QUẢNG TRỊ ĐẤT ĐỢI VỀ.
Dương Nghiễm Mậu
Nổi tiếng với các tác phẩm Tuổi Nước Độc, Gào Thét, Buồn
Vàng, Con Sâu… Dương Nghiễm Mậu còn là một phóng viên Quân Đội từ 1966, sau
nhập ngũ. Các phóng sự tiền tuyến của nhà văn luôn bật lên sự tha thiết của quê
hương. Không phải là sự sống động của một trận đánh mà là sự nghiệt ngã của dân
chạy loạn. Câu hỏi mà Dương Nghiễm Mậu đặt ra: ”Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm
ngàn, con số còn bị kẹt lại khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật
lớn lao và thực sự là đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị.
Họ phải nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ, và về
chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi
người cộng sản đến. Không có dân, đất đai còn có nghĩa gì nữa?”; Quang cảnh mà
Dương Nghiễm Mậu chứng kiến: “Chung quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người
góp một câu chuyện, ai cũng trông mong được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại
quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ
kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con của bà đã chết trên
chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng
thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như những người dân
miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự do hoặc là chết…
Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa”; sẽ lặp lại
tháng 4-1975 rồi tiếp tục sau đó.
Với Bắc quân, câu hỏi còn nguyên: “Giải phóng gì?”
Thông tin không phá hủy chất văn, Quảng Trị Đất Đợi Về toát
ngời khí hậu của Mậu truyện mà người đọc còn nghe thấy “một không khí chìm chìm
nhưng đầy đe doạ”, còn trông thấy hoa phượng đã “trở thành những vũng máu đọng
chờ khô của một cái chết”. Thời điểm của phóng sự, là ngay sau khi Quảng Trị
thất thủ, Cộng quân áp sát sông Mỹ Chánh uy hiếp Huế.
[Trần Vũ]
Mỗi lần trước khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi:
ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về
sau hai mươi ngày công tác nói: trời đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa
sen. Bây giờ ngoài đó mùa hè và tôi nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến
đi cũ vào những thời gian đầu mùa hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa
sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai
trên ngọn cây trong Thành nội.
Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và
mưa nhỏ hạt. Người bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy
mây thấp trên phía đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con
đường qua đèo, người bạn nói: đi được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam
Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào. Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải,
tôi biết ở đó có hai cây cầu, tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước,
cây cầu mới xây cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có
tin cho biết cầu Nam Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói,
bây giờ thì cả hai nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những
sự di chuyển ướt át khiến cho thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.
No comments:
Post a Comment