Cái đồ vô tổ quốc!–the stateless
Lời tòa soạn: Bản Anh ngữ của truyện ngắn này (The Stateless) đã được phát thanh trong chương trình Truyện Ngắn Anh Ngữ của đài BBC vào Chủ Nhật, ngày 12 tháng 3 năm 1995, và in tại Hoa Kỳ trong tập Vietnam Review số Mùa Thu-Mùa Đông 1996.
Ông bước ra khỏi văn phòng của Nhân Viên Di Trú. Nửa mảnh giấy kẹp giữa ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải ông bay phần phật. Cái bàn tay chưa nguôi phấn khích vẫn còn run rẩy. Những giọt mồ hôi lấp lánh dường như rịn ra từ các nếp nhăn trên trán ông. Ông lau mặt bằng ống tay áo rách bên cánh tay trái.
Mọi chuyện đã kết thúc, tất cả những nỗ lực để thoát khỏi một phần đời tù đọng. Bất chợt, một cơn ho bị nén trong lồng ngực ông bật ra thành từng đợt co giật rời rạc, khiến hơi thở ông khò khè và giọng ông trở nên khàn đặc. Ông khom người, vòng tay ôm lấy bụng cố ghìm cơn ho thắt họng. Mọi chuyện đã qua; ít nhất là trong lúc này, những khổ đau mà ông gánh chịu đã tạm ngưng.
Ánh nắng đậu trên cành cây phía trên đầu ông. Những vệt sáng xuyên qua khoảng trống đan xen bởi lá cây, rơi xuống tạo thành những mảng vàng nhạt trên khuôn mặt ông. Làn da ông mang sắc vàng vọt u ám của bệnh sốt rét, căn bệnh ông đã mắc phải nhiều năm trước ở quê nhà.
“Dù gì thì mọi chuyện rồi cũng êm xuôi.” Một ý nghĩ lạc lối len lỏi qua tâm trí ông, được thốt ra thành tiếng bằng giọng khàn đục từ tận sâu trong cổ họng. Dù sao thì ông vẫn thấy hạnh phúc. Tất cả những trải nghiệm đau đớn đó cuối cùng đã chấm dứt. Ông nghĩ. “Nhưng liệu mình có vui mừng quá sớm không?” Ông gật đầu trầm ngâm khi băng qua khoảng sân đông đúc những người sống lưu vong giống như ông; những người có một quê hương, nhưng lại không có chốn để quay về; những người đã bị thế giới xếp vào loại “vô tổ quốc” – cũng như ông vậy. Ông nhớ đến cái chữ tiếng Anh Stateless, được nhân viên trong văn phòng phái đoàn di trú giải thích cho ông qua người thông dịch. Thậm chí ông còn đánh vần được từ đó một cách chính xác là S.T.A.T.E.L.E.S.S, dù tiếng Anh ông chỉ bập bẹ.
Một cơn gió thoảng qua chạm vào ông, vuốt ve mái tóc xám bẩn thỉu và khẽ lay tờ giấy trong tay phải ông, như nhắc nhở ông về chuyến đi – có lẽ là đến thiên đường – mà ông sắp thực hiện trong vài giờ tới. Đó quả là một phép màu. Ông cảm thấy biết ơn Thượng Đế. Vâng, tại sao không chứ? Ông hoàn toàn tin rằng nếu không có sự đoái thương của Thượng Đế, ông sẽ chết mòn trong trại tị nạn này không biết đến bao giờ. Với một kẻ nghèo khổ, bệnh tật, già nua và vô tổ quốc như ông, được phép đến một quốc gia phương Tây hiện đại thực sự là một phép màu.
Sự kiện kỳ diệu đó xảy ra một cách tự nhiên, như khi ông bật công tắc thì ngọn đèn sáng lên. Ông nhớ vẻ mặt của viên chức di trú, người đã phỏng vấn ông vài tháng trước. Chỉ một nụ cười trên khuôn mặt nhân hậu ấy; một cái gật đầu khoan dung – và mọi chuyện ổn thỏa. Ông được phép đến đất nước vĩ đại, tốt đẹp, rộng lớn ấy và ở lại đó để giải phẫu lấy khối u ra. Chẳng phải đó là một phép màu sao?
Tiếng ồn từ chiếc loa làm rung chuyển cả không khí, kéo ông ra khỏi hố sâu của cơn mộng mị giữa ban ngày. Một cơn hoảng loạn bất chợt ập đến khiến tim ông thắt lại. Ông vừa sực nhớ ra rằng mình phải sẵn sàng trong vòng mười phút nữa, nếu muốn kịp chuyến bay. Đám nhân viên trẻ ấy chẳng bao giờ để tâm đến những người già như ông. Họ thậm chí còn không nhắc gì đến việc hôm nay là ngày ông rời trại – để bay đến đất nước thứ ba – miền thiên đường kỳ bí ở cuối đường hầm. Ông lúng túng chạy vào túp lều làm bằng tre, lá dừa và bìa các-tông. Đó là “ngôi nhà” của ông trong trại tị nạn. Ông đã sống ở đây được bốn năm, bảy tháng và sáu ngày rưỡi. Sự đãng trí của tuổi già có thể xóa sạch mọi thứ khỏi trí nhớ, nhưng không xóa được khái niệm về thời gian. Ông phải gấp rút thu dọn hành lý. Nhưng rồi ông chợt nhận ra, mình chẳng có gì trong nơi trú ẩn này có thể gọi là tài sản. Ông khoác thêm một chiếc áo bên ngoài chiếc đang mặc, rồi xỏ đôi chân khô cằn, cong queo như hai khúc gỗ vào đôi giày mới được một tổ chức từ thiện trao tặng vài ngày trước. Ông nhìn vũng không gian trống trải. Một tấm ván rộng, được chống hai đầu bằng hai khúc gỗ lớn, là chiếc giường – cũng là tài sản duy nhất của ông. Ông vỗ nhẹ vào góc “giường”. Tấm ván cứng và ấm, như thể hơi ấm từ thân thể ông đã in hằn lên mặt gỗ. Cổ họng ông ngứa rát. Một cảm xúc không tên nghẹn lại trong lòng. Bất chợt ông bật ho dữ dội. Cơn đau ở bụng khiến ông phải gập người xuống. Tiếng loa lại vang lên, nhắc ông rằng mình đã trễ giờ lên máy bay. Như một con vịt lội trong bùn, ông lúng túng chạy ra khỏi “ngôi nhà” của mình, hướng về văn phòng trại.
Như thường lệ, máy bay bị trễ, chuyến bay bị hoãn vài tiếng đồng hồ. Nhưng cuối cùng thì ông cũng đã ở đó, ấm áp cuộn mình trong chiếc chăn lông mịn, ngồi ở ghế gần cuối máy bay. Cảm giác phấn khích trào dâng trong lòng ông. Ông mơ về đất nước mà mình sắp trở thành một phần dân cư của nó, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Cô tiếp viên hàng không, với nụ cười trên môi, tiến đến hỏi ông có muốn ăn gì không, vì lúc bữa ăn chính được phục vụ trên máy bay, ông đang ngủ. Ông vội vàng lắc đầu dù không hiểu rõ cô nói gì. Dù sao thì ông cũng đâu có đói miếng ăn – thứ ông đang đói là tự do, là phẩm giá và nhân tính. Và ông cần một nơi để gọi là nhà.
Cô tiếp viên bước đi; nụ cười trên gương mặt cô héo lại như chiếc lá mùa thu khô. Ông không để ý đến cô. Điều ông cần chỉ là một từ – không cần dài dòng – trên một khoảng trống nhỏ của tờ giấy di trú, để chỉ rằng ông thuộc về một đất nước nào đó – bất kỳ đất nước nào. Ông đã bị gọi là “vô tổ quốc” quá lâu rồi. Ông phát ngán vì điều đó. Ông cần một nơi để gọi là nhà. Những giọt nước mắt nóng hổi rỉ ra từ khóe mắt. Trong ba mươi ngày tới, ông sẽ sống ở một quốc gia tự do, tốt đẹp và tân tiến. Quốc gia ấy đã được mô tả là phát triển, nhưng ông tự hỏi liệu nó có được điều hành bởi những con người thực sự văn minh, tiến bộ hay không. Ông hy vọng vậy…
Những giọt nước mắt lăn chầm chậm, uốn lượn trên đôi má hóp của ông, chảy xuống cằm, khiến ông cảm thấy nhột nhạt. Lần cuối cùng ông khóc là từ rất lâu rồi – khi đứa con trai duy nhất của ông bị giết bởi một quả lựu đạn, ném vào đám đông bởi một bàn tay xa lạ. Họ – (Có Trời mới biết “họ” là ai) – đã giết con trai ông nhân danh một điều gì đó tốt đẹp. Đó là quy luật của chiến tranh, đã tồn tại suốt hàng ngàn năm, kể từ khi con người hiện diện trên trái đất. Ông không muốn trách ai cả, nhưng…
Ông cố gắng không nghĩ đến quá khứ đầy đau thương. Tương lai đang ở ngay phía trước. Ba mươi ngày trong bệnh viện tại một quốc gia phát triển – và ai biết được, có thể sẽ có cách nào đó để ông được phép ở lại đất nước ấy như một người nhập cư hợp pháp. Ông đã quá mệt mỏi khi bị coi là vô tổ quốc. Ông đã chịu đựng đủ rồi. Tất cả hành khách trên máy bay dường như đều im lặng. Không ai để ý đến ông. Những con người này đối với ông giống như người ngoài hành tinh. Ông lau đi những giọt nước mắt từ đôi mắt đỏ ngầu, nhắm mắt lại và cố gắng mơ về tương lai. Ông biết rằng đối với một người ở tuổi ông, việc mơ về tương lai có thể là điều nực cười – nhưng vào lúc này, ông còn có thể làm gì khác?
Máy bay hạ cánh êm đến mức ông không nhận ra mình đã đặt chân đến một đất nước mới. Khi cô tiếp viên đánh thức ông dậy, ông ngơ ngác một lúc. Mùi bùn và rác thối từ trại tị nạn vẫn còn ám ảnh các giác quan của ông. Ông bước theo những hành khách cuối cùng về phía cửa bên mở ra từ thân máy bay. Ánh nắng chan hòa khiến ông nghẹt thở khi bước xuống bậc thang. Mặt trời ở đất nước này dường như sáng hơn và dịu hơn so với những gì ông từng thấy ở quê nhà và trong trại. Ông ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào ánh mặt trời chói lòa, như thể đang gửi lời tạ ơn đến một đấng thần linh nào đó nơi cao xa. Đất nước được ban phước lành này thật xinh đẹp. Ông sẽ yêu mến nơi này. “Xin hãy cho tôi ở lại; tôi đã quá mệt mỏi với kiếp sống vô tổ quốc; làm ơn…” Cảm xúc tuôn trào từ lồng ngực ông như một lời cầu nguyện đơn điệu và trang nghiêm.
Ông bước hụt và ngã xuống cầu thang như một chiếc túi hành lý. Mặt trời rực rỡ của quốc gia tiếp nhận dường như không mảy may quan tâm đến ông. Người ta khiêng ông đến trạm cấp cứu sân bay như khiêng một túi hành lý. Thực ra ông còn nhẹ hơn bất kỳ bọc hành lý nào mà người ta mang lên máy bay.
Ông được xác nhận đã chết tại chỗ.
Thi thể của ông lão tội nghiệp được để lại trên băng ghế bên trong trạm y tế sân bay suốt vài tiếng đồng hồ. Giới chức thẩm quyền đang gặp khó khăn trong việc xác định họ nên xử lý thế nào với người đã khuất. Cô y tá trực tại trạm ngồi bên bàn làm việc, nhìn về phía gương mặt vàng vọt của ông lão đang nằm bất động bên kia căn phòng. Phải làm gì đó ngay lập tức. Một vệt cười mờ nhạt vẫn còn lảng vảng trên khuôn mặt nhăn nheo của ông lão. Cô y tá cảm thấy bất an khi có thi thể của ông ở đó. Trước đây chưa bao giờ xảy ra chuyện này. Lẽ ra họ phải đưa thi thể ông đến nhà xác, nhưng không thể – vì ông không phải là công dân, cũng không phải là người nhập cư hợp pháp. Họ dự định sẽ đưa ông trở lại trại tị nạn. Quốc gia này đã đủ nhân đạo khi cho phép ông đến đây để cắt bỏ khối u trong phổi – nhưng điều kiện là ông phải còn sống, để trả ông về lại trại tị nạn sau khi điều trị xong.
Cô y tá mệt mỏi vì phải chờ đợi. Cô bồn chồn không yên. Cô chẳng thể làm gì ngoài việc tiếp tục chờ. Giới chức ở đây đã gọi cho quốc gia bảo trợ, để thông báo về cái chết của ông, và họ đang chờ câu trả lời. Sự hợp tác toàn cầu là điều thiết yếu vì lợi ích chung của thế giới. Cô y tá liếc nhìn gương mặt ông lão. Điều khiến cô bận tâm là cô không thể hiểu được tại sao một con người lại có thể nở một nụ cười như thế – khi đang bước qua cánh cửa của cái chết.
Khi mặt trời – một mặt trời sáng hơn và dịu hơn – đang dần lặn sau những tòa nhà chọc trời quanh sân bay, một bức điện tín được gửi đến từ quốc gia bảo trợ của ông lão. Họ gọi điện đến sân bay. Ngay khi nghe tiếng chuông vang lên từ chiếc điện thoại đen trên bàn làm việc, cô y tá bật dậy và chộp lấy ống nghe. Cô nắm chặt ống nghe bằng tất cả sức lực của bàn tay, như thể nó có thể biến mất bất cứ lúc nào. Giọng nói của người đàn ông làm cô điếng người. Cô y tá không thể tin vào tai mình – nhưng đó là sự thật. Cô phẫn nộ với người đàn ông ấy, dù cô rất rõ rằng ông ta chỉ là người truyền đạt thông điệp từ quốc gia bảo trợ của ông lão.
“Ông ấy không phải là công dân của quốc gia đó, và họ không cho phép ông ấy trở lại.”
“Nhưng tại sao?” cô y tá hỏi.
“Bởi vì ông ấy là người vô tổ quốc,” người đàn ông trả lời.
“Nhưng ông ấy đã chết rồi, liệu mình có thể chôn cất ông ấy ở đây không?”
“Rất tiếc… không thể được.”
“Tại sao?” cô y tá hét lên trong ống nghe, giọng đầy cay đắng.
“Tình trạng pháp lý của ông ấy ở đây không rõ ràng, giấy tờ cho thấy ông ấy là người vô tổ quốc,” người đàn ông đáp, bằng giọng đều đều, dửng dưng.
Cô y tá nhìn chằm chằm vào khuôn mặt vẫn còn mang nét cười thờ ơ của người đã khuất. Sự sợ hãi sôi lên trong huyết quản cô. Cô gác máy một cách đột ngột; lẩm bẩm một mình với giọng thì thầm yếu ớt, “Cái đồ vô tổ quốc! Tại sao ông lại phải là một người vô tổ quốc chứ?” Cô quay lại nhìn vào gương mặt của người chết. Cô nghĩ rằng ông cần một tấm vải liệm. Cô phải đi tìm một tấm khăn trải giường ngay lập tức. Dù sao đi nữa, cô cũng ghét khóe cười thách thức ấy trên mặt ông già.
the stateless
This story has been broadcast on the BBC English Short Story Programme, on Sunday March 12, 1995 and published in Vietnam Review Fall & Winter issue (1996)
He stepped out of the office of the Immigration Delegation. The free half of a piece of paper fluttering between the thumb and the index finger of his right hand which was still tremblingly satiated with excitement. Sparkling sweat seemed to ooze from the wrinkles of his forehead. He wiped his face with the torn sleeve of his left arm.
It was over, all those struggles to avoid a restless life. Suddenly, puffs of air compressed in his thoracic cage were thrust out in sporadic spasms making his voice hoarse and low. He bent forward, clutching his arms around his stomach, as if to squeeze the erratic cough. It was over; at least for the time being, all those sufferings he has been experiencing.
Sunlight perching on branches of the tree above his head. Blots of light filtered through the leaf woven spaces, dropped yellowish patches on his face. His skin was painted with dull jaundiced colour of malaria, which he had contracted years ago in his home country.
“This must come to an end, somehow.” A wandering thought leaking through his mind, vocalized in a hoarse voice deep down inside his throat. He was happy anyway. All those harrowing experiences were finally ended. He thought. “But was it too soon for me to be happy?”. He nodded pensively as he crossed the yard crowded with people in exile like himself; those who have a home country, but still no place to return; those who have been classified as the stateless-like himself-by the world. He remembered the word STATELESS, which was explained to him through the interpreter by the officer in the immigration delegation office. He could even spell it correctly as S.T.A.T.E.L.E.S.S. though he could speak just a few words of English.
A gust of wind touched him, caressing his dirty grey hair and tapping the paper in his right hand, reminding him of the trip; to heaven, perhaps, that he was going to take in the next few hours. It was a miracle. He felt grateful to God. Yes, why not? He was quite sure that without God’s help, he would perish in this camp until who knew when. It must be a miracle for a poor, sick, old stateless like himself to be allowed to go to a modern western country.
That wonderful event just happened naturally the way a lamp was lit when he turned the switch on. He remembered the look on the face of the immigrant officer, who had interviewed him months ago. Just a smile on that man’s kind face; a nod of his tolerable head and it turned out alright. He was allowed to go to that great, nice, enormous country and remained there, to have his tumour removed. Wasn’t it a miracle?
The noise from the loudspeaker shook the air, and woke him up from the depth of his daydream. He was immediately stricken by a pang of panic. He just remembered that he must be ready in ten minutes, if he wanted to catch the plane. Those young people never paid attention to old folks like himself. They didn’t even mention to him, that he was supposed to leave the camp today; to fly to the third country; the mysterious heaven at the end of the tunnel. He ran awkwardly into the hut made of bamboo sticks, palm tree leaves and cardboards. This was his home in the refugee camp. He has been living there for four years, seven months and six days and a half. Old age amnesia could erase everything from his memory but the time concept. He must hurry to pack his luggage. But he realized at once, that he did not have anything to call his in this shelter. He put on another shirt outside the shirt he was wearing, and slipped his feet that were stuntedly dry as two logs of wood, into the new pair of shoes that were given him by a charity organization a few days ago. He looked around the empty space. A wide plank of wood supported on both ends by two thick logs of wood, served as his bed, is the only property he owned. He patted the corner of the “bed”. The “bed” was hard and warm, as if the warmth of his body had been glued to the wood. His throat got itchy. An unknown emotion was choking him. Suddenly he coughed violently. The pain in the stomach forced him to double up. The voice from the loudspeaker hit him again, and reminded him that he was already late for the flight. Like a duck wading in mud, he ran awkwardly out of his “home” toward the camp office.
As usual, the plane was late, and the flight was delayed for a few hours. But finally he was there, cosily buried under a fuzzy blanket, in his seat, near the rear of the plane. The excitement took over his feeling. He was dreaming about the country that he was going to be a part of its population, though for just a short period of time. The stewardess with a smile on her face came to him to ask if he wanted something to eat, since he had been sleeping when she had served the main meal on board. He shook his head hastily though he did not understand what she said. After all, he was not hungry for food, he was just hungry for liberty, for dignity and humanity. And he needed a place to call home.
The stewardess left; the smile on her face shrank like a dry sheet of autumn leave. He did not pay attention to her. What he needed is a word; not any word, on a small space of his immigration paper, to indicate that he belonged to a country-any country. He had been called a stateless long enough. He was sick of it. He needed a place to call home. Hot tears oozed out of his eyelids. In the next thirty days, he would be in a free, good, developed country. The country has been described as developed, but he wondered if it has been run by civilizedly developed people. He hoped…
Teardrops, running sinuously and slowly on his hollow cheeks, down to his chin, tickled him. The last time he cried was long ago, when his only son had been killed by a grenade, thrown into the crowd by an unknown hand. They (Heaven knew who they were) killed his son in the name of something good. These were the norms of war for thousands of years, since the beginning of human era on the earth. He did not want to blame anybody but…
He tried not to think about the harrowing past. The future was right ahead. Thirty days in hospital in a well developed country, and who knew if there would be some way that he might be allowed to stay in that country as a landed immigrant. He has been tired of being considered as a stateless. He has suffered enough. All the passengers on the plane seemed to be quiet. Nobody paid attention to him. These people looked like alien to him. He wiped the tears off his blood-shot eyes, closed his eyes and tried to dream about the future. He knew that it could be ridiculous for a man of his age to dream about the future, but what else could he do at the moment?
The plane landed so smoothly that he did not realize that he already arrived in the new country. As the stewardess woke him up, he was confused for a while. The foul smell of mud and garbage in the camp was still haunting his sense. He followed the last passengers toward the side door opening through the fuselage. Sunlight overflowed and choked him as he stepped down the staircase. The sun in this country seemed to be brighter and softer than the ones he had seen in his country and in the camp. He turned his face up and looked right at the dazzling sun, as if he were sending his grateful emotion to a god somewhere up there. This blessed country was beautiful. He would love it here. “Please allow me to stay; I have been fed up of being stateless; so please…” His emotions gushed out of his chest as a monotonously solemn prayer.
He missed a step and fell down the stair like a bag of luggage. The bright sun of the host country seemed to show no concern for him. People carried him to the first-aid station of the airport like carrying a real bag of luggage. He actually was lighter than any bag of luggage people carried on the plane. He was pronounced dead on the scene.
The body of the poor old man was left on the bench inside the first-aid station of the airport for a few hours. The authority was having difficulty determining what they should do with the dead. The nurse on duty at the station sat at her desk, looking at the yellowish face of the old man lying there, across the room. Something must be done immediately. A ghost of a smile still lingering on the wrinkled face of the old man. The nurse felt uneasy in the presence of the old man’s body. This never happened before. They should have brought the dead to a morgue, but they couldn’t because he was neither a citizen nor a landed immigrant. They intended to send him back to the refugee camp. This country was humanitarian enough to allow him to come here, to have the tumour in his lung removed, but he was supposed to stay alive, and go back to the camp after the treatment.
The nurse was tired of waiting. She was in a fidget. There was nothing she could do but waiting. The authority here had called the country of asylum, to inform the authority there about his death, and they had been waiting for the answer. Global cooperation was essential for the mutual benefit of the world. The nurse threw a glance at the face of the old man. What bothered her was that she couldn’t understand why a man could have such a smile, while stepping into the door of death.
When the sun; the brighter and softer sun, was declining behind giant skyscrapers around the airport, a telegram was sent to the airport from the country of asylum of the old man. And they phoned the airport. As long as she heard the ringing sound from the black phone on her desk, the nurse jumped up and grasped the receiver. She held the receiver with all the strength of her hand, as if it were going to disappear. The man’s voice paralysed her. The nurse couldn’t believe her ear, but it was real. She was infuriated at the man, even though she knew very clearly that he just passed the message to her, from the country of asylum of the old man.
“He is not a citizen of that country, and they do not allow him to come back to their country.”
“But why?” Asked the nurse.
“Because he is a stateless,” said the man on the phone.
“But he is dead, can we bury him here, in our country?”
“I am sorry but we can not.”
“Why?” shouted the nurse, into the mouthpiece, with harsh bitterness in her voice.
“His status here is not clear, his papers showed that he is stateless,” answered the man, in a monotonous, nonchalant tune.
The nurse stared at the face of the dead, which was still masked by the negligent smile. Fright was boiling in her blood. She hung up the phone abruptly; mumbling to herself in a low, feeble voice, “Stateless! Stateless! Why do you have to be stateless?”
She turned around and looked at the face of the dead. She thought that the dead needed a shroud. She must look for a bedsheet at once. She hated that defiant smile on his face anyway.
Bạn có thể nghe phần Việt ngữ do tác giả diễn đọc và phần Anh ngữ do đài BBC thực hiện trên Youtube.
No comments:
Post a Comment