ thác nước đang chảy, dưới dòng có
mấy cục đá, anh ấy nói cục đá giống như mấy củ khoai
lang Tây; có giận không hà! em vẽ chưa xong mà. Ảnh
đâu rồi?
- Đi làm farm, mùa thu mới về. Anh có số điện thoại
của nó đây, gọi phôn mắng nó đi.
- Em dỡn thôi mà, em tha tội cho ảnh rồi!
- Thế em có tha tội ma quỷ cho anh không?
- Anh thiệt là quỷ quái. Anh đoán biết em là người
Việt, vì có lần sơ hở em mang guốc đi học, nhưng anh
không chịu làm quen với em bằng tiếng Việt. Em là con
gái đâu làm quen trước. Thế là anh dùng lối gậy ông đập
lưng ông - anh tán em quá trời - mà tán tỉnh em qua ông
bạn khờ khạo của anh.
- Thật vậy sao?
- Chứ còn gì nữa.
Nàng cười lớn, quay hẳn thế ngồi, chỉ tay ra biển: Nhà
em ở bên kia đảo
- Đâu? Căn nào, chỉ cho anh coi.
- Xa lắm, đi phà một giờ mới tới nơi – anh thiệt là
khéo nói chơi – làm sao mà thấy nhà được. Em để xe bên
ấy, qua bên này lấy bus tới trường.
- Anh muốn qua bên ấy có được không?
- Đâu có ai cấm anh đâu! Cứ việc mua vé phà rồi đi
qua, dễ ợt mà!
- Ý anh muốn nói là qua gõ cửa xin ở đợ nhà em, em
có mở cửa không?
- Chồng em sẽ ra mở cửa. Anh ấy chơi dao, chơi súng,
anh liệu sức mà qua.
11
Chúng tôi yên lặng mỗi người theo đuổi một ý nghĩ…
Tôi hẹn em mùa hè tôi sẽ đánh đàn ngoài chợ, em tìm đến
liền, bây giờ lại còn hù có chồng dao búa. Ừ mà cũng
không biết đâu chừng. Nhưng tôi vui với ý nghĩ đó.
- Cười gì vậy?
- Anh không có cười em.
- Có mà!
- Không có!
- Có…
- Thôi mình đi xuống bến phà đi, anh muốn xem mặt
tụi phà ấy…
Đứng trên hành lang cao có song sắt nhìn xuống chỗ
phà đậu. Chưa có cái nào về bến, chúng còn trên đường đi.
June nói:
- Phà ở đây lớn lắm, chở được hàng trăm xe hơi với
người. Để xe dưới đó đi lên tầng trên ngắm cảnh, ở đây có
bán thức ăn, đồ kỷ niệm.
Tôi nói với June:
- Xưa anh đi làm ở một nhiệm sở bên kia sông Cát
Lái, nên hàng ngày phải đi phà. Phà này chỉ chở được hai
ba cái xe hơi với đám người hỗn tạp đủ cả quân dân cán
chính. Phà đã rời bến cả thước mà lắm tên thanh niên bạo
gan còn phóng qua cái vèo. Có khi một bà quang gánh
thúng mủng kềnh càng, vừa lạch bạch chạy vừa gọi bác lái
phà ơi ới; lắm lúc bác lái cũng thương tình mở lại số de,
hạ cái mỏ bàn xuống, làm phước để đức cho con…
Mãi rồi cái phà trắng cũng đến. Nó to bằng cái chiến
hạm! Không, nó dềnh dàng bề ngang như một cái tầu chở
12
dầu thì đúng hơn. Khi sợi dây chận ngang được tháo gỡ,
các xe từ trong phà từng cái một chạy nhanh lên bến.
Lúc bấy giờ June rút trong túi ra một xấp vé phà, tình
tứ nhìn tôi rồi xé đưa cho một vé.
Tôi nói:
- Như vậy có nghĩa là chồng em ở bên đảo sẵn sàng
mở cửa mời anh vô nhà?
June không trả lời kéo tay tôi đi qua chỗ soát vé. Nàng
quá quen thuộc với phà, dẫn tôi đi đủ chỗ: tầng trên, tầng
dưới, có lúc chúng tôi ra phía mũi tầu để nhìn mấy con hải
âu bay lượn đằng trước. Tới lúc mỏi mệt chúng tôi tìm cái
ghế băng thật dài. Nàng nằm dựa vào người tôi như thể vợ
với chồng. Bây giờ cây đàn nằm trong hộp để dưới chân
thừa thãi vô dụng quá. Đàn ơi xin lỗi nghe! Làm sao tôi có
thể ngờ được nhịp đập từ trái tim yếu mềm lại rạo rực đến
thế; làm sao niềm hạnh phúc lại trào dâng phủ kín một đời
trai phong ba bão táp. Tôi ngồi yên không dám thở mạnh,
hệt như anh chăn cừu – trong truyện Những Vì Sao – khi
được người đẹp dựa vào vai mà ngủ. Nếu có điện thoại
trên tay tôi sẽ gọi cho Tiến:
- Tiến ơi! đã tìm được nàng Clementine chưa?
- Được rồi! có tới mấy nàng lận! nhưng mập như cái
lu, còn mày?
- Nàng Stephanette đang nằm đây, dựa vào vai tao mà
ngủ!
- Hôn em chưa?
- Chưa!
- Hôn đi chứ, còn đợi gì nữa hả thằng cù lần!
- Không được đâu, phải gượng nhẹ với những vì sao.
13
Mùa hè năm ấy chúng tôi quấn quít bên nhau, đâu đâu
cũng là kỷ niệm. Những chỗ tầm thường ghi dấu chân
nàng, nay cũng sáng lên trong tôi khung trời yêu thương.
Những chiếc phà trắng như những con thiên nga khổng lồ
lướt trong vịnh biển mờ sương chở chúng tôi qua lại miền
hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc nào chẳng chứa sẵn tai ương, cuối
tháng tám nàng báo cho tôi biết nàng sẽ đi đến một nơi xa
xôi bên kia đại dương; đừng yêu thương nữa, đừng tìm
kiếm, đuổi theo, rồi nàng bặt tăm. Sự việc ấy khiến tôi gục
xuống nhanh như một thân cây rừng trúng búa rìu của
những tiều phu lão luyện, như người lính đang chiến đấu
với niềm tin mãnh liệt, bị bỏ rơi năm nào. Mảnh hồn đau
thương rách nát ấy không kim chỉ, không thợ may lành
nghề nào có thể vá lại được, ngoại trừ sự trở về của nàng.
Một năm sau tôi nhận được thư nàng.
Anh yêu thương,
Bác sĩ bảo em không còn sống được bao lâu nữa. Bây
giờ anh chẳng còn nhận ra em đâu: mắt xanh đã phai màu,
môi nâu đang rướm máu. Mái tóc năm xưa anh vuốt ve
trìu mến nay đã rụng gần hết. Mỗi lần thay máu nhan sắc
cũ lại hiện về ve vuốt mối tình xưa, nhưng lại tàn phai
nhanh chóng. Ngoài trời gió mưa nhiều lắm, bóng đêm
dày đang đe dọa…
Ôi, nếu có anh ở đây em không chết đâu!…
Nhưng không biết đó có phải thật là thư của nàng
không, vì hôm sau tôi không tìm lại được đoạn thư đau
thương đó, tôi như cây rừng bị đốn gục, như người lính bị
bỏ rơi hoang mang điên loạn. Tôi ngờ rằng tôi đã lầm với
14
đoạn thư ngắn ngủi của nàng Graziella lúc hấp hối gửi cho
tình nhân.
Tôi chỉ còn mỗi một niềm vui là ra bến nhìn những
chiếc phà trắng rẽ nước ra đi. Nhưng bây giờ nó giống hệt
chiếc quan tài trắng, có những con hải âu cũng trắng toát
theo sau đưa tiễn.
Mãi tận hai mươi tháng sáu mới vào hè, bây giờ chỉ là
cuối xuân. Chiều cuối xuân năm nay ông ta lại mang xe
đạp ra hồ. Không còn trẻ trung như các thanh niên thiếu
nữ người bản xứ, với lại cuối xuân còn lạnh lắm, ông mặc
quần dài, thêm cái áo jacket, mắt mang kính lão mà tròng
cái helmet lên đầu trông thật kỳ dị. Nhưng không sao, chỉ
cần điều chỉnh dây buộc cho nón che hết trán, nhổng đuôi
sau lên là coi cũng đỡ.
Giờ này những cây đào Quanzan đã tàn hết những
bông hoa đỏ, nhưng nơi đây hoa cỏ mọc đầy, hết hoa đào
lại đến hoa khác đua sắc thắm tươi; vả lại ông ra đây đạp
xe để giữ gìn sức khỏe chứ không phải ngắm hoa. Hình
như ông rất ham sống và còn muốn sống mãi để đợi chờ.
Đường ven hồ bây giờ nhiều xe lắm. Tất nhiên xe hơi
vẫn tránh xe đạp, nhưng cẩn thận ông cho xe đạp lên hẳn
đường đi bộ.
Gió mơn man trên mặt hồ gợn song lăn tăn, những lá
súng tròn bằng bàn tay nổi đầy ven hồ, nhưng hoa súng
chưa trổ bông. Đàn vịt trời bé nhỏ đi hàng một và đâu đây
vang tiếng kêu xao xác của những con thiên nga xám lẫn
tiếng vỗ cánh phành phạch trên bãi cỏ xanh non.
Hồ này lớn lắm, chớ không phải như mấy cái hồ bé tí
teo nơi quê hương ông, nên thỉnh thoảng ông dừng xe
trong một cái park để ngắm nước ngắm trời rồi lại đi. Gần
15
đến cầu 90 ông giật mình thảng thốt vì một dáng người đi
dàng trước. Đúng là June của ông đây mà, cũng mái tóc
đen huyền, bước đi uyển chuyển tiên nga. Ông định gọi
tên cô và thét lên nỗi vui mừng nhưng ông kềm ngay lại
được. Ồ mà làm gì có June nữa nhỉ. June của ông đã bỏ đi
một nơi xa xôi mơ hồ nào từ hơn hai mươi năm trước cơ
mà? Có phải là thiếu nữ xuân tình kia không?
Đoạn này đường đi bộ chật hẹp nên ông không thể
vượt qua xem mặt nàng. Ông đi thật chậm, có lúc chống
chân đứng đợi; còn nàng cứ chậm rãi, chờn vờn hình bóng
trước ông. Rồi tới chỗ đường rộng, ông vượt qua bên phải
nàng, cẩn thận liếc ngang; nhưng hình như vô tình nàng lại
quay mặt ra đường. Ông vốn tính dịu dàng, không thích sỗ
sàng quá đáng nên không quay ngoắt hẳn người để nhìn
cho rõ hơn. Thế rồi ông tự an ủi: thôi cũng chẳng sao, nếu
cô ấy giống June, lại thêm đau lòng. Đến một cái park,
ông cho xe rẽ vào nghỉ ngơi. Định bụng lát nữa đi ngược
về xem cho rõ một lần. Park này khá lớn, có vài cầu bằng
gỗ đưa ra xa bờ để câu cá. Giờ này nước tràn lan lênh
láng, thường có cá lên theo ăn mồi, nên thỉnh thoảng cũng
có tiếng reo hò của những tay câu tài tử… Ông trở lại con
đường đi bộ ngay. Ngó bên trái: nàng chưa đi tới; ngó bên
phải: hình bóng nàng đã chờn vờn tận đằng xa. Lạ, sao đi
trông thơ thẩn mà nhanh quá vậy, thế là ông vội vã đuổi
theo. Nhưng lần này nàng lại quay mặt ra phía khác. Thấy
rờn rợn sau lưng, ông đạp nhanh hơn. Hay là ma quỷ trêu
ghẹo gì đây.
Qua cầu 90 một khúc xa, nhà cửa che lấp hồ. Những
ngôi nhà lộng lẫy có vườn được chăm sóc kỹ lưỡng. Thỉnh
thoảng có một lỗ hổng và ông lại trông thấy hồ. Trước mặt
16
ông là một nhà hàng Trung Hoa và bên kia đường có chợ
nhỏ. Ông dừng lại chống xe và đi vào tiệm ăn. Có lẽ cái
bàn nhỏ ông đang ngồi, kê cạnh cửa sổ là nơi lý tưởng để
chờ người đẹp đi qua. Ông gọi một món ăn nhẹ và nhâm
nhi ly trà. Rồi nàng tới thật, lần này nhìn thẳng vào ông.
Ông giật nhổm người lên. Đúng rồi, June đấy chứ còn ai:
áo dài tha thướt đi qua, hai tay cầm mấy bông mai quế, thứ
hoa hồng vàng tươi đẹp nhất mà có lần ông đã mê mẩn
ngắm nàng đi giữa đường phố trong ngày lễ hội.
Lật đật ông chạy ra quầy tính tiền, nhưng tiệm ăn khá
vắng này không phải lúc nào cũng có người ngồi trực ở
quầy. Ông càng bồn chồn nóng nảy hơn, không lẽ bỏ đi
ngang! Mãi sau mới có người đi ra. Không đợi lấy tiền dư,
ông phóng vội lên xe hăm hở đạp. Đạp mãi rồi quay trở lại
mà hình bóng June vẫn mất tăm. Vừa mệt mỏi vừa thất
vọng, ông dừng xe ở chỗ có tấm bảng đề public lakeshore.
Giữa hai dãy nhà cao là một đường ngắn chạy thẳng
xuống hồ. Một ít nước lóng lánh hiện ra cùng với đá tảng
và cây bụi. Ông dẫn xe xuống con đường đó và thấy ngay
đoạn bờ hồ ngắn ngủn nhưng thật đẹp. Người ta để sẵn ở
đó một ghế dài và một ghế dựa bằng gỗ phong còn rất
chắc chắn và đẹp dù thời gian với mưa nắng dãi dầu. Ông
dựng xe, ngồi xuống ghế dựa. Chung quanh ông hoa iris
tím đang nở, cánh mong manh, tỏa hương mùi hồng phấn
thơm ngát.
Ngày cũng sắp tàn, nắng tắt nhanh, gió đã lành lạnh
rung những bụi cây. Hai bên dãy nhà cao phía sau, đèn đã
lên; qua cửa kính rộng nhà ai đang sửa soạn dùng cơm
chiều. Giờ này căn nhà cổ rộng mênh mông của ông vắng
17
lặng, còn đợi ông về thắp lên chút ánh sáng lẻ loi đêm
đêm.
Rồi có tiếng rẽ nước của mái chèo, một con thuyền
nhỏ sắp lướt qua. Lần này ông thấy rõ ràng June ngồi trên
thuyền đang tươi cười nhìn ông. Tóc bay trong gió, đôi
mắt đen lánh, giọng nói con gái miền Tây ngọt ngào đả
đớt ở đầu giây bên kia mỗi lần ông gọi điện thoại:
- Hi! anh, anh có khỏe hôn?
Thế nhưng con thuyền nhỏ cứ lạnh lùng lướt qua và
mất dạng trong đám lau sậy với sương chiều. Lần này thì
ông biết rõ đó chỉ là ảo ảnh. Ảo ảnh bị thôi thúc hiện ra từ
nỗi tuyệt vọng đợi chờ. Và những giọt nước mắt nóng hổi
lăn trên má già nua, rơi nhanh xuống bàn tay có da nhăn
nheo cằn cỗi; lăn tới những cái móng tay cong queo nứt
nẻ. Những cái móng tay ấy ngày xưa ông đã búng trên sáu
sợi dây đàn những bản tình ca êm ái để ru người yêu dấu.
No comments:
Post a Comment