NGƯỜI TÙ BINH
ĐÊM GIAO THỪA
-Phạm
Hồng Ân
I.
Tôi nhấc cái bao cát
Mỹ lên cao, trút tất cả gia tài vào khoảnh quần trây-di túm ống của thằng Đực.
Từ lọ dầu nhị thiên đường, thẻ bài cạo gió đến bọc ớt khô, đường chảy, thuốc
rê, mắm ruốc, v.v…
Thằng Đực vừa cột
ống quần, vừa đưa tay đuổi ruồi. Những con ruồi xanh mất dạy, ốm tong teo – cứ
chực chui vào mũi, vào tai, vào miệng… đám tù binh rách nát. Có con cả gan bu
thẳng lên mu tay thằng Đực. Chúng nhao nhao kêu tíu tít, chổng đít giành nhau
hút chất bầy nhầy trong các mụn ghẻ, làm thằng Đực trân mình… muốn són đái.
Tôi đứng bám vào
hàng rào kẽm gai. Hàng rào ngăn ngang, chia hai khu vực giam giữ khác nhau. Bên
này: tù chính trị. Bên kia: tù hình sự. Thằng Đực thuộc tù hình sự. Nó bị bắt
từ năm 1976 đến nay. Án: tập trung cải tạo, không ghi thời hạn. Bởi tội danh:
hành hung nhân viên công lực. Khi hỏi, tại sao đánh cán bộ? Nó lầm lì ngước mặt
lên mây xanh, như nói chuyện với đất trời. Mẹ, tại y cà chớn, tui quánh cho bõ
ghét…
Tôi thương thằng
Đực, vì nó thường chui rào qua khu chính trị, tìm tôi để xin thuốc. Nhiều lúc,
tôi cũng đói meo, nhờ nó tiếp tế cho một ít. Xin qua xin lại nhiều lần, riết
rồi thân nhau, coi nhau như anh em ruột thịt. Thằng Đực hút thuốc như ống khói
tàu. Nó vừa được vợ thăm nuôi tuần trước, vài tuần sau, người ta thấy nó cầm
bọc nilon đi lượm tàn thuốc khắp nơi. Tàn thuốc lượm về, nó ngắt bỏ chỗ đã hút,
rồi trút phần thuốc còn lại vào túi. Chịu khó như thế, chẳng bao lâu nó được
một túi thuốc lá tổng hợp rất ngon lành. Từ thuốc rê, xuân lộc, hoa mai, đà
lạt, tam đảo… đến bến thành, sài gòn giải phóng…, rồi có cả samit, đân-hiu, ba
số, v.v… Trời ơi, hương vị đậm đà! Mặc tình cho thằng Đực phun hơi nhả khói.
Chiều nay, chiều hai
tám Tết. Chốc nữa, tôi và mười chín bạn tù khác sẽ được cách ly, để ngày mai
trở về với gia đình. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ thôi, khi cánh cửa các lán tù
khép chặt lại, tôi sẽ thật sự xa thằng Đực, không biết bao giờ mới gặp lại.
Chốn thâm sơn cùng cốc này, dẫy đầy chướng khí.
Mấy tháng đầu đến
đây, tôi đã trải qua cơn sốt rét rừng tàn khốc. Thằng Đực phải đào tìm một loại
rễ cây rừng, về bó vào tay tôi để chặn cữ rét. Buổi chiều, khi hết giờ lao
động, nó nhảy ùm xuống dòng sông Đrây, lặng lẽ bơi ra xa, trầm ngâm đưa những
mụn ghẻ toang hoác ra nhử cá. Chất lầy nhầy tanh tanh của ghẻ lở, vậy mà lôi
cuốn được đám cá đói lạc loài nào đó. Chúng đến rỉa mồi, và thằng Đực trân mình
chịu đau… cho đến khi lòn tay phía dưới, bắt dính các chú cá mới thôi. Lần đó,
nó nấu cho tôi nồi cháo giải cảm tuyệt vời, ngon nhất trần đời.
Trại tù Xuyên Mộc là
một trong những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt ở miền Nam. Hằng ngày, bọn tôi
phải vào sâu trong rừng lao động nặng nhọc. Bữa ăn chính chỉ có loe hoe vài lát
khoai mì chua lè, hoặc dăm trái bắp đá nhai muốn rụng răng. Đói quá, bọn tôi
nhắm mắt lại, tưởng tượng đến mâm cao cỗ đầy trên bàn tiệc, để nuốt chúng vào
bụng. Nhưng càng nuốt, chúng càng dội ra, nóng ran cả cổ họng. Đói quá, bọn tôi
quơ luôn cả cỏ dại cây hoang cho vào nồi. Có đứa ăn nhầm nấm độc, ói mửa suốt
đêm, rồi nằm xuôi tay chờ tử thần đến mang đi.
Thằng Đực may mắn
hơn tôi, nó được vợ thăm nuôi đều đặn theo mỗi chu kỳ. Quà thăm nuôi của nó
chẳng nhiều, chỉ quanh đi quẩn lại khô, mắm ruốc, đường chảy, nước tương, thuốc
hút… Nhưng, theo nó, tình nghĩa của con Út (tên vợ nó) tràn trề. Quan trọng ở
chỗ thương yêu với nhau, lúc sa cơ thất thế như thế này.
Tôi bất hạnh hơn nó.
Ngày nào cũng nằm chèo queo, ngó ra cổng trại giam, trông tin vợ từng phút từng
giây. Càng trông vợ, càng nghĩ quẩn. Tôi nghĩ đến những mối tình gãy gánh giữa
đàng. Những người đàn bà nhẹ dạ, đành tâm sang ngang, từ chồng bỏ con trong
cảnh lao lung. Tôi nghĩ đến Tuyết, vợ tôi, đang chới với giữa dòng đời khốn
khổ. Liệu nàng có đứng vững được bằng đôi chân hiền thục, trước phong ba phũ
phàng của thời cuộc?
Chiều xuống dần. Mặt
trời vắt ngang trên các ngọn bằng lăng, chiếu ánh sáng gay gắt xuống trại tù.
Thằng Đực gãi háng sột soạt. Những mụn ghẻ tượng mủ xanh, chực vỡ ra, lầy nhầy
một cách xót xa. Chợt, nó lần xuống đáy quần, lôi ra lá thư chi chít chữ. Như
một con sóc ranh mãnh, nó lẹ làng dúi vào túi áo tôi.
-Anh về, nhớ ghé nhà
em. Tắm một chập cho sạch sẽ, mát mẻ. Đây là địa chỉ. Nhớ qua thẳng cầu chữ Y.
Quẹo bến Phạm Thế Hiển. Nhà em ở cuối bến. Có con hẻm đi vào…
Tôi ờ ờ, rít hơi
thuốc lá thật sâu, rồi ém khói lại trong buồng phổi. Tôi muốn thâu ngắn hình
ảnh thằng Đực vào tim, vào lòng. Tôi muốn giữ kỷ niệm với nó. Những kỷ niệm đầy
ắp tình thương, đầy ắp cay đắng ngọt bùi.
Tiếng còi bỗng vang
lên. Tiếng gã trật tự quát tháo ầm ĩ. Tù binh nhốn nháo khắp nơi. Họ chạy vội
ra sân, ngơ ngác nhìn xung quanh. Gã trật tự chấp hai bàn tay lại, đưa lên
ngang mồm, làm loa:
-Hai mươi tù sắp trả
tự do, tập họp. Chuẩn bị, chuyển trại.
Thằng Đực bỗng nẩy
người lên, dang rộng đôi tay, nhào thẳng vào lòng tôi. Nó ôm tôi cứng ngắc, như
sợ mất nhau. Nước mắt nó tuôn ra, lăn dài xuống má tôi, miệng tôi… mằn mặn.
-Về Bến Tre, nếu
thất nghiệp. Anh nhớ lên con Út, vợ em. Con Út có vựa trái cây ở Phạm Thế Hiển.
Nó sẽ bày anh cách mần ăn, kiếm sống.
Tôi ờ ờ, tìm cách
đẩy nó ra, chạy vội đến gã trật tự. Tôi không thèm quay đầu nhìn lại thằng Đực.
Bởi tôi sợ tôi mềm lòng. Rồi sẽ tệ hơn nó, khóc rống lên như một đứa con nít.
II.
Bến Phạm Thế Hiển
tấp nập và dọc ngang những túp lều ổ chuột. Con hẻm vào nhà Út rối rắm như hang
mối, chằng chịt những lối đi chia năm xẻ bảy. Tôi phân vân trước những lối đi.
Lối nào cũng chật hẹp, tối tăm và ẩm ướt một cách nhớp nhúa. Tôi lật lá thư ra,
hỏi thăm từng người. Cuối cùng, anh bán vé số dạo tình nguyện dắt tôi đến một
khoang xe cũ, phía trước có vô số vỏ chai ngổn ngang.
-Đấy! Nhà cô Út đấy!
Vào đi. Khom lưng xuống! Coi chừng, đụng cái trần cửa nghe cha nội!
Nhà Út là một khoang
xe đò cũ lâu đời. Vòm thấp, lỗ chỗ dấu mục nát. Chủ nhà phải che thêm vài tấm
cạc-tông để tránh mưa gió.
Tôi chui vào khoang
xe. Khoang xe như một hang động mù mờ. Nếu không có ngọn đèn dầu leo lét trên
bàn, tôi sẽ vấp ngã lung tung, bởi những đồ vật nằm vô trật tự trên sàn nhà.
Một bà già đang ngồi
nhai trầu bỏm bẻm, chào tôi.
-Thưa bác, cháu muốn
gặp cô Út.
Bà già chỉ chiếc ghế
trống.
-Cậu là khách quen
của con Út ư? Ngồi chơi, chờ chút. Nó mắc… đi khách.
Tôi lúng túng, nhìn
vào phía trong. Tấm ri-đô màu cứt ngựa chắn ngang. Những cử động kỳ quái nào
đó… đằng sau, dồn dập. Tiếng đàn bà lầu bầu, lẫn với tiếng quần áo loạt soạt,
tiếng cài khuy áo…
Rồi, tiếng gã đàn
ông cười khoái trá. Giọng cười như xé toạc không gian, bay vút vào đầu tôi,
khiến tôi choáng váng, quay cuồng. Tôi vội đứng dậy như lò xo, lấy lá thư ra,
buông xuống mặt bàn.
-Có thư gởi cho cô
Út.
Tôi chỉ nói có bấy
nhiêu lời. Xong, cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng ra khỏi con hẻm. Tôi không muốn
nhìn thấy Út. Không muốn nhìn thấy người đàn bà hiền thục mà thằng Đực luôn
mang ấn tượng đẹp đẽ trong lòng. Bây giờ, nàng đang làm cái nghề tệ hại nhất,
xót xa nhất của một kiếp người.
III.
Cồn Dơi hiện ra
trong ánh sáng nhá nhem cuối ngày. Mùi trái cây thoang thoảng. Mùi hương cau
thơm thơm, làm khứu giác của tôi chùng xuống, nôn nao một cách lạ kỳ. Chỉ còn
khoảng đê ngắn nữa, tôi sẽ tới nhà. Sẽ gặp lại Tuyết, gặp lại con thơ, gặp lại
hình ảnh thân yêu ngày nào. Rồi, việc gì xảy ra? Tuyết vẫn còn nguyên vẹn như
xưa? Hay như con đò tách bến sang sông? Hay như dòng nước bỏ nguồn ra biển?
Tôi lại nhớ đến con
Út. Nhớ cái vựa trái cây tưởng tượng của thằng Đực. Nhớ giọng cười khoái trá
của gã đàn ông dâm đãng. Nhớ từng điếu thuốc thơm, từng keo mắm ruốc, từng con
cá sặc mặn mòi. Nhớ những bữa cơm “huy hoàng” ăn ké với thằng Đực. Bữa cơm đẫm
giọt mồ hôi, đẫm giọt nước mắt tủi nhục của con Út.
Chỉ còn khúc quanh,
chừng mươi bước nữa, tôi sẽ đứng trước cây vú sữa ở sân nhà. Tôi sẽ gặp lại túp
lều nhỏ bé quen thuộc. Túp lều do chính tay tôi đẽo từng lỗ đủng đỉnh, chuốt
từng mảnh cau tươi, và hì hục dựng lên đường hoàng – trước khi khăn gói vào tù.
Túp lều được chị vợ tôi thương tình cho phép cất tạm, trên bờ đất ngoằn ngoèo
những rễ cây chôm chôm.
Tôi đứng nép vào cây
vú sữa, hồi hộp nhìn vào sân nhà. Thôi rồi! tất cả đã thay đổi hoàn toàn. Túp
lều thân yêu ngày xưa, giờ không còn nữa. Thay vào đấy, là mái nhà khang trang,
vách ván kín đáo. Và trời ơi! một gã đàn ông xa lạ nào đó, đang ngồi tỉnh queo,
hút thuốc trước cửa. Gã mặc áo thun, quần đùi – chừng như có vẻ quen thuộc với
căn nhà, từ lâu, rất lâu. Nghĩa là… không còn gì nói nữa. Tôi đã thua. Và đã
thua một cách thảm hại.
Sẽ không còn nguyên
do nào để ở đây, để nhìn thấy nỗi đau vô cùng đang thấm dần vào gan ruột. Tôi
phải đi. Đi khỏi đây. Về phương trời xa lạ nào khác dung thân, sống chuỗi ngày
tàn. Nhưng, trước khi bỏ đi, tôi phải gặp người chị vợ, chân thành nói lời cám
ơn, từ tạ. Phải gặp con tôi, đặt vào gò má thương yêu của nó một nụ hôn cuối
cùng.
Băng qua đoạn mương
cụt đầy lá khô, tôi quyết định bước vào nhà chị vợ. Vừa tới cửa, chị tôi mừng
rỡ reo to, rồi ôm chầm lấy tôi, nghẹn ngào.
-Em mới về đấy ư?
Sao? Có khổ lắm không? Lao động có cực không?
Tôi đẩy chị ra xa,
lạnh lùng như kẻ xa lạ:
-Tôi muốn gặp con
tôi lần cuối, trước khi tôi rời khỏi nơi đây…
Chị trợn mắt nhìn tôi.
Nhìn tôi từ đầu tới chân.
-Hả? Đi Đâu? Mày
muốn bỏ vợ con hử?
-Ai bỏ ai thì tự
biết lấy. Vậy chớ… thằng cha nội nào ngồi bên nhà tôi đó?
Tôi gằn giọng:
-Chị nói đi… Thằng
cha nội nào?
Chị vểnh môi, ngạc
nhiên. Rồi… nhào đến ôm chầm lấy tôi, cười khà khà:
-Thằng quỷ! Đó là
Hai Lộc. Anh ruột con Tuyết. Nó từ thành phố dọn về đây gần ba năm nay. Nó cất
nhà, thờ ông bà. Cái chòi đủng đỉnh của vợ chồng mày đã mục từ lâu, sập mẹ rồi!
Tôi há to mồm, nuốt
từng lời chị. Những lời chị tuôn ra, lúc này, giống những ngọn roi quất vào
lòng tôi, khiến tôi bật khóc lên như đứa con nít.
-Hai Lộc? Hai Lộc
hả? Trời ơi! mười năm rồi, không gặp nhau. Ảnh lạ quá! Nhìn không ra. Còn vợ
tôi? Con tôi? Hiện tại, ở đâu?
-Trời ơi! Em không
được thư của mấy đứa cháu sao?
-Có được thư từ chi
đâu? Sao? Chị cứ nói đi…
-Con Tuyết bịnh nặng
hơn sáu tháng qua. Nó bị trụy tim, nằm bệnh viện khá lâu. Nó đang nghỉ tạm nơi
nhà cô bảy ở Mỹ Tho.
Nghe được bấy nhiêu
lời. Tôi phóng thật nhanh ra sân, xách vội chiếc xe đạp của Hai Lộc đang dựng
bên gốc vú sữa. Tôi đạp lia lịa, băng qua khu vườn tối om om, chạy thẳng ra Bến
Tre, rồi nhảy xuống phà Rạch Miễu, vượt qua sông Tiền mênh mông, để về Mỹ Tho
gặp Tuyết, kịp giờ đón Giao thừa.
Tuyết nằm trên
giường, xanh xao vàng vọt như một tàu lá rũ. Cơn bệnh vật ngã nàng, làm thay
đổi toàn diện nhan sắc. Nhưng, nó đã không thể vật ngã được, không thể thay đổi
được lòng thủy chung của nàng. Tôi sà xuống, ôm nàng hôn như mưa bão điên
cuồng. Tuyết cười rạng rỡ, nụ cười tràn đầy nước mắt. Thứ nước mắt của hạnh
phúc vô cùng.
Đêm đó, tôi dìu
Tuyết thức dậy cùng đón Giao thừa. Chúng tôi như sống lại những ngày đầu tiên
vừa mới quen nhau, những ngày hạnh phúc nhất trên đời.
Và đêm đó, tôi đã
ngủ một giấc thật say sưa. Trong giấc ngủ, tôi chợt thấy thằng Đực hiện ra. Nó
hiện ra với thân thể đầy mụn ghẻ tanh hôi, nhưng tay vẫn khư khư ôm lấy cái bọc
nilon nhàu nát. Và cứ thế, nó lang thang khắp các lán tù, nhặt tàn thuốc vụn để
quên đời…
-Phạm Hồng Ân
No comments:
Post a Comment