Sunday, July 20, 2025

CHIẾC ÁO TÚI LỠ (DƯ THỊ DIỄM BUỒN)

 CHIẾC ÁO TÚI LỠ



DTDB


Mấy hôm rày trở mùa mưa lất phất, gió hiu hiu lạnh lùng. Hướng tây

mặt trời nhỏ lại như cái trứng gà treo lờ lững trên cao, e ấp nằm trong lớp

mây âm u hạ thấp màu xám nhàn nhạt. Bên kia những đám ruộng nối tiếp

chạy dài xa mút mắt. Rồi bị chắn ngang bởi những hàng cây dầy xanh xám

nhạt nhòa. Gặp những ngày thời tiết không quang đãng như vậy. Thì mọi

sinh hoạt ở nông thôn như cuốc đất trồng khoai, hái trái, vét bờ, vô phân,

đập lúa… gần như bị ngưng trệ.

Sau buổi cơm chiều đạm bạc của gia đình thường thì với tô mắm

chưng. Mắm đã ướp với chút đường, tiêu đâm bể hai bể ba và một muỗng

mỡ nước, vài tép hành lá xắt nhuyễn rắc trên con mắm lóc nằm khoanh trong

tô đá. Bà ngoại dở nắp đặt tô mắm trên mặt nồi cơm đã cạn nước. Cào lửa,

để than hồng chờ cho cơm chín. Khi cơm chín thì mắm ăn được.

Trên mâm cơm, kế tộ mắm chưng là dĩa bàn lớn rau lang (đọt non)

luộc. Đọt lang hái ngoài liếp khoai còn đọng mủ trắng. Đem luộc chín mềm

rồi mà cọng vẫn còn màu nâu, lá vẫn còn màu xanh mướt. Ngoài hai món

trong chiếc mâm bằng cây, còn có tô canh tập tàng nấu cá rô rỉa thịt bỏ

xương với nhiều loại rau như: đọt mướp, rau dền, lá bồ ngót, mồng tơi, dưa

leo đèo, bắp trái sát lấy hột, mướp… Có khi thì canh khoai mỡ, khoai từ,

hoặc vài loại canh khác… Canh xiêm lo nấu con mẻ với bắp chuối và khô

lăng phồng. Nêm ngò gai, lá quế, cần nước, ớt hiểm chín đỏ xắt nhỏ.

Những chiều đi học về đến đầu cầu ván, Hiền đã ngửi được mùi canh

tỏa bay nực nồng cả mấy cái nhà ở dưới gió trong xóm. Khi thì mùi tép

cháy, cá bống kho tiêu, cá thác lác muối sả ớt chiên giòn…

Cơm chiều nay thì Hiền ăn khô cá trạch nướng vàng xé ra, trộn gỏi

dưa leo có bầm thêm xoài sống và rau thơm. Nấm mối nấu canh dừa mà bác

Hai Tiên nhổ được, đem cho hồi trời còn tờ mờ sáng. Món mặn thì có cá trê

trắng giả cầy. Cá trê trắng làm sạch ướp với ca-ri, tỏi, sả, ớt, hành bầm

nhuyễn, chút đường và nước mắm. Khi chảo dầu hay mỡ nóng, để cá ướp

vào xào cho miếng cá tái đi, để thêm nước thiêm thiếp. Khi chảo cá trê giả

cầy cạn thì cho rau răm vào. Món nầy coi vậy mà ăn bắt miệng lắm.

Với những món ăn bình dân, quê mùa cả nhà xúm xít trên bộ ngựa

đóng bằng ván của cây mít già. Họ ăn uống, bàn chuyện mùa màng, chuyện

thời tiết… Bữa cơm quê quanh đi quẩn lại với những món thanh đạm ít tốn

kém, nhưng trong nhà tiếng nói cười rộn rã, vui vẻ, thân thương, ấm nồng.

Vào những ngày Tết, hay nhà có đám tiệc thì món ăn nhiều ơi là

nhiều! Đám giỗ ông ngoại lớn nhứt trong năm của gia tộc ở nhà cậu Trịnh


Quốc Việt. Đó là cậu Ba em ruột của má Hiền. Đứa em trai lớn trong gia

đình họ Trịnh lãnh phần hương hỏa. Thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ…

Mấy tháng trước đám giỗ ông ngoại, bà ngoại và mợ Ba đã mấy

chuyến đi chợ quận mua các thứ cẩn thiết để nấu nướng trong ngày đám giỗ

ngoại. Họ mua bún tàu, kim châm, bạch quả, khô mực, tôm khô, lạp

xưởng…

Tối rạng mặt ngày cúng tiên thường là bà cho gói bánh tét, bánh ít.

Còn các bánh men, bánh gai để dành ăn tráng miệng thì thường xóm diềng

bưng cả quả lại cúng. Các dì cậu ở thành thì đem về bánh Tây, rượu, trà

thượng hảo hạng. Còn cậu, dì ở quê thì xách qua nào gà thiến, gà mái dầu,

vịt tơ, tôm, cá… thứ nào cũng ngon, cũng lớn, cũng quý.

Ngày tiên thường thường cúng đơn sơ. Nhưng cũng cá chẻm chiên

tươi. Cua biển đón mua từ biển Gò Công. Làm món xào giấm để lên dĩa bàn

lớn rau càng cua bóp xổi. Cá bông lau nấu lẩu. Bún tàu, tàu hủ ky xào với

tôm và thịt ba chỉ thái mỏng. Dồi lươn um. Mắm cá lóc thái, trộn đu đủ mỏ

vịt bào sợi ăn với thịt phai rau sống. Tính ra cũng nhiều món lắm chớ!

Đó là buổi chiều. Chừng bảy, tám giờ tối còn có bữa cháo gà, chè,

nước trà, bánh ngọt đãi chòm xóm nhứt là thanh niên ở lại đờn ca, hát hò. Có

năm ba người lớn đánh cờ, có những người ngồi quanh bàn tròn nói chuyện

thời sự… Ngày cúng tiên thường chỉ đãi gia đình họ hàng thân cận và tá điền

đến giúp.

Tối đêm tiên thường, sáng ngày chánh giỗ thì một giờ sáng đã bắt trả

nước sôi thật lớn để đàn ông làm heo. Sau đó đàn bà làm gà làm vịt. Thịt thà

chặt, xắt, thái… đâu ra đó. Người nào lãnh nấu món gì thì tư lo mọi thứ cần

thiết để nấu (vật liệu đã mua sắm sẳn) Nếu không tìm ra thì hỏi chủ nhà là bà

ngoại và mợ Ba.

Họ nấu món cà-ri nị bằng vịt xiêm thay vì nấu với thịt dê như người

Ấn Độ, ăn với cơm nị. Chả đùm, gỏi củ cải trắng, củ cải đỏ, trái su, dưa bà

cai xắt mỏng trộn với tôm càng xanh nướng lột vỏ xé tơi. Bên trên dĩa gỏi

còn rắc đậu phộng rang đâm nhỏ và rau thơm xắt nhuyễn, ăn cặp với bánh

phồng tôm mua từ Sa Đéc. Vịt tiềm kim châm, táo đỏ, hột sen, bạch quả, da

heo khô…ăn kèm với bún. Cá bống tượng chưng. Cá sủ chiên dòn chan sốt

chua ngọt đệm thêm hành tấy xắt bản lớn, cà chua, cần tàu. Đậu Hòa Lan

mua từ Đà Lạt xào với lòng gà vịt. Cơm dương châu rang theo kiểu người

Tàu. Măng ta hầm giò heo. Thịt nuột lưng thái mỏng ướp ngũ vị hương, xỏ

xâu nướng ăn với sà-lách-son trộn giấm đường và chan thêm dầu phộng pha

tiêu đen. Cá lóc, thịt đùi heo kho với trứng vịt. Bì cuốn với giá, rau thơm, xắt

từng khoanh nhỏ vừa miếng ăn, chấm với nước mắm chua ngọt dưa kiệu dưa

gừng.


Năm nào đám giỗ ông ngoại của Hiền cũng vui quá là vui, vui hơn cả

ngày Tết, Vì gia đình ba, má, anh chị em của Hiền đều về. Hiền có thật

nhiều quà bánh từ họ. Gia đình các dì cậu ở xa cũng chở con cái về dự cúng

giỗ cha ông. Tội nghiệp bà ngoại và mợ Ba là cực nhọc nhứt. Nhưng trên

mặt họ luôn đượm nét vui mừng và hạnh phúc gia đình xum họp.

Bà ngoại của Hiền có sáu người con. Má Hiền là cô Hai Thuận gả cho

ba là thầy giáo Lũy dạy học trò ở trường Tiểu học quận Hòa Đồng (trên

đường Mỹ Tho đi xuống Gò Công). Dì Tư Kim có chồng làm chủ một tiệm

may lớn ở Sài Gòn. Dì Năm Tao giàu có nhờ tiệm vải ở chợ Cái Bè và chành

đồ gốm từ Lái Thiêu, và miệt Châu đốc chở xuống bỏ mối. Dì Sáu Hà gả

cho con người bạn đồng liêu với ông ngoại. Ruộng đất bề bề có mấy mẫu

vườn trồng toàn mận hồng đào, ổi xá lị, cam hồng mật… Dưới bến sông nhà

họ lúc nào cũng nườm nượp ghe, xuồng của mối lái đến mua trái cây. Nếu

đến các làng lân cận như là Hòa Khánh, Mỹ Thuận, Mỹ Tây, Bà Đưng, Ông

Mẻ mà hỏi ông Cả Mai (cha chồng dì Sáu Hà) ở Cổ Cò gần An Hữu thì ai

mà không biết.

Khi ông ngoại qua đời và các con lần lượt có nơi có chỗ yên bề gia

thất. Thì bà ngoại quyết định ở với cậu mợ Ba. “Nhứt trưởng nam/ Nhì con

Út” Bởi cậu Ba là con trai trưởng của bà. Mợ Ba theo đạo Hòa Hảo (Giáo

chủ là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ), ăn chay một tháng mười ngày. Mợ là

người thật thà, hiền lành biết điều với bên chồng. Hiếu kính với mẹ chồng

như mẹ của mình nên bà mới ở chung.

Hiền sống với ngoại lúc cô còn nằm nôi. Được mợ Ba cho bú thép (bú

khín, bú ké với đứa trẻ khác) với thằng Liễm con mợ. Người đời có câu:

“Con tôi khát sữa bú tay/ Ai cho bú thép ngày rày mang ơn”. Bà ngoại của

Hiền thường kể lại rằng:

- Mẹ cháu sanh cháu, nhưng cháu bú sữa của mợ Ba. Mặc dù thằng

Liễm sanh sau cháu hai tháng. Mà cơ thể thằng nhỏ mập mạp cù lự hơn

cháu. Cháu là đứa trẻ sanh thiếu tháng nên lúc nhỏ cơ thể yếu đuối, ốm còi,

ốm cọc. Không ai biết cháu bịnh gì, mà lúc nhỏ mẹ cháu cho bú bao nhiêu

thì cháu cũng ọc ra hết? Còn bị nóng, ho, bịnh liên miên nữa...

Bà mỉm cười nét mặt rạng rỡ. Tay vuốt tóc cô cháu gái, bảo:

- Thấy cháu èo uột nên ngoại đem về hoạn dưỡng. Chớ thầy coi cháu

không nuôi được đến 4 tuổi. Còn nếu cháu qua 4 tuổi thì sẽ sống lâu như ông

Bành Tổ ở bên Tàu. Hãy nói cho ngoại nghe, năm nay cháu bà đã mấy tuổi

rồi?

Hiền chịu nhứt là câu nói sau cùng của ngoại. “Cháu sẽ sống lâu như

ông Bành Tổ” Mặc dù lúc đó cô không biết ông Bành Tổ là ai, và sống bao

lâu? Xòe bàn tay thon dài đưa qua, đưa lại trước mặt ngoại, cô cười má lúm

đồng tiền:


- Năm tuổi, cháu hơn năm tuổi rồi đó ngoại à. Cháu sẽ sống dai như

ông Bành Tổ. Khi lớn lên như chị Kiều, chị Nguyệt con cậu Ba, con dì Sáu

thì cháu sẽ nấu cơm, giặt áo quần, cho heo, cho gà, cho vịt ăn… Cháu sẽ làm

hết mọi công việc trong nhà để ngoại nghỉ ngơi cho khỏe nghen bà.

Thế là bà ngoại rướm nước mắt yêu thương. Ôm chầm cháu vào lòng

hôn lấy hôn để. Trìu mến nhìn cháu khen ngoan, khen giỏi… Bởi vì còn nhỏ

tuổi như vậy mà có lòng hiếu kính và ăn nói có hậu lai.

Ở miền Nam nước Việt qua những ngày Tết Nguyên Đán thì vào mùa

trái cây. Dọc hai bên bờ sông, mương, rạch, vườn… xóm trên, thôn dưới các

loại trái cây phơi phới dưới nắng trời. Các cây xoài tượng, xoài cát đen, xoài

cát trắng, xoài thanh ca, xoài voi, xoài hòn… Nhứt là cây xoài Lữ Phụng

Tiên có hột dẹp lép, cơm vừa dẻo lại vừa ngọt, ở vườn ông Năm Sầu Riêng

làm hấp dẫn lũ trẻ trong xóm đợi giông gió đi lượm. Có khi chúng còn lấy

đất, lấy đá chọi cho xoài rụng để lượm nữa.

Tại sao người ta gọi ông Năm Lê Văn Tài lại là ông Năm Sầu Riêng?

Nghe mấy ông trong xóm khi chén thù chén tạt, say ngà ngà kể lại rằng lúc

còn nhỏ, khoảng mười, mười một tuổi, có lần ông Năm Tài oang oang cái

miệng khoe với bạn bè rằng:

- Hồi chiều, tao đi ngang qua gốc sầu riêng nhà bà Tư Cọp. Bỗng có

trái sầu riêng thiệt bự bằng cái thau, nặng mấy ký lô rơi xuống trúng đầu tao!

Lũ bạn chưng hửng, có đứa nhào đến mò đầu, đứa kéo tóc ông coi có

thiệt không? Có đứa cười lớn nói:

- Mầy nói xạo! Chớ tao có thấy đầu mầy bị xây xát, hay trầy trụa chỗ

nào đâu?

- Ê đừng nói ẩu nghen mậy. Trái sầu riêng đâu rồi? Tao không tinh.

Vậy mà thằng Năm Tài còn cứng miệng huênh hoang:

- Tao sợ bà Tư Cọp thấy trái sầu riêng sẽ lấy lại. Lật đật chạy bay một

mạch ra côi vườn, mà trái sầu riêng vẫn còn dính khắn trên đầu tao. Mèn ơi,

sầu riêng chín cây thiệt ngon quá xá tụi bây! Ngon quá là ngon nên tao ăn

sạch bách rồi…

Bạn bè đứa trề môi, đứa méo miệng. Đứa hò hét ì ầm:

- Thôi đi mầy ơi. Mầy là cái thằng “láo thiên láo địa/ Láo từ Bà Rịa

láo vô/ Láo từ núi ông Tô láo xuống” Trái sầu riêng mấy ký rớt dính đầu là

toi mạng rồi con ơi! Vừa vừa thôi đừng có láo hết thuốc chữa đó nghen

con…

Miệng truyền miệng, từ đó ông Năm Tài có cái tên mới là “Năm Sầu

Riêng”. Cho đến bây giờ đã mấy chục năm rồi, ông ta vẫn còn mang cái tên

cúng cơm nầy.


Tỉnh Mỹ tho nổi tiêng có trái cây ngon. Nhưng trái cây có nhiều nhứt

là ở các làng lân cận bắc Mỹ Thuận thuộc quận Giáo Đức (trước kia là làng

An Hữu, sau được lập thành quận) như ở Bà Đưng, Hòa Lộc, Nỹ Đông, Mỹ

Tây… Trong vườn nhà ngoại của Hiền có nhiều loại trái cây, như là: mận,

điều, lê, lý, cam, quít, chôm chôm, bòn bon… Còn ổi thì khỏi nói nào là ổi

sá lị, ổi tố nữ, ổi tám tháng, ổi cửu ngoạc, ổi sẻ, ổi trâu …

Trong các loại trái cây, Hiền không ưa trái nào có nhiều hột. Trái

thanh long có nhiều hột, mặc dù hột nhỏ li ti màu đen nằm trong cơm trắng

mịn màng. Thanh long ăn hột không dính răng như ổi, như lựu. Nhưng cơm

của trái thanh long mềm, lờ lợ lạt lạt không ngon, nhưng nên thuốc. Hình

dáng và màu sắc tươi thắm. Trái thanh long dài chừng 2 tấc có khi lớn bằng

bắp chuối, màu tím đỏ, mình chạy những lằn gân lồ lộ màu xanh tươi. Ở

thôn quê người ta thường dùng thanh long làm mâm trái cây đi lễ hỏi, cưới

(trong 4 mâm ngũ quả). Dù nghèo cũng phải có, đó là: bánh, trái, rượu, trà.

Trái chuối hột quá nhiều hột, mà ăn vào Hiền dễ bị bón. Kế đó trái lựu, trái

ổi, nhứt là ổi trâu.

Ổi trâu trái lớn bằng nắm tay. Khi chua, ổi da láng bóng, hột nhiều và

lớn, cơm trắng lột xột và lạt nhách. Chỉ bị vài trận mưa thì ổi trâu có giòi. Ổi

nầy thường do chim ăn ỉa ra mọc lên ở vùng đất bỏ hoang, cây cối rậm rạp.

Ổi trâu không ngon còn chiếm tàn lớn nên ít ai trồng. Nhưng khi chín thì

mùi thơm không ổi nào bằng! Hiền thích hái ổi trâu cúng trên bàn thờ ông

Địa, hoặc giữ trên các kệ trong nhà để hưởng mùi ổi chín.

Quê ngoại của Hiền ở gần bắc Mỹ Thuận. Ngoài trái cây ngon có

tiếng ở tỉnh Mỹ Tho, còn có thủy sản như tôm càng xanh vỏ, ốc gạo, rùa, cua

đinh.... Cá trắng từ các sông rạch, cá đen của miền đồng ruộng Tháp Mười,

từ các con kinh theo nước ra. Và còn các loại chim trời để ăn thịt nữa.

Những hàng quán ở dọc hai bên bắc Mỹ Thuận mỗi ngày đều có bán món

chim quay, chiên dòn, nướng, rô-ti nước dừa xiêm… Ngon nổi tiếng đáo để

mà hành khách qua lại hàng ngày ít ra cũng một lần đã dừng chân lại để

thưởng thức.

Đến mùa cày ruộng thì đi bắt cua đồng, cá, ốc bưu, ốc lác… Bắn

chim, bẫy chuột đồng, câu cá… Tan trường học trò sống trong làng thường

cùng các bạn đi trên bờ mẫu về nhà. Vào mùa nước ngập linh láng tràn bờ.

Không biết đường ở đâu mà đi, cầu ở đâu mà qua. Thì cha mẹ hay anh chị sẽ

bơi xuồng, chống ghe để đưa con em mình đến tận cửa lớp học, hoặc rước

về nhà.

Ở làng thôn ngoài cúng giỗ, hỏi cưới thôi nôi đầy tháng... riêng rẽ

trong gia đình, còn có những lễ lọc chung cho cả miền: Lễ Giáng Sinh bên

Công giáo, lễ Trung Thu, rằm Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn (bên

lương giáo). Rằm Thượng Nguơn lớn nhứt của 3 cái rằm trong năm.


Cứ vào tháng ba ở đình làng quê ngoại của Hiền, ban Hội đồng đi

quyên góp tiền và xuất quỹ mở tiệc đãi dân cư ngụ trong thôn làng. Họ

mướn gánh hát chầu về hát Bội 3 ngày liên tục. Trước sân đình làng họ che

lều, dựng trại, và những quán lộ thiên buôn bán thức ăn cho dân nhàn du vui

chơi trong suốt 3 ngày lễ hội. Trong dịp nầy mấy bà Cả, bà Chủ, bà Hội

Đồng… Những người đàn bà chồng có chức sắc trong làng tha hồ mặc quần

lãnh, áo nhiễu, đeo vòng đeo vàng khoe đẹp, khoe sang. Thanh niên, thiếu

nữ ăn diện bảnh bao quần là áo lụa đi từng đàn, từng đám nói cười vui vẻ

trên các đường quê. Chỉ có những ngày lễ là lúc dân làng có dịp tiêu tiền, ăn

uống vui chơi, giải trí. Để rồi sau đó thôn dân tay cày, tay cuốc lam lũ làm

việc suốt tháng quanh năm.

Tuổi thơ của Hiền thật tươi đẹp, mà những đứa trẻ sanh ra và lớn lên ở

thị thành, như anh chị em của Hiền thì không làm sao được hưởng. Họ

không làm sao biết được thời tiết, mưa nắng, gió bão, đêm trăng, hoàng hôn

xuống, hay mặt trời lên… Cùng những cảnh vật thiên nhiên êm đềm, tươi

đẹp, sinh động của đất trời ở thôn làng trên dải đất quê Nam.

Sống với gia đình cậu mợ và ngoại đến năm 7 tuổi thì Hiền về sống

với cha mẹ ở thị thành để tiếp nối việc học hành. Khi Hiền vừa vào trường

học nghề thì mẹ cha cô hưu trí. Ông bà về mua 10 mẫu đất ruộng, 5 mẫu đất

vườn. Đất của ba má Hiền nằm trên bờ con sông dài chảy qua, xa chợ, xa

đường xe nhưng gần thôn ngoại và gia đình các cậu mợ, dì dượng đang sinh

sống.

Bao nhiêu vốn liếng dành dụm mấy chục năm đi dạy học, ông bà đã

đổ vào hết mấy mẫu đất nầy để canh tác. Ba cô là thầy giáo dạy học trò Tiểu

học. Tuy về hưu, nhưng ông vẫn còn khỏe mạnh.

Ba của Hiền có thân mình vạm vỡ, bắp thịt nở nang, chắc chắn, tráng

kiện, đi đứng lanh lợi tháo vác chớ không gầy gò, ốm yếu, ho hen. Ông cũng

không ngồi chỉ tay năm ngón cho vợ con làm như những đồng liêu của ông.

Má của Hiền là con gái lớn của ông Cả, nhưng bà giỏi giang trong việc trồng

trọt ruộng nương ngay từ thuở chưa chồng.

Mặc dù là gái nhưng bà xông xáo làm việc thay cha để em ra tỉnh học.

Bà ra đồng coi sóc, phân phát, trông nom tá điền trong việc ruộng nương,

trồng tỉa… Khi gả con, ông ngoại than với bà ngoại rằng: “Con gái tới tuổi

phải gả lấy chồng. Con Hai nhà mình là đứa con nhờ, con cậy. Gả nó đi rồi,

tui như mất cánh tay …”

Trước khi đưa gia đình về quê, ba cô tự đo vẽ nhà, mua cây cột, kèo,

đòn tay, ván… Rồi nhờ thợ mộc làm theo ý ông cất ngôi nhà ba gian, hai

chái. Mái nhà lợp lá, vách bổ kho khang trang trên nền cao ráo, lót gạch tàu.


Sau đó, miếng đất ruộng gần nhà ông mướn người lên vườn thêm 3

mẫu nữa (vườn trước sau có 8 mẫu) trồng cây ăn trái rành rạnh. Vợ chồng

ông nghĩ ruộng mỗi năm chỉ làm có một mùa. Lên vườn trồng trọt được

nhiều thứ, sau mùa lúa có thể trồng rẫy sẽ có lợi nhuận vô đều đều. Đất ông

bà nằm sát bờ sông Mỹ Thiện. Con sông lớn có những nhánh đi vào Ngã

Sáu, Kinh Bùi, Đồng Tháp rồi qua liên tỉnh Kiến Phong, Cao Lãnh, Long

Xuyên, Châu Đốc, Rạch Gía, Hà Tiên…

Bà giáo Lũy còn chịu khó nuôi heo, nuôi vịt, nuôi gà, và đào 2 cái

hầm lớn nuôi cá tra. Một hầm nhỏ gần nhà cho ăn tấm, cám, chuối cây xắt ra

bằm nhuyễn. Để gia đình bất cứ lúc nào muốn ăn thì bắt lên ăn và dành khi

cúng giỗ. Còn cá nuôi cầu ở sau vườn, bên trên bà cho cất chuồng heo để

heo ỉa rớt xuống cá ăn. Và có làm cây cầu cho người đi nữa. Cá tra ăn các

loại cứt, lớn đến lứa thì ông bà kêu mối lái bán đi. Ông Lũy nói với các con:

- Cá nuôi cầu mau lớn, thịt trắng nhiều mỡ ăn thịt ngon hơn cá nuôi

bằng tấm cám. Các con có muốn thử không?

Chị em của cô Hiền nhăn mặt lắc đầu nguầy nguậy. Đứa ụa, đứa phun

nước miếng phèo phèo, đứa nhăn mặt cằn nhằn ba mình. Ông cười, bảo với:

- Nếu đi chợ mua, các con đâu phân biệt được cá ăn thứ gì? Ở dưới

sông cá sóc sọc, cá lòng tong, cá chốt… nhiều loại cá khác cũng ăn phân

người ta vậy. Tôm tép còn rỉa thây ma chết sình nữa kia!

Em kế của Hiền, càm ràm:

- Nhưng khuất mắt không thấy thì thôi. Chớ trước mặt! Con sẽ ăn

không vô. Ba bán cho người ta như vậy sẽ mang tội cho mà coi.

Ông cười hiền, rồi nói tiếp:

- Con không biết, chúng ta muốn ăn cá nuôi cầu, phải bắt chúng bỏ

vào rộng. Đem ra rạch hay sông cắm sâu dưới nước. Ngày hôm sau nó nhả,

ói ra hết chất dơ bẩn. Còn cá chở ra thành thị bán cũng vậy. Thời gian chở

đi, nó cũng ọi ra hết chất dơ rồi nên không có tội!

Ông già nói gì nói. Nhưng ba chị em của cô Hiền không ăn dù các cô

biết cá nuôi bằng tấm cám. Và về sau nầy cũng vậy, Hiền cùng hai cô em

không bao giờ ăn cá tra.

Bờ sông trước nhà, ông giáo cho người đặt một cái vó có khung rộng,

để khi nước lên đặt vó bắt tép mọi, tôm, cá thác lác, cá trạch, cá thiểu… các

loại cá sống gần trên mặt nước. Khi nào vó cá không đủ ăn thì đón xuồng

chài xuồng lưới, xuồng câu mà mua. Ba má cô sống an vui nơi thôn làng

trồng trọt sanh lợi khá lắm. Mấy năm sau ông bà mua thêm đất, xây nhà

tường, lót gạch bông.

Còn ba chị em cô Hiền đi học xa, cứ cuối tháng, nghỉ hè, ngày lễ lộc

thì về thăm nhà. Ôi những ngày đó tha hồ ăn bánh xèo, bánh canh, bánh

khọt… Trưa ra mương bắt ốc lác, ốc đắng, bưu về um sả, về luộc. Đêm đêm


bà giáo còn nấu chè khoai, chè bắp, chè mì chan nước cốt dừa… Đến mùa

trái cây, mùa lúa chín vàng đồng… Đêm trăng sáng… Đến mùa đông gió

bấc thổi lạnh. Rồi mùa xuân, các loại hoa, khoe hương khoe sắc. Hoa mai nở

rộ vàng ối cả khu vườn để đón Tết Nguyên Đán.

Nhớ hồi ba cô báo cho các con biết là ông bà sẽ đem gia đình về quê

khi ông hưu trí. Hai cô em gái của Hiền phản đối kịch liệt để lay chuyển ông

bà già đừng đi. Nhưng vô hiệu chúng nó buồn rầu khóc rấm rứt vì ngại ở

thôn quê cực khổ, thiếu tiện nghi, thiếu phương tiện. Nhưng sau mấy mùa

hè, lễ nghỉ về sống dưới quê với cha mẹ. Hai đứa em cô mới thì thầm to nhỏ

với nhau rằng:

- Bây giờ mình mới biết sao ba má thích sống ở thôn quê!

Cha mẹ Hiền bán được mười mấy mùa cây trái trồng ở vườn thì cuộc

nội chiến Quốc Cộng càng ngày càng sôi động, ác liệt. Từ mấy năm rồi, sau

ngày hai chị lớn đã gả chồng an bề gia thất ở tỉnh xa. Thì Hiền học xong

chuyên môn ra trường đi làm, và hai cô em gái đứa năm trước, đứa năm sau

ban Trung học Đệ nhị cấp. Ông giáo Lũy là người thức thời, nhìn xa nên

luôn khuyến khích con gái học hành. Ông thường bảo:

- “Ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay” Thời buổi nào cũng vậy,

dù là gái, nhưng các con phải học lấy cái nghề. Để ngày sau có cuộc sống

vững vàng bảo đảm, mà cùng chồng lo tương lai cho con cái. Đất nước được

cải thiện theo đà tân tiến của nước ngoài. Nam nữ bình quyền, nên các con

không nên ỷ lại để chồng lo mọi thứ…

Cho nên năm đứa con gái của ông, mỗi cô đều học một cái nghề để

thủ thân. Còn vườn tược nhà thì cây xanh lá thắm, có hoa trái sum sê bốn

mùa. Đó là nhờ sự cần mẫn siêng năng của ba má cô Hiền.

Ngày đó đã qua! Tính đến nay cũng mười mấy năm rồi. Bây giờ có

còn chăng là quê ngoại nghèo nàn vì chiến tranh giặc giã. Hai bên bờ sông

đường đi vào làng ngày xưa đã bị giặc đào hố, có chỗ nước chảy lững lờ

thong thương như con rạch, con kinh. Những cây cầu lớn bị giật sập. Xa xa

những cây ăn trái như dừa, xoài, vú sữa bị bom đạn dầy xéo làm gãy nhánh

đứt ngọn… Dân cư sống nhờ vườn tược, chài lưới, tạm lánh nạn. Đùm túm

gia đình, tản cư vào che lều sống tạm ở lộ đá, gần chợ…

Rồi trong trận ác chiến dữ dội vừa qua. Thôn ngoại nhà cửa nát tan.

Mái hiên ở chái trên nhà thờ phượng của gia đình bị sập nằm gần mặt đất.

Cậu Ba của Hiền cho chống đỡ lên chớ không tu sửa lại. Bà ngoại qua đời vì

đạn pháo vô tình! Hiền được tin tất tả về chịu tang bà. Cô ngồi chờ ngoài lộ

đá để quá giang xuồng ghe vào nhà ngọai. Nhưng cậu Ba cho người bảo

đừng về! Vì đường về nhà ngoại không an ổn. Hiền đón xe trở về nhà mình

mà nước mắt chảy dài, lòng buồn đau vô kể.


Hôm nay, Hiền về thăm ngôi nhà cũ của cha mẹ giờ chỉ còn là đống

tro tàn! Kèo cột nhà nghiêng ngả. Cây cối có nhánh bị cháy xém, có cây đã

cháy thành than. Chén tộ, nồi niêu méo mó nám đen nám đỏ được gom lại

thành đống. Ông bà giáo Lũy, sau trận tàn phá do ảnh hưởng chiến tranh nầy

đã trắng tay. May mắn hôm đó họ đi thăm em bịnh mới còn sống sót! Nay

thì cả hai, mỗi người chỉ còn cái gì có trên người, và mấy cái quần áo giặt

phơi trên sào ngoài sau gần chuồng gà. Nhưng bị đã lủng lỗ lủng hang rách

rưới teng beng vì mảnh bom đạn xuyên qua! Thấy áo quần rách cô bảo với

mẹ:

- Chú thím Mười có gởi mớ quần áo cũ con xách về cho ba má mặc

tạm thời. Bỏ đi má, quần áo nầy để làm nùi giẻ chớ rách nát hết rồi đâu còn

mặc được nữa.

Mẹ cô ôm mớ áo vừa rút ngoài xào vô, nước mắt chảy dài. Bà vừa dở

lên từng cái vừa chép miệng nói:

- Bậy nà, má sẽ chằm khiếu lại để bận đi làm vườn. Bây giờ miếng

giẻ cũng không có, tiền đâu mà mua thì làm sao bỏ được con? Con coi cái

quần cụt của ba còn mới nguyên, chỉ bị miểng đạn làm tưa lai thôi.

Bỗng mắt của má Hiền sáng ngời, khi bà thấy chiếc áo cuối cùng trên

tay. Bà ôm cứng rồi ấp vào trước ngực như sợ ai lấy mất. Mắt nhắm nghiền

dòng lệ tuôn:

- Má cưng cái áo lắm, lâu lâu đi đâu mới lấy ra mặc. Không dám mặc

thường sợ nó cũ và rách đi.

Nhìn mẹ xót xa, Hiền đỏ mắt bảo:

- Thôi bỏ đi má. Chiếc áo rách nát rồi để làm gì? Tuần sau về, con sẽ

mua hàng vải may cho ba má những quần áo khác.

Mẹ cô ôm cứng chiếc áo hơn. Mắt mở to rồi nói với con:

- Không được. Vì đây là vật kỷ niệm, ngoại ngồi còm lưng may từng

đường kim mũi chỉ cho má trước ngày bà đột ngột qua đời! Còn vá lại được

mà, chỉ bị rách có mấy lỗ ở trên vai và sau lưng thôi. Má sẽ giữ nó cho đến

cuối đời.

Sau ngày nhà cháy, ba má cô theo con ra thành ở đâu mấy ngày, thì

ông bà trở về chốn cũ. Họ dựng cái chòi nhỏ để che nắng che mưa. Tu bổ lại

miếng vườn xưa, cắt bó những nhánh cây bị gãy, bị đứt đọt, bị chết cháy…

Việt Cộng từ miền Bắc lén vàp Nam, lúc nào cũng xách động dân tình

non dạ phá hoại… Súng đạn vô tình luôn đe dọa nếp sống an phận của người

dân quê. Đời sống của người dân nông thôn trong chiến tranh thật vất vả

trăm chiều. Nhiều lúc phải tản cư ẩn náu đâu đó đôi ba bữa đợi gió êm sóng

lặng rồi trở về. Dù cuộc sống khổ sở gian nguy, họ vẫn bám lấy đất nhà, vì

đó là nơi chôn nhau cắt rúng của mình chớ không chịu dứt bỏ ra đi. Thậm

chí ba má của Hiền dù con cái ở thành có nhà cửa, công ăn việc làm dư sức


nuôi cha mẹ. Nhưng ông bà cũng không chịu bỏ đất đai, mà cứ len lỏi tới lui

vun bồi, trồng trọt…

Năm đó, chị Hai của Hiền đột ngột qua đời vì bịnh hậu sản. Năm sau

người chị thứ Ba của cô bị bịnh liệt (bán thân bất toại). Ông bà giáo Lũy

đem con về nhà nuôi để trị bằng thuốc Nam. Bởi sau hai năm bị bịnh, chồng

chị chạy thuốc Tây, thuốc Bắc nhưng bịnh vẫn không thuyên giảm. Cha mẹ

Hiền lại thêm gánh nặng! Nhưng ông bà vẫn vui vẻ chăm sóc kỹ lưỡng nuôi

con mình.

Ngày giặc Cộng tràn vào chiếm miền Nam! Mẹ của Hiền đẫm đầy

nước mắt tiễn Mỹ Dung (em kế của Hiền) theo gia đình bên chồng bồng bế

xuống thuyền chài vượt biển Đông. Sau đó, Việt Cộng lùa người vào trại tập

trung! Cướp tài sản! Dân miền Nam còn xao xác, bàng hoàng trong ngày đổi

tiền đợt nhứt. Mẹ của Hiền bị dồn dập nhiều nỗi bất hạnh. Bị cướp mất hết

đất đai vườn tược, giờ đây lại mất tiền, bà tức tưởi qua đời ngay trong chiều

ngày hôm đó! Hiền đớn đau dắt hai con về chịu tang mẹ, còn chồng cô

không về được, vì bị đày trong tù cải tạo.

Cô nghẹn lời, dòng lệ trào tuôn thấy mẹ nằm trong cổ áo quang như

đang ngủ! Ba cô mặt buổn bã, lạnh lùng. Mắt ông trắng dã vô hồn! Ông như

không còn nước mắt để khóc vợ! Nghe cô khuyên lơn. Ông chỉ nói: “Mấy

mươi năm sống chung. Bây giờ bả đành lặng lẽ bỏ ba mà đi!”

Vợ chồng đứa em Út Ngọc Hân vượt biên khi đứa con đầu lòng sanh

được 3 ngày! Năm sau ba Hiền cũng qua đời. Chồng Hiền bị giặc bắt đi cải

tạo được thả về. Thì gia đình cô cũng bồng bế bôn đào.

Nơi xứ lạ quê người, ba chị em của Võ Thị Minh Hiền, Võ Thị Mỹ

Dung và Võ Thị Ngọc Hân (cô em út) sống cùng làng. Trong những năm

thập niên 80. Người Việt ở vùng Hiền đang tạm cư rất thưa thớt. Lâu lắm, 3,

hoặc 4 tháng trời thỉnh thoảng mới gặp được đồng hương. Vùng đất nầy mỗi

năm gần sáu tháng lạnh. Những tháng mùa đông thì mưa thành tuyết, ao, hồ

đóng thành băng. Cái lạnh ở đây thiệt hết sức khắc nghiệt mà đa người Á

Đông không thích. Vì họ được sanh ra và lớn lên trong một nước có khí hậu

ôn hòa, ở miền Nam mưa nắng hai mùa.

Ba chị em của Hiền may mắn được sống gần nhau, nên đỡ cảm thấy

cái lạnh lẻo giá rét ở ngoài trời và tâm tư cũng đỡ phần cô độc nơi xứ lạ quê

người. Những ngày cuối tuần, ba gia đình thường họp lại nhà Hiền, khi thì

nhà Dung, nhà Hân. Họ nấu phở, chiên chả giò, nấu bún nước lèo, nấu cháo

lòng, bì cuốn, đổ bánh xèo…

Tết thì chị em xúm lại gói bánh tét, bánh ít… Chiều ba mươi Tết,

cùng rước ông bà… Mấy ông chồng thì khề khà lon bia nói chuyện Nam

Tào, Bắc Đẩu… Chuyện thời sự, chuyện trong tù… Mấy con ăn rồi thì đánh


“game”, xem truyền hình, xem phim… Ba chị em của cô Hiền thì kể truyện

ngày xưa. Những kỷ niệm lúc còn sống với cha mẹ, lúc đi học, khi đi làm.

Rồi lập gia đình… Chuyện giặc giã… Chuyện vượt biên, những ngày tháng

dài ở trại tỵ nạn… Hết thiên hạ sự thì ba chị em lại kể chuyện của gia đình

mình.

Ba ông chồng là đầu câu chuyện của ba chị em. Mỹ Dung bảo:

- Trời ơi, bác sĩ đã dặn phu quân tui lớn tuổi rồi không nên uống rượu

có hại cho sức khỏe. Và phải cữ đường, vì độ đường trong máu của ổng quá

mức trung bình rồi. Nhưng ổng có cữ kiêng gì đâu. Ổng lại là người tiêu tiền

như bươm bướm bay… chuyên môn xài bậy! Hễ mấy cha con đi chợ, mấy

đứa nhỏ đi chợ đòi giống gì ổng cũng mua. Tôi cẵn nhằn uống rượu thì ổng

uống bia thay nước lã… Thiệt hết ý kiến mà! Nói không nghe để ổng chết

sớm tui lãnh tiền tử xài đã… Trăm ngàn đô-la chớ có ít ỏi chi đâu!

Hiền càm ràm em:

- Mầy nói bậy nói bạ không hà! Vợ thì phải khuyên nhủ chồng.

Dượng ấy mua đồ cho con chớ có cờ bạc, hay có vợ bé đâu mà nói.

Út Hân cười ngất:

- Xời ơi, ở xứ nầy cày bỏ mạng còn vợ lớn vợ bé nữa sao? Đàn bà ở

đâu ra mà bé với lớn? Ở đây lo gì việc đó chị ơi.

Mỹ Dung trợn mắt:

- Như vậy là mầy lầm to rồi! Ông chồng của mầy trẻ nhứt trong ba

anh em bạn rể. Lại tốt mã gà đồng. Hãy coi chừng chồng em đó nghe em

cưng! Không đàn bà Việt thì đàn bà Mỹ, Mễ, Phi… Ở đây là Hiệp Chủng

Quốc mà dì Út Hân. Coi chừng mầy tối ngày chỉ biết đi làm để kiếm tiền.

Chồng mầy có vợ lậu bên ngoài con rơi con rớt cả đống cả lèn mầy cũng

chưa hay biết đó nhe.

Ngọc Hân coi bộ giựt mình, nhưng làm bộ tỉnh, cười khúc khích:

- Em đâu có lo! Con nào hết thời mới lấy ổng. Ổng ngủ mê thì ngáy

như kéo gỗ, ngáy như bò rống, ngáy như pháo kích của Việt Cộng… Thiệt

thầy chạy, chỉ có con nhỏ nầy mới chịu nổi tiếng ngáy của ổng thôi.

Mỹ Dung cười hí hí, liếc mắt nhìn chồng đang ngồi với em và anh rể

coi đánh banh tới hồi hấp dẫn, cô nói:

- Ờ ông chồng của tui bây giờ cũng sanh tật ngáy. Ngáy như kéo đờn

cò, ngáy như người ta lên xuống giọng cổ! Có khi ổng ngáy lùng bùng, ồ ồ

như bắt con ong bầu dằn dưới đáy dĩa, đặt trên thùng thiếc. Ổng ngáy như

ễnh ương kêu... Nhưng người ta nói người nào khỏe mạnh ngủ ngon mới

ngáy lớn. Thôi như vậy cũng tốt. Ổng hò hét mặc ổng mình ngủ thì cứ ngủ.

Hiền không nhịn được, cô cười lớn rồi lật đật giành nói với hai em:

- Chưa, chưa đâu. Anh rể bây khi ngủ còn ngáy kinh khủng hơn nữa

kìa. Tao nghĩ trên thế gian nầy không ai ngáy lớn bằng ông chồng tao. Ổng


ngáy tủng tủng, ngáy lớn như đánh trống, dọng chuông, ngáy như sấm nổ,

ngáy như chó tru… Cho nên hôm đó tao bảo ổng đi bác sĩ khám xem trong

cổ họng có bị bịnh gì không mà ngáy dữ thần ôn như vậy? Ổng đi về bảo với

tao là bác sĩ nói không có gì hết. Thế là tao bị ổng mắng cho một trận tưng

bừng hoa lá, tơi tả như xơ mướp. Tao nói thiệt, ổng ngáy lớn tao không ngủ

được. Tội nghiệp ổng cũng biết thân, ôm mền qua phòng trống bên cạnh

đóng cửa lại ngủ. Phòng tao cửa cũng đóng kín mít. Nồi đất ơi, vậy mà tao

vẫn nghe ổng ngáy ầm ầm muốn vỡ cả cái nóc nhà, muốn tróc mộng cửa vậy

đó tụi bây…

Khi gia đình hai cô em vợ ăn uống no nê rồi bồng bế nhau về nhà.

Hiền liền bị chồng cằn nhằn:

- Thiệt hết nói nổi! Ba chị em hễ xúm lại thì nói xấu chồng!

- Trời ơi, chồng mình không nói, đi nói xấu chồng người khác. Bộ

muốn tui chết sao? Rủi nói xấu chồng người ta, nghe được họ đánh phù mõ

đó? Nhưng mà hôm anh đi đám cưới con của chị Hai không có ở nhà. Mấy

đêm thiếu tiếng ngáy của anh tui lại không ngủ được. Thế mới khổ chớ!

Hiền mở to mắt vừa nói vừa nhìn chồng cười ngất, ngất! Ông chồng

nhịn không được cũng cùng vợ cười xòa. Vợ chồng sống chung với nhau

mấy mươi năm rồi. Có tánh, tật nào mà không biết của nhau. Có khổ đau,

hiểm nguy, nồng mặn nào mà không chia bùi xẻ ngọt, nương náu, dìu dắt,

đùm bọc, che chở cho nhau đi trên đoạn đường đời vô thường, tình người

đầy hỷ nộ ái ố, và tình đời bạc trắng như vôi nầy!

Trời mùa đông Chicago lạnh quá đi thôi! Nhưng hai cô em của Hiền

cũng hẹn chiều thứ bảy đến nhà chị mình nấu hủ tíu Mỹ Tho. Minh Hiền là

lớn nhứt trong ba chị em còn lại trên đời, sống nơi đất khách. Hiền đứng thứ

tư trong năm chị em cùng cha mẹ sanh ra. Chị Hai và chị Ba đã qua đời trên

quê hương. Khi út Ngọc Hân còn nhỏ thì hai chị lớn lập gia thất ở xa. Nên

họ ít gần gũi và không có nhiều dịp để chị em nhỏ to tâm sự. Vì vậy dù cô

vẫn thương yêu, nhưng không thân thiện với hai chị lớn bằng chị Minh Hiền

và chị Mỹ Dung của mình.

Lúc còn nhỏ đi học thì cả ba chị em được cha mẹ nuôi nấng. Khi

Minh Hiền đi làm chưa có chồng, thì cô thưa với ba má để cô nuôi hai em ăn

học cho đến ngày chúng ra trường đi làm. Hai em đi học, chị đi làm cùng

trong thành phố, nên ba chị em sống chung nhà hết sức tiện lợi. Cứ vài tuần

thì má, hoặc ba các cô đem trái cây, gạo, đồ ăn tươi nấu sẵn cho các con.

Còn hột vịt, các loại khô để nướng hoặc chưng ăn liền … thì lúc nào cũng có

sẵn trong nhà.

Tình nghĩa anh chị em của người Á Đông là như thế. Cha mẹ nuôi

con, anh chị nuôi em. “Quyền huynh thế phụ/ Em ngã anh nâng”. Đó là thứ

tình cảm tốt thiêng liêng cùng huyết thống như keo làm cho tình thân gia


đình thắt chặt hơn. Cho nên chị em họ luôn giữ gìn. duy trì ở cái xứ quá thừa

thãi vật chất thiếu thốn ân nghĩa, thân tình nầy.

Mới chiều thứ tư, Ngọc Hân đã gọi báo cho chị mình biết:

- Chi Hiền ơi, em đã hẹn với chị Dung rồi. Chiều thứ bảy nấu hủ tíu

bột lộc (hủ tíu dai) ở nhà chị nghen. Chị chỉ hầm xương dùm em nồi nước

lèo cho ngon lành thì được rồi. Còn mọi thứ em làm sẵn đem lại. Nhà chị có

xương không? Nếu không thì bảo anh rể đi làm về ghé lấy dùm. Em sẽ treo

sẵn ngoài nắm cửa nghen. Chị Dung bảo sẽ nấu chè táo đỏ, hột sen, la hướng

quả nóng đem đến ăn cho tiêu và ấm bụng. Mùa lạnh ăn cháo lòng, cháo cá,

phở… Các món ăn nóng coi bộ tốt hơn, chớ ăn gỏi, hay bì cuốn thì lãng xẹt,

trật chìa.

Hiền nghe giọng nói eo éo vui vẻ, thật thà của em, cô mỉm cười một

mình cảm thấy nhớ cha mẹ và thương mến hai em mình vô cùng. Mặc dù

chúng nó đôi lúc làm cho cô bực bội hết sức. Vì khó ai thoát khỏi những

chuyện do tánh nhỏ nhen, hẹp hòi, ích kỷ của con người, nhứt là đàn bà. Hai

con em của Hiền cũng không tránh khỏi những chuyện thường tình đó, chớ

cũng không chuyện gì bự sự cho lắm. Thí dụ như là, hơn người thì thích thú

khoái chí, huênh hoang. Thua người thì đố kỵ, dèm pha “vạch lá tìm sâu”

chê bai, ganh ghét…

Chị em họ một hoặc hai tuần hẹn gặp nhau khi thì ở nhà nấu ăn chung,

khi thì chở nhau đi mua sắm, đi chợ… Nhưng hễ mỗi lần gặp thì lại thì

không chuyện nầy cũng chuyện kia. Nhiều chuyện không đâu vào đâu cũng

cãi vã, xỉa xói nhau. Thậm chí xem phim bộ, hai đứa cũng cãi. Hôm tuần rồi

đang xem Tân nhạc trong Video, Mỹ Dung lên tiếng chê:

- Ca sĩ nầy bây giờ bể rồi! Gọng hát dở òm mà cục điệu bằng cái

thúng giạ, ăn mặc lại thiếu vải!

Ngọc Hân cãi:

- Bà khó tánh quá! Người ta hát vậy mà chê. Bà có hát bằng bả

không? Tui nhớ ngày xưa lễ bãi trường bà lên hát hay như dế kêu đêm, lúc

trời mưa dầm...

- Mầy giỏi quá há? Tao nhớ bãi trường Tết năm đó, mầy đóng vai Thị

Mầu trong vở kịch Quan Âm Thị Kính. Bị khán giả chọi vỏ chuối.

Ngọc Hân cười ha hả :

- Mèn ơi, thế mới hay chớ. Đóng vai cho người ta ghét mà có phản

ứng như vậy là thành công rồi đó chị Năm Lé Kim.

Mỹ Dung nghe em gọi mình như vậy, cô nổi trận lôi đình, hét lớn:

- Đồ con ác ma trời đánh! Tao lé tại cha mẹ sanh chớ bộ tao muốn

sao? Coi chừng trời trả báo đó nghe mậy…

Bình thường thì thôi, khi hờn dỗi Ngọc Hân thường gọi Mỹ Dung như

vậy. Vì con mắt trái của ả lé mại. Lé mại vậy mà có duyên, nên khi nhìn ai


như liếc rất dễ thương. Nhưng cả hai đứa không có mỹ ý đó. Lé kim thử nói

lái ngược lại! Như thế mới có chuyện. Chỉ có vậy thôi mà trận đấu khẩu kịch

liệt xảy ra. Hôm đó ở nhà Ngọc Hân. Hiền nghe thấy tất cả. Cô ghét bỏ về để

cho hai con chó đó cắn xé nhau.

Hiền vẫn nhớ, khi nghe con trai của Mỹ Dung được vào trường Y

khoa thì Ngọc Hân bắt đầu xỉa xói nói đon, nói ghen. Thằng nhỏ còn mấy

tháng nữa mới đi học, mà gặp cháu thì cô tấn công liền:

- Chào bác sĩ! Ba má mầy sau nầy ngồi lượm bạc chất đầy nhà nứt đố

vách. Tha hồ mặc hàng hiệu, đi xe mắc tiền … Nhưng đường còn dài phải 7,

8 năm nữa lận cháu ơi. Bảo ba má cháu đừng nằm mơ giữa ban ngày. Đừng

có đắc ý quá sớm, coi chừng bị “Stroker”! Chưa nhờ con thì đã quỵ thủ chủ

rồi…

Hiền nghe em nói, cô nổi nóng mắng vãi:

- Mầy là con vô duyên hết thuốc chữa! Nó là cháu gọi mầy bằng dì, là

con của chị ruột mầy đó “Cha chết nấp chân chú/ Mẹ chết nấp vú dì” Lương

tâm của mầy đâu? Đã bị chó gậm rồi hả? Sao mầy ăn nói hàm hồ độc ác như

vậy? Có ganh tị thì dạy con mình học hơn con người ta đi. Thiệt là già rồi

mà tánh xấu không chừa…

Ngọc Hân chớp mắt làm thinh có vẻ hối hận. Nhưng cô cũng cứng

miệng, sừng lại chị:

- Chị lúc nào cũng rầy ép tui binh chị Mỹ Dung! Chị có biết chị Mỹ

Dung nói sao lúc con Ngọc Hà của tui được nhận vào trường Đại học

không? “Con Ngọc Hân nghèo không để người ta thương. Vợ chồng làm cu-

li thấy bà mà làm tàng cho con đi học trường Harvard. Cho nó đi kiếm

chồng thì đúng hơn chớ học hành cái khỉ khô gì! Tao chống mắt chờ xem coi

con đó có ra trường nổi không…” Chị coi, bả nói con tui vậy đó. May mà

con nhỏ ra trường đi làm chớ không bị ảnh hưởng vì lời trù ẻo rắn rít của bả.

Hiền thở dài:

- Thì ra mầy trả đũa? Lúc nó nói mầy như vậy, mầy có buồn và tức

không? Và bây giờ mầy nói lại nó thì mầy cảm thấy lòng sung sướng lắm

hả? Tụi bây thiệt là như hai con chó cắn lộn với nhau. May mà ở gần đây ít

người Việt! Không thì hai đứa bây làm trò cười cho thiên hạ.

Những chuyện xảy ra tương tự như vậy giữa hai cô em Hiền không

phải là ngừng lại. Mà có đều đều không việc nầy cũng việc khác. Nhưng sự

giận hờn giữa hai chị em chỉ kéo dài một thời gian ngắn mười bữa nửa tháng

thôi thì hai cô đề huề vui vẻ trở lại. Họ đi chợ chung, đi ăn chung… như

không chuyện gì xảy ra. Và khi tối lửa tắt đèn chị em xúm xít có nhau.

Mấy năm sau nầy, con cái của ba gia đình ra trường đi làm xa hết. Vợ

chồng của Minh Hiền đã đến tuổi hưu trí non. Họ nghỉ việc, dời về sống ở


miền Nam của nước Mỹ. Vùng có khí hậu ôn hòa, nắng ấm chớ không khắc

nghiệt về mùa đông như hai mươi mấy năm sinh sống ở Chicago. Hai cô em

Mỹ Dung và Ngọc Hân vẫn còn sống nơi vùng lạnh lẽo đó. Giờ đây hai đứa

cũng đã là bà ngoại, bà nội rồi. Nhưng cả hai vẫn khắc khẩu và cái nết cãi

nhau đánh chết cũng không chừa.

Gia đình Hiền rời khỏi vùng đất lạnh hơn ba năm. Hôm nay Mỹ Dung

và Ngọc Hân mới khăn gói đi thăm bà chị của mình. Dù hằng ngày họ vẫn

gọi điện thoại nói chuyện với nhau. Ngoài những chuyện thăm hỏi thường,

thì lâu lâu hai con đó cũng ưa méc và tâu rổi chuyện nầy chuyện kia, mà con

nào cũng giành phần phải về mình. Mỗi lần nghe hai đứa em kể lể thì cô

mỉm cười một mình! Ôi cũng tốt, có như vậy thì sở điện thoại mới thu được

nhiều tiền của khách hàng gọi viễn liên chớ!

Hiền ra đón 2 em, mấy năm rồi ba chị em mới gặp lại ở phi trường.

Họ ôm nhau cảm động chảy nước mắt vui mừng. Hai em mua cho chị nào

bóp hiệu, giầy da thiệt, loại da tốt để đi cho êm chân. Áo mặc mùa đông dệt

bằng chỉ tốt đắt tiền, nhẹ mà giữ ấm. Trong những ngày hai em đến thăm,

Hiền đưa đi thăm viếng những nơi có di tích lịch sử, những cảnh đẹp trong

vùng. Đi ăn uống những tiệm có món ăn đặc biệt. Đi mua sắm…

Mười ngày viếng thăm qua mau. Ngày mai hai em trở về nhà. Hiền

mua cho em đem về những món ăn, những trái cây hiếm quý đia phương

trồng, hoặc từ các vùng ấm như Mễ, Florida, Texas… chở đến bán. Mà ở

vùng đất lạnh Chicago không trồng được. Như là bưởi thanh trà, ổi sá lị,

hồng giòn, chuối xiêm đen, mãng cầu dai, mít nghệ…

Sau bữa cơm trưa, ba chị em ngồi xem DVD nhạc mới ra. Minh Hiền

cười nói với hai em:

- Chắc bây giờ tao đã già rồi, nên không thích những nhạc mới bên

nầy. DVD lúc rày sao họ làm tao không thuận mắt. Mặc dù ca sĩ mới nhiều

người có giọng ca cũng hay lắm…

Ngọc Hân hỏi:

- Chị không ưa ở điểm nào?

Hiền chưa kịp trả lời thì Mỹ Dung hớt trước:

- Tui cũng không ưa. Mấy cô ca sĩ bình thường mặt mày điềm đạm dễ

nhìn. Nhưng khi lên hát thì không biết tại sao? Diễn tả cách chi để mắt mấy

cô không lé, không nhắm, không lộn thịnh trái vải, thì miệng cũng méo,

cũng chu, tay chân thì múa may quờ quạng như lên đồng. Hát thì cứ hát, có

ban vũ rồi thì mắc gì bẻ mòm bẻ miệng, múa, ẹo như vậy? Những bản nhạc

kích động diễn tả thì không nói làm gì. Những bản nhạc buồn, những bản

nhạc tiền chiến mà diễn tả như vậy mất đi ý nghĩa và cái phong cách của

nhạc điệu, lẫn của ca sĩ.

Ngọc Hân như sợ mất phần:


- Tại người ta muốn khác lạ. Ăn mặc thời trang đưa đít, đưa vú nước,

đùi rút gân (những mạch máu xanh nổi trên da) để được chú ý và nổi tiếng

đó mà.

Mỹ Dung trề môi:

- Xì, mấy con mụ ra hát mặc áo Tàu không có mặc quần, chẻ cái tà áo

từ dưới lên trên cao gần tới lưng quần thiếu điều đưa hết ra ngoài thì đẹp đẻ

gì đó? Hát dở thì hát dở bộ ăn mặc vậy rồi hát hay sao? Các ca sĩ ngày xưa

hát hay, ăn mặc đoan trang thùy mỵ thì cũng nổi tiếng như cồn vậy. Còn

nữa, mầy có thấy mấy người hát cải lương, qua hát tân nhạc chắc là họ quên,

nên mắt họ trừng, liếc, miệng họ mếu, tay chân uốn éo như mấy người hát

Bội đến chỗ «Thần Nữ Dâng Ngũ Linh Kỳ» hay «Lưu Kim Đính Giải Giá

Thọ Châu» vậy. Thiệt là khó coi quá trời! Còn MC thì nói nhiều, nói dai, nói

dẻo, nói dài, nói riết nghe phát chán! Không biết mấy ông Giám đốc làm

DVD có để ý đến sự cảm nhận của khán thính giả không?

Ngọc Hân trề môi :

- Bà già rồi nên cổ lổ sĩ giống như chị Tư Hiền. Đó là thời trang là

đợt sóng mới rất thích hợp với giới trẻ bây giờ. Nên người ta làm DVD bán

mới được. Chớ làm theo bà nói thì mấy nhà làm DVD thương mại có môn

sập tiệm.

Hiền nghĩ bổn cũ sắp soạn lại! Hai con em bắt đầu phản pháo với

nhau rồi. Nên cô cố tình đánh trống lảng, cho hai đứa đừng cấu xé nhau mà

mất vui:

- Đứa nào nói tao nghe cũng phải hết. Theo trào lưu tiến hóa thì rất

hay. Nhưng cái nào tốt, cái nào hay thì theo thì bắt chước. Còn phản thẩm

mỹ mà theo thì đôi lúc cũng làm khán thính giả mệt lắm! Có những ca sĩ tuổi

đã lớn. Mình lớn tuổi thì có cái đẹp quý phái của người lớn tuổi. Biết rằng

tạo hình tượng đẹp cho khán giả. Nhưng đã hát hết nổi mà mặt mày kéo,

giựt, chằng… làm chi mà mũi, mắt, miệng… không ở đúng vào vị trí của nó.

Có người nhớ thì miệng khép lại, lúc quên không ngậm miệng thì môi trên

giựt lên lòi cả hàm răng trắng xác, con mắt thì xếch ngược trừng trừng…

Người đối diện bất ngờ nhìn thấy không khỏi giựt mình!

Như nhớ tới chuyện gì? Mỹ Dung cười ngất nga ngất nghéo. Ngọc

Hân biết ngay chị mình sắp đem chuyện gì để «nẻ» lại mình đây? Nhưng cô

chưa kịp phản ứng thì Mỹ Dung lên tiếng:

- Dì Út nó nói đúng đó chị Tư. Phải theo trào lưu tiến hóa, cho nên

con Út nhà mình hôm đi ăn đám cưới con bà Tú mặc áo đầm không tay. Ở

vai chỉ có hai sợi dây bằng cây tăm nhang, trông đẹp hết chỗ chê!

- Đúng rồi, tui mặc mà không đẹp sao được chị Năm?

- Vậy sao? Đừng tưởng bở tao khen thiệt nghen mậy! Mấy đứa trẻ

mười tám đôi mươi da thẳng, lưng eo dù mặc không đẹp cũng dễ nhìn. Còn


mấy mụ xề như mầy thì cái lưng cong vòng như cái lưỡi liềm. Da thì trổ đồi

mồi chỗ trắng chỗ đen lại nhăn, cổ thì giùn. Thân mình mầy thì có ốm thiệt!

Nhưng người ta ốm thơ ốm mộng, ốm liễu rũ mai gầy. Còn mầy thì ốm

nhom ốm nhách, tay chân tong teo như con còng gió. Trời lạnh muốn chết

mà bắt chước người ta ăn mặc như vậy nên tướng đi cà rút cà rút như con cò

ăn đêm. Mặc dù bên trên mầy có khoác cái áo lạnh mỏng. Nhưng thiệt tình

tao thấy mầy không giống ai và tội nghiệp cho mầy quá trời! Lớn tuổi rồi, ăn

mặc thủ thiếp một chút đi mầy ơi!

Minh Hiền lo sợ trời long đất lở sắp tới nơi giữa hai con a đầu tóc bạc

nầy! Nhưng cô ngạc nhiên quá đỗi? Ngọc Hân không giận, mà cười ỏn ẻn

chọc quê lại chị:

- Mụ nầy tối ngày chỉ biết chì chiệt chê em gái mình! Tui biết rồi bà

ơi. Chỉ ông chồng tui cằn nhằn không cũng đủ mệt, còn có đâu tới phiên bà!

Nhớ lại đi, hôm đó bà mặc cái áo có lỗ có hang. Gió mùa đông lùa vào thật

tê tái tâm hồn hả? Ê bộ đi đánh cá sao mà đông mặc áo lưới vậy thím

Năm? Lại còn treo mắc lủng lẳng nào vỏ ốc, vỏ sò, vỏ hến nữa… Ôi, mỗi

lần bà di động thì âm vang nghe lạch cạch! Lạch cạch thật là vui tai vô cùng

kể…

Thế là hai đứa lấy gối của sô-pha chọi nhau, rồi ôm bụng cười

nghiêng, cười ngửa. Minh Hiền cũng cười rũ rượi với hai em. Cô nhận thấy

hai đứa em mình dễ thương quá! Thuở thanh xuân bất chợt quay về lúc ba

chị em ở chung nhà đứa đi học, kẻ đi làm. Mặc dù ba chị em người nào giờ

tóc cũng đã hoa râm. Minh Hiền chẳng nói chẳng rằng đi lẹ vào bên trong

một hồi, cô xách ra cái móc máng áo quần được bọc kín trong bao ni-long

màu trắng đục. Mỹ Dung và Ngọc Hân mắt sáng ngời tưởng chị mình khoe

áo quần đẹp mới mua.

Minh Hiền chậm rãi nói:

- Con Mỹ Dung vượt biên trước 30 tháng 4 mấy ngày. Má qua đời rồi

thì Ngọc Hân mới ra đi. Anh Ba bị tù, các cháu không còn mẹ nên về sống

nương tựa vào ba. Gia đình tao cũng lâm vào cảnh túng quẫn. Anh Tư bây bị

giặc bắt đi cải tạo. Tao bị nghỉ việc, sáng sớm phải đi mua đầu chợ bán cuối

chợ để kiếm sống qua ngày. Bữa đói bữa no, thiệt là khổ sở! Tao cụ bị đồ ăn,

gạo thóc, thuốc men, cả tháng mới về thăm ba một lần. Tội nghiệp ba lắm, vì

buồn lo, nhớ má, nhớ tụi bây. Tuổi già lại chồng chất, nên bịnh bịnh hoạn

triền miên…

Nói đến đây Minh Hiền rướm nước mắt. Hai đứa em cúi mặt ngậm

ngùi. Cô nén lòng, giọng sủng buồn kể tiếp:

- Tao với anh Tư bây không bao giờ có ý định và cũng không hy

vọng sẽ đem gia đình rời nước. Nhớ ngày đó, mấy đứa con chị Ba xuống cho

biết bịnh ba trở nặng. Tao về thăm, trước mấy ngày qua đời, ba có bảo với


tao rằng: «…Bước lên đau khổ của kẻ khác chiếm đoạt để sống, để hưởng

thụ và để hãnh diện chỉ có người Cộng Sản mới làm được mà thôi! Chúng

gieo đau thương tang tóc tiêu diệt lãnh thổ tươi đẹp miền Nam chưa đủ.

Chúng còn muốn người khác đi đến tội ác như chúng! Con nên nhớ, ở chánh

thể Cộng Hòa thanh thiếu niên phải đến trường trau giồi kiến thức. Chánh

phủ còn gởi những thanh niên ưu tú ra xứ người học hành để tiến thân, để

rút kinh nghiệm về góp sức giúp quê hương xây dựng Quốc Gia cho hùng

mạnh. Còn thanh niên ở chế độ Cộng Sản phải ra vườn mày mã tấu để giết

người, cướp của. Vì đó là niềm hãnh diện và sự vinh quang của họ. Bằng

chứng xảy ra từ hồi chúng cưỡng chiếm miền Nam con đã thấy rõ rồi… Ai

cũng một lần chết! Đừng vì ba! Đời ba sống đến đây thì đã quá đủ. Con phải

nghĩ đến tương lai của các cháu. Nghe lời ba, phải tìm cách rời khỏi

nước…»

Minh Hiền nghẹn lời, lấy khăn lau nước mắt. Hai cô em lệ cũng giọt

ngắn giọt dài

- Vậy bây giờ hai đứa bây đã hiểu vì sao lúc gia đình bây ra đi mà tao

không chịu rời quê hương. Cho mãi gần 5 năm sau mới bôn đào. Còn đây là

cái áo.

Mỹ Dung, Ngọc Hân chăm chú nhìn theo từng động tác của chị. Minh

Hiền đang mở bao ni-long để lấy áo ra. Hai cô nghĩ rằng chiếc áo nầy chắc

là đẹp, và phải mắc tiền lắm nên chị mình mới giữ gìn cẩn thận như thế nầy.

Mắt Minh Hiền buồn vời vợi. Cử chỉ cô chẫm rãi từ từ kéo cái máng còn

mắc chiếc áo ra khỏi bao. Đưa cao lên cho hai em thấy! Rồi cô ôm áo vào

lòng thút thít khóc. Hai cô em chưng hửng? Chiếc áo ngắn tay, bằng vải ba-

tít đã quá cũ nên từ màu trắng áo đã ngả màu ngà sậm, trên mình hàng lốm

đốm lem luốc những vết mủ cây. Áo còn có nhiều mảnh vá chằng chịt sau

lưng, trên vai, và trước ngực. Hai cô em lấy làm lạ, mở to mắt nhìn chị?

Minh Hiền nói qua màn lệ:

- Đây là chiếc áo ngoại đã may cho má! Ngày má qua đời, lúc liệm

thì ba và mấy cậu dì có nói: «Thời buổi bây giờ khó khăn quá! Không biết

rồi đây có tiền để mua gạo ăn không, thì nói chi đến mua quần áo. Đồ đạc

của má con cần liệm tượng trưng thôi. Những áo quần tốt nên giữ lại để cho

con cháu mặc sau nầy…».

Hai cô em trườn tới, nước mắt đầm đìa dở áo lên xem. Mân mê từ

đường kim mũi chỉ, mảnh vá. Và hàng nút trước ngực áo đã lắc hết, chỉ còn

lại mấy cái khuy (Phong tục của người miền Nam khi liệm người chết cái áo

phải cắt nút để lại)

Minh Hiền nhìn ra cửa sổ. Mặt trời chiều đã khuất sau dãy đồi xa. Đàn

chim bay về tổ kêu ríu rít trên không gian. Cô chép miệng thở dài: «Má ơi!

Trốn chạy khỏi quê hương là mất tất cả! Giờ đây nơi xứ người chúng con


còn có nhau, và chiếc áo túi lở của má, như bao nhiêu năm rồi con nghĩ rằng

má dang ở bên con!».


Tệ xá Diễm Diễm Khánh An

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Email : dtdbuon@hotmail.com

No comments: