Tuesday, July 22, 2025

BUỒN VIỄN XỨ KHÔN KHUÂY! (THƠ- QUANG DŨNG/ TẢN MẠN PHẠM HIỀN MÂY)

 BUỒN VIỄN XỨ KHÔN KHUÂY!



******

I. NHÀ THƠ QUANG DŨNG

Nói đến Quang Dũng, trước tiên, là phải nói đến một người lính.

Và trong lòng của nhiều người mến mộ, suốt tám mươi năm nay, ông chính là một tượng đài - tượng đài người lính. Tượng đài của những chiến binh quả cảm, dũng cảm ra đi, cầm súng, bảo vệ quê hương, giữ gìn non sông một dải gấm hoa.

Dù máu đổ, dù đầu rơi, dù phơi thây ngoài sa trường, dù không hy vọng ngày trở về gặp lại mẹ già, con thơ, vợ dại, vẫn đi.

Vẫn quyết chí ra đi. Tổ Quốc Việt Nam là trên hết. Đất nước Việt Nam là trên hết. Còn Tổ Quốc, mới còn gia đình. Còn đất nước, mới còn ta.

Nhà thơ, nhà văn, họa sĩ Quang Dũng sinh năm 1921 và mất năm 1988. Ông là tác giả của các bài thơ đi cùng năm tháng, như: Tây Tiến, Đôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây.

Các bài thơ trên, được hai nhạc sĩ gạo cội của Việt Nam, phổ thành các ca khúc cùng tên, Phạm Duy với Tây Tiến và Phạm Đình Chương với Đôi Mắt Người Sơn Tây (phổ từ hai bài Đôi Bờ và Mắt Người Sơn Tây).

******

II. BÀI THƠ ĐÔI BỜ

Đôi Bờ là một bài thơ đẹp. Không chỉ đẹp chữ, đẹp ý, đẹp tình mà còn đẹp ở cả người được nhắc đến trong thơ. Đẹp, là bởi vì nó thật. Nó thật ở lứa tuổi mười bảy, mười tám, đôi mươi, chập chững bước vào đời với bao ước vọng, mộng mơ, chập chững biết buồn, chập chững biết đau vì những chia xa và cách biệt.

ĐÔI BỜ

Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai

Sông xa từng lớp lớp mưa dài

Mắt kia em có sầu cô quạnh

Khi chớm thu về một sớm mai

Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự

Kinh thành em có nhớ bên tê

Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến

Hiu hắt chiều sông lạnh bến tề

Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một đêm mơ

Xa quá rồi em người mỗi ngả

Đôi bờ đất nước nhớ thương nhau

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

Dòng lệ thơ ngây có dạt dào.

(1948)

******

II.1. THƯƠNG NHỚ Ơ HỜ, THƯƠNG NHỚ AI

Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai

Sông xa từng lớp lớp mưa dài

Mắt kia em có sầu cô quạnh

Khi chớm thu về một sớm mai

Trời ơi là não nùng. Phải buột ra câu xúc động như thế, phải thốt lên tiếng kêu như thế, thì may ra, mới diễn tả được cảm xúc của người nghe, là tôi, lúc này. Lòng như đương bị ai vặn xoắn, giữa bốn bề là rừng núi cô liêu, sông thì xa tít mù khơi, trên sông thì lớp lớp mưa dài. Sông hay mắt em mà quá đỗi quá chừng cô quạnh, quá đỗi quá chừng muôn trùng, trong một chớm thu về buổi sớm mai.

Khắc khoải và da diết làm sao.

******

II.2. HIU HẮT CHIỀU SÔNG LẠNH BẾN TỀ

Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự

Kinh thành em có nhớ bên tê

Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến

Hiu hắt chiều sông lạnh bến tề

Vẫn là một nỗi u hoài ấy, vẹn nguyên, chiếm lấy hồn chiến sĩ. Làm sao mà vui cho đặng, khi ở chốn kinh thành kia hoa lệ kia, vẫn còn người em dấu yêu, người nắm giữ trái tim của chàng trai đang ngoài trận tuyến. Mà trời thì mưa hoài. Mà sông thì lạnh mãi. Lấy gì sưởi ấm nỗi yêu xa.

******

II.3. THOÁNG HIỆN EM VỀ TRONG ĐÁY CỐC

Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một đêm mơ

Chỉ có bốn khổ thơ thôi mà đã hết ba khổ, Quang Dũng nhắc về sông, về dòng sông. Sông thì chảy xuôi, đã trôi là trôi mãi, chẳng về. Hình ảnh dòng sông trong thơ, bao giờ cũng là chốn của chia ly, là điềm báo của ly biệt, bao giờ cũng là nỗi cô đơn, của cả kẻ ở lẫn người đi.

Những đêm không ngủ được, anh ra sông. Khói thuốc trên tay dẫn anh về chuyện cũ. Chiếc ly anh cầm, sóng sánh nước, đáy ly, dường, bóng dáng em, dường, mái tóc em, dường, mắt biếc em, và đôi môi nữa, cùng anh trò chuyện, thâu canh.

Tất cả mới vừa đây mà bây giờ đã hun hút, vời xa.

******

II.4. ĐÔI BỜ ĐẤT NƯỚC NHỚ THƯƠNG NHAU

Xa quá rồi em người mỗi ngả

Đôi bờ đất nước nhớ thương nhau

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

Dòng lệ thơ ngây có dạt dào.

Nhưng tất cả chỉ là mơ thôi. Giờ đây đôi ta, hai đầu xa tít. Em có buồn anh không? Có trách anh, có giận anh, bỏ em lại một mình? Có tủi hờn, khi giờ đây, không còn anh bên cạnh.

******

III. BÀI THƠ MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

Bài thơ Mắt Người Sơn Tây, đến nay, có rất nhiều dị bản. Ngay chính cả tác giả, khi chép tay lại, các bản cũng khác nhau. Sách in ra, mỗi lần, cũng khác nhau. Kể cả những câu chuyện, những đồn thổi về lý do ra đời bài thơ này, cũng vô số.

Tôi tạm dùng bản của Thi Viện. Và tất cả những gì tôi viết ở đây, đều chỉ là cảm nhận của tôi.

Chỉ của riêng tôi mà thôi.

Người ta thường thắc mắc, Quang Dũng viết bài này để tặng cho người tình của ông, hay là, người con gái trong bài, chỉ là một bóng hình qua, từng qua, trong cuộc đời ông?

Nhưng khi đặt ra câu hỏi này, thì liệu điều đó, có dẫn đến cách nhìn, cách nghĩ khác nhau về bài thơ không?

Tôi nghĩ là không.

Thay vì cứ mải miết đi tìm, mắt người Sơn Tây kia là ai, thì tôi chọn việc đọc bài thơ và cảm nó theo những gì tôi đọc được.

MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vừng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương

Từ độ thu về hoang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan

Mẹ tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều lưu lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Tôi gửi niềm nhớ thương

Em mang giùm tôi nhé

Ngày trở lại quê hương

Khúc hoàn ca rớm lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng

Sông đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa

Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca

Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ

Em có bao giờ em nhớ ta.

(1949)

******

III.1. TÔI TỪ CHINH CHIẾN CŨNG RA ĐI

Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Tôi và em, hai nhân vật chính ở trong bài. Một người thì từ Tây Sơn, chạy giặc, một người thì lên đường đánh giặc, và, họ gặp nhau.

******

III.2. TÔI NHỚ XỨ ĐOÀI MÂY TRẮNG LẮM

Vừng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương

Người con gái mà ông tình cờ gặp đó, có đôi mắt rất đẹp, giống người Tây Phương. Sơn Tây nằm ở phía Tây của kinh thành Thăng Long, còn một tên gọi khác nữa là xứ Đoài.

Ngắm đôi mắt ấy, tác giả mường tượng về một xứ Đoài đầy mây trắng, và ông hỏi thầm, em có bao giờ em nhớ thương?

Nhớ thương ai? Nhớ thương xứ sở mình hay nhớ thương về một người yêu đương còn xa vắng? Thơ là như thế. Thơ chính là như thế, thơ buông lơi, thơ lững lờ, để bạn đọc tha hồ mà phiêu du, tha hồ mà phiêu bồng trong vẽ ra của mình, trong tưởng ra của mình.

Thơ là như thế. Thơ bất khả giải. Thơ là chỗ nhòe của những lằn ranh.

******

III.3. EM CÓ BAO GIỜ LỆ CHỨA CHAN

Từ độ thu về hoang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan

Đất mẹ giờ đây điêu tàn và đau thương xiết bao. Non nước giờ đây hao gầy và u buồn xiết bao. Vậy mà lúc này, anh phải biên cương trực chiến. Nơi chôn nhau cắt rốn, càng tưởng chừng như xa quá chừng xa.

Cảm giác thiếu quê hương làm anh thêm cô đơn, trống trải. Anh giống như đất đá ong khô kia, nước mắt từ khóe nứt ra, ứa ra, từ độ thu về.

Còn em, em có bao giờ lệ chứa chan?

******

III.4. MẸ TÔI EM CÓ GẶP ĐÂU KHÔNG

Mẹ tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Đương từ chỗ hỏi, em có bao giờ lê chứa chan, và cũng chẳng đợi em trả lời, tác giả lại hỏi tiếp, dồn dập, về mẹ, về những đứa trẻ con, về những xác người trôi dạt trên cánh đồng, trên dòng sông, vô thân thích, vô thừa nhận.

Thê lương xiết bao. Chiến tranh ấy mà, quê hương, non nước, u buồn xiết bao.

******

III.5. ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY, U UẨN CHIỀU LƯU LẠC

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều lưu lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Tôi gửi niềm nhớ thương

Em mang giùm tôi nhé

Ngày trở lại quê hương

Khúc hoàn ca rớm lệ

Xa nhà, đi chinh chiến, những cánh thư, nếu có, thì cũng nổi trôi, như số mệnh quê hương, như thân phận con người trong cuộc chiến. Tin tức quê nhà bằn bặt. Lo lại chồng thêm lo. May mà còn có em đây, cho anh nguôi ngoai được phần nào nỗi nhớ.

Nếu nói, không ai tả “chiều” hay bằng Hồ Dzếnh, với hai câu để đời: Có phải sầu vạn cổ / Chất trong hồn chiều nay? Thì.

Thì ba câu: Đôi mắt người Sơn Tây / U uẩn chiều lưu lạc / Buồn viễn xứ khôn khuây, theo tôi, được xem là, không ai tả nỗi buồn lưu lạc, nỗi buồn trôi dạt, nỗi buồn phiêu bạt, nỗi buồn rày đây mai đó hay bằng Quang Dũng.

Và, tác giả nhờ cậy: Tôi gửi niềm nhớ thương / Em mang giùm tôi nhé / Ngày trở lại quê hương / Khúc hoàn ca rớm lệ.

******

III.6. SÁO DIỀU KHUYA KHOẮT THỔI ĐÊM TRĂNG

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng

Sông đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Dẫu gì, thì cũng phải hy vọng thôi. Chỉ có hy vọng, mới cho mình thêm tinh thần chiến đấu. Chỉ có hy vọng, thì nỗi chờ đợi kia, chờ đợi một ngày đoàn viên, sum họp, mới không cào cấu, cắn xé tim ta.

Giấc mộng đoàn viên, sum họp, vẫn luôn thường trực trong tâm trí người lính Quang Dũng. Đơn sơ lắm, chẳng to tát gì đâu, đó là được gặp lại cánh đồng, đó là được gặp lại ngọn núi, đó là được gặp lại dòng sông, đó là được gặp lại đêm trăng thanh bình, yên ả, chợt khuya khoắt từ đâu, vọng ngang tiếng sáo diều lửng lơ, dìu dặt.

******

III.7. EM CÓ BAO GIỜ EM NHỚ TA

Bao giờ tôi gặp em lần nữa

Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca

Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ

Em có bao giờ em nhớ ta.

Điệp ngữ “bao giờ”, được đau đáu lập lại hai lần. Đó là câu hỏi, hay là câu xác định, theo kiểu phỏng đoán, giả định, về một viễn cảnh, mai này?

Câu hỏi, hay câu xác định thì cũng đều thể hiện sự khát khao, khát vọng, sự trông đợi, ngóng mong.

Tôi thiệt là thương cái câu hỏi, tưởng nhẹ nhàng mà hóa ra rất nặng nề, rất khó để trả lời, vì cuộc đời vô thường mà, biết bao là dâu bể, biết bao là đổi thay, nhất là khi bây giờ, đất nước còn loạn lạc, non sông còn bóng thù: Em có bao giờ em nhớ ta?

Nhớ, thì hẳn là nhớ rồi. Nhưng mong manh quá, khói lửa còn ngút cao, xác người còn chồng chất. Thôi thì, cứ hy vọng vậy, hy vọng sẽ còn gặp lại khi quê hương thanh bình, khi non sông tan mùa chinh chiến.

******

IV. NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG VÀ CA KHÚC ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

Tôi biết bài hát Đôi Mắt Người Sơn Tây của Phạm Đình Chương, trước khi biết đến, cũng như đọc trọn vẹn bài thơ Đôi Bờ và Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng. Nhất là khi bài hát ấy được cất lên từ giọng của danh ca Thái Thanh, Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) và Duy Trác.

Phạm Đình Chương là một trong những tên tuổi hàng đầu của giới làm nhạc Sài Gòn trước năm 1975. Nói một cách không ngoa, phần lớn các sáng tác của ông, đều trở thành các ca khúc bất hủ, trong đó có bài Đôi Mắt Người Sơn Tây.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã sử dụng khổ đầu của bài thơ Đôi Bờ và khổ năm, sáu, bảy, tám của bài thơ Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng để phổ thành ca khúc này vào năm 1970, nhưng đến tận năm 1972, ca khúc mới được xuất bản.

Có một điểm rất đặc biệt trong ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây của Phạm Đình Chương. Đó là ông đã sửa từ “lưu lạc” của Quang Dũng trong câu: Đôi mắt người Sơn Tây / U uẩn chiều lưu lạc, thành từ “luân lạc”.

Trong từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, “lưu lạc” được giải thích là: trôi nổi đó đây, sống ở quê người (Chung quanh những nước non người / đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu - Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Và cũng trong từ điển này, “luân lạc” được giải thích là: đắm chìm, rơi rụng, chỉ cuộc sống trôi nổi, vất vả.

Bạn thích từ nào hơn? Một số bạn văn, bạn thơ của tôi, khi được hỏi, đa số đều trả lời, thích “luân lạc” hơn. Hỏi vì sao thích, hoặc họ trả lời, vần “uân”, nghe trúc trắc hơn vần “ưu”, hoặc họ trả lời, thích là thích thôi, chẳng biết vì sao.

Thơ thẩn là thế đó. Viết đến đây, tôi lại sực nhớ đến định nghĩa “thơ thẩn” của ông Võ Phiến. Bữa nào thuận tiện, tôi sẽ xin hầu bạn đọc về đề tài này.

ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai

Sông xa từng lớp lớp mưa dài

Mắt em, ơi mắt em xưa, có sầu cô quạnh

Khi chớm thu về, khi chớm thu về, một sớm mai

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Buồn viễn xứ khôn khuây

Em hãy cùng ta mơ

Mơ một ngày đất mẹ

Ngày bóng dáng quê hương

Đường hoa khô ráo lệ

Tôi từ chinh chiến đã ra đi

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Sông đáy chậm nguồn quanh phủ Quốc

Non nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay

Em vì chinh chiến thiếu quê hương

Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ, em có bao giờ, thương nhớ thương

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Buồn viễn xứ khôn khuây

Em hãy cùng ta mơ

Mơ một ngày đất mẹ

Ngày bóng dáng quê hương

Đường hoa khô ráo lệ

Đôi mắt người Sơn Tây.

Đôi mắt người Sơn Tây

Buồn viễn xứ khôn khuây.

******

V. EM CÓ BAO GIỜ, EM NHỚ THƯƠNG?

Quang Dũng không chỉ là người lính, như nhiều tài hoa khác, ông dạy học, làm thơ, và vẽ. Ngoài ra, ông cũng viết bút ký, hồi ký.

Thơ ông viết, hàng trăm bài. Những bài ấy, đến nay, ngót nghét tám mươi năm có, vẫn sừng sững một chốn riêng, khó thể xếp vào đâu, chung chiếu cùng mâm với ai, mặc dù.

Mặc dù, những người biết về ông, đều nói rằng, ông chẳng tha thiết gì về cái gọi là danh tiếng, vị thế xã hội, ở hay không ở trong lòng người.

Ông lặng lẽ sau biến cố Tây Tiến. Ông thu mình, rong chơi, vẽ vời, và im lặng, không trải bày, không giải bày, không kể lể, không ăn mày quá khứ.

Nếu ông có tha thiết điều gì, thì có lẽ, là về người con gái ấy, về đôi mắt ấy, những bâng khuâng, vương vấn, nhớ thương về tình yêu đầu đời của tuổi đôi mươi: Em có bao giờ, em nhớ thương?

******

VI. BUỒN VIỄN XỨ KHÔN KHUÂY

Thế hệ ba má tôi thích Quang Dũng lắm. Đến thế hệ tôi, đọc thơ ông, cũng ngút ngàn cảm xúc và bội phục muôn phần.

Thời Quang Dũng, giới phê bình lên án, thơ ông mang tính chất lãng mạn anh hùng chủ nghĩa. Gần tám mươi năm rồi, không biết bây giờ, nếu nhà thơ nào viết ra những câu như thế, có còn bị cho là lãng mạn, là yếm thế, là làm ủy mị, tiêu hao tinh thần binh sĩ không nhỉ.

Tôi nghĩ khác, Tây Tiến, Đôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây là những cảm xúc, là những trạng thái rất thực của những người lính trẻ, xa nhà, cầm súng lên đường chiến đấu. Sự thật này cần được tôn trọng. Vì bên cạnh những giây phút yếu mềm, nhung nhớ, thì vẫn có những lời thơ mang tinh thần bất khuất, hào hùng, lẫm liệt, những lời thơ sẵn sàng hy sinh tánh mạng, để bảo vệ đất nước trước sự xâm lăng của bọn giặc ngoại bang, để tự do, độc lập của nước non được vững bền, để Tổ Quốc được muôn năm trường tồn cùng đất trời, sông núi.

Nếu hỏi tôi, thơ ai là tiêu biểu cho thời kỳ kháng chiến chống Pháp, kiểu như vừa hỏi về văn học vừa hỏi về lịch sử nước nhà ấy mà, tôi sẽ bật ra một cách hết sức tự nhiên - Quang Dũng.

Thơ ông hay quá. Giả như bây giờ có ai đó cứ buộc tôi, phải tìm cho bằng được một giọng thơ, từa tựa ông, để xếp chung vào một hàng, như người ta hay xếp Xuân Diệu, Nguyễn Bính, đại loại vậy, kề nhau. Thú thiệt, tôi chịu, không thể, không tài nào tìm ra.

Quang Dũng ấy mà, ông đứng mình ông, một cõi. Riêng biệt. Tình cảm. Lãng mạn. Trong veo. Hào hùng. Khí phách. Quả cảm. Và cả nỗi ly hương, nhức nhối, dai dẳng, khiến:

BUỒN VIỄN XỨ KHÔN KHUÂY!

Sài Gòn 20.07.2025

Phạm Hiền Mây

No comments: