CHIẾC ÁO TÚI LỠ
DTDB
Mấy hôm rày trở mùa mưa lất phất, gió hiu hiu lạnh lùng. Hướng tây
mặt trời nhỏ lại như cái trứng gà treo lờ lững trên cao, e ấp nằm trong lớp
mây âm u hạ thấp màu xám nhàn nhạt. Bên kia những đám ruộng nối tiếp
chạy dài xa mút mắt. Rồi bị chắn ngang bởi những hàng cây dầy xanh xám
nhạt nhòa. Gặp những ngày thời tiết không quang đãng như vậy. Thì mọi
sinh hoạt ở nông thôn như cuốc đất trồng khoai, hái trái, vét bờ, vô phân,
đập lúa… gần như bị ngưng trệ.
Sau buổi cơm chiều đạm bạc của gia đình thường thì với tô mắm
chưng. Mắm đã ướp với chút đường, tiêu đâm bể hai bể ba và một muỗng
mỡ nước, vài tép hành lá xắt nhuyễn rắc trên con mắm lóc nằm khoanh trong
tô đá. Bà ngoại dở nắp đặt tô mắm trên mặt nồi cơm đã cạn nước. Cào lửa,
để than hồng chờ cho cơm chín. Khi cơm chín thì mắm ăn được.
Trên mâm cơm, kế tộ mắm chưng là dĩa bàn lớn rau lang (đọt non)
luộc. Đọt lang hái ngoài liếp khoai còn đọng mủ trắng. Đem luộc chín mềm
rồi mà cọng vẫn còn màu nâu, lá vẫn còn màu xanh mướt. Ngoài hai món
trong chiếc mâm bằng cây, còn có tô canh tập tàng nấu cá rô rỉa thịt bỏ
xương với nhiều loại rau như: đọt mướp, rau dền, lá bồ ngót, mồng tơi, dưa
leo đèo, bắp trái sát lấy hột, mướp… Có khi thì canh khoai mỡ, khoai từ,
hoặc vài loại canh khác… Canh xiêm lo nấu con mẻ với bắp chuối và khô
lăng phồng. Nêm ngò gai, lá quế, cần nước, ớt hiểm chín đỏ xắt nhỏ.
Những chiều đi học về đến đầu cầu ván, Hiền đã ngửi được mùi canh
tỏa bay nực nồng cả mấy cái nhà ở dưới gió trong xóm. Khi thì mùi tép
cháy, cá bống kho tiêu, cá thác lác muối sả ớt chiên giòn…
Cơm chiều nay thì Hiền ăn khô cá trạch nướng vàng xé ra, trộn gỏi
dưa leo có bầm thêm xoài sống và rau thơm. Nấm mối nấu canh dừa mà bác
Hai Tiên nhổ được, đem cho hồi trời còn tờ mờ sáng. Món mặn thì có cá trê
trắng giả cầy. Cá trê trắng làm sạch ướp với ca-ri, tỏi, sả, ớt, hành bầm
nhuyễn, chút đường và nước mắm. Khi chảo dầu hay mỡ nóng, để cá ướp
vào xào cho miếng cá tái đi, để thêm nước thiêm thiếp. Khi chảo cá trê giả
cầy cạn thì cho rau răm vào. Món nầy coi vậy mà ăn bắt miệng lắm.
Với những món ăn bình dân, quê mùa cả nhà xúm xít trên bộ ngựa
đóng bằng ván của cây mít già. Họ ăn uống, bàn chuyện mùa màng, chuyện
thời tiết… Bữa cơm quê quanh đi quẩn lại với những món thanh đạm ít tốn
kém, nhưng trong nhà tiếng nói cười rộn rã, vui vẻ, thân thương, ấm nồng.
Vào những ngày Tết, hay nhà có đám tiệc thì món ăn nhiều ơi là
nhiều! Đám giỗ ông ngoại lớn nhứt trong năm của gia tộc ở nhà cậu Trịnh
Quốc Việt. Đó là cậu Ba em ruột của má Hiền. Đứa em trai lớn trong gia
đình họ Trịnh lãnh phần hương hỏa. Thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ…
Mấy tháng trước đám giỗ ông ngoại, bà ngoại và mợ Ba đã mấy
chuyến đi chợ quận mua các thứ cẩn thiết để nấu nướng trong ngày đám giỗ
ngoại. Họ mua bún tàu, kim châm, bạch quả, khô mực, tôm khô, lạp
xưởng…
Tối rạng mặt ngày cúng tiên thường là bà cho gói bánh tét, bánh ít.
Còn các bánh men, bánh gai để dành ăn tráng miệng thì thường xóm diềng
bưng cả quả lại cúng. Các dì cậu ở thành thì đem về bánh Tây, rượu, trà
thượng hảo hạng. Còn cậu, dì ở quê thì xách qua nào gà thiến, gà mái dầu,
vịt tơ, tôm, cá… thứ nào cũng ngon, cũng lớn, cũng quý.
Ngày tiên thường thường cúng đơn sơ. Nhưng cũng cá chẻm chiên
tươi. Cua biển đón mua từ biển Gò Công. Làm món xào giấm để lên dĩa bàn
lớn rau càng cua bóp xổi. Cá bông lau nấu lẩu. Bún tàu, tàu hủ ky xào với
tôm và thịt ba chỉ thái mỏng. Dồi lươn um. Mắm cá lóc thái, trộn đu đủ mỏ
vịt bào sợi ăn với thịt phai rau sống. Tính ra cũng nhiều món lắm chớ!
Đó là buổi chiều. Chừng bảy, tám giờ tối còn có bữa cháo gà, chè,
nước trà, bánh ngọt đãi chòm xóm nhứt là thanh niên ở lại đờn ca, hát hò. Có
năm ba người lớn đánh cờ, có những người ngồi quanh bàn tròn nói chuyện
thời sự… Ngày cúng tiên thường chỉ đãi gia đình họ hàng thân cận và tá điền
đến giúp.
Tối đêm tiên thường, sáng ngày chánh giỗ thì một giờ sáng đã bắt trả
nước sôi thật lớn để đàn ông làm heo. Sau đó đàn bà làm gà làm vịt. Thịt thà
chặt, xắt, thái… đâu ra đó. Người nào lãnh nấu món gì thì tư lo mọi thứ cần
thiết để nấu (vật liệu đã mua sắm sẳn) Nếu không tìm ra thì hỏi chủ nhà là bà
ngoại và mợ Ba.
Họ nấu món cà-ri nị bằng vịt xiêm thay vì nấu với thịt dê như người
Ấn Độ, ăn với cơm nị. Chả đùm, gỏi củ cải trắng, củ cải đỏ, trái su, dưa bà
cai xắt mỏng trộn với tôm càng xanh nướng lột vỏ xé tơi. Bên trên dĩa gỏi
còn rắc đậu phộng rang đâm nhỏ và rau thơm xắt nhuyễn, ăn cặp với bánh
phồng tôm mua từ Sa Đéc. Vịt tiềm kim châm, táo đỏ, hột sen, bạch quả, da
heo khô…ăn kèm với bún. Cá bống tượng chưng. Cá sủ chiên dòn chan sốt
chua ngọt đệm thêm hành tấy xắt bản lớn, cà chua, cần tàu. Đậu Hòa Lan
mua từ Đà Lạt xào với lòng gà vịt. Cơm dương châu rang theo kiểu người
Tàu. Măng ta hầm giò heo. Thịt nuột lưng thái mỏng ướp ngũ vị hương, xỏ
xâu nướng ăn với sà-lách-son trộn giấm đường và chan thêm dầu phộng pha
tiêu đen. Cá lóc, thịt đùi heo kho với trứng vịt. Bì cuốn với giá, rau thơm, xắt
từng khoanh nhỏ vừa miếng ăn, chấm với nước mắm chua ngọt dưa kiệu dưa
gừng.
Năm nào đám giỗ ông ngoại của Hiền cũng vui quá là vui, vui hơn cả
ngày Tết, Vì gia đình ba, má, anh chị em của Hiền đều về. Hiền có thật
nhiều quà bánh từ họ. Gia đình các dì cậu ở xa cũng chở con cái về dự cúng
giỗ cha ông. Tội nghiệp bà ngoại và mợ Ba là cực nhọc nhứt. Nhưng trên
mặt họ luôn đượm nét vui mừng và hạnh phúc gia đình xum họp.
Bà ngoại của Hiền có sáu người con. Má Hiền là cô Hai Thuận gả cho
ba là thầy giáo Lũy dạy học trò ở trường Tiểu học quận Hòa Đồng (trên
đường Mỹ Tho đi xuống Gò Công). Dì Tư Kim có chồng làm chủ một tiệm
may lớn ở Sài Gòn. Dì Năm Tao giàu có nhờ tiệm vải ở chợ Cái Bè và chành
đồ gốm từ Lái Thiêu, và miệt Châu đốc chở xuống bỏ mối. Dì Sáu Hà gả
cho con người bạn đồng liêu với ông ngoại. Ruộng đất bề bề có mấy mẫu
vườn trồng toàn mận hồng đào, ổi xá lị, cam hồng mật… Dưới bến sông nhà
họ lúc nào cũng nườm nượp ghe, xuồng của mối lái đến mua trái cây. Nếu
đến các làng lân cận như là Hòa Khánh, Mỹ Thuận, Mỹ Tây, Bà Đưng, Ông
Mẻ mà hỏi ông Cả Mai (cha chồng dì Sáu Hà) ở Cổ Cò gần An Hữu thì ai
mà không biết.
Khi ông ngoại qua đời và các con lần lượt có nơi có chỗ yên bề gia
thất. Thì bà ngoại quyết định ở với cậu mợ Ba. “Nhứt trưởng nam/ Nhì con
Út” Bởi cậu Ba là con trai trưởng của bà. Mợ Ba theo đạo Hòa Hảo (Giáo
chủ là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ), ăn chay một tháng mười ngày. Mợ là
người thật thà, hiền lành biết điều với bên chồng. Hiếu kính với mẹ chồng
như mẹ của mình nên bà mới ở chung.
Hiền sống với ngoại lúc cô còn nằm nôi. Được mợ Ba cho bú thép (bú
khín, bú ké với đứa trẻ khác) với thằng Liễm con mợ. Người đời có câu:
“Con tôi khát sữa bú tay/ Ai cho bú thép ngày rày mang ơn”. Bà ngoại của
Hiền thường kể lại rằng:
- Mẹ cháu sanh cháu, nhưng cháu bú sữa của mợ Ba. Mặc dù thằng
Liễm sanh sau cháu hai tháng. Mà cơ thể thằng nhỏ mập mạp cù lự hơn
cháu. Cháu là đứa trẻ sanh thiếu tháng nên lúc nhỏ cơ thể yếu đuối, ốm còi,
ốm cọc. Không ai biết cháu bịnh gì, mà lúc nhỏ mẹ cháu cho bú bao nhiêu
thì cháu cũng ọc ra hết? Còn bị nóng, ho, bịnh liên miên nữa...
Bà mỉm cười nét mặt rạng rỡ. Tay vuốt tóc cô cháu gái, bảo:
- Thấy cháu èo uột nên ngoại đem về hoạn dưỡng. Chớ thầy coi cháu
không nuôi được đến 4 tuổi. Còn nếu cháu qua 4 tuổi thì sẽ sống lâu như ông
Bành Tổ ở bên Tàu. Hãy nói cho ngoại nghe, năm nay cháu bà đã mấy tuổi
rồi?
Hiền chịu nhứt là câu nói sau cùng của ngoại. “Cháu sẽ sống lâu như
ông Bành Tổ” Mặc dù lúc đó cô không biết ông Bành Tổ là ai, và sống bao
lâu? Xòe bàn tay thon dài đưa qua, đưa lại trước mặt ngoại, cô cười má lúm
đồng tiền:
- Năm tuổi, cháu hơn năm tuổi rồi đó ngoại à. Cháu sẽ sống dai như
ông Bành Tổ. Khi lớn lên như chị Kiều, chị Nguyệt con cậu Ba, con dì Sáu
thì cháu sẽ nấu cơm, giặt áo quần, cho heo, cho gà, cho vịt ăn… Cháu sẽ làm
hết mọi công việc trong nhà để ngoại nghỉ ngơi cho khỏe nghen bà.
Thế là bà ngoại rướm nước mắt yêu thương. Ôm chầm cháu vào lòng
hôn lấy hôn để. Trìu mến nhìn cháu khen ngoan, khen giỏi… Bởi vì còn nhỏ
tuổi như vậy mà có lòng hiếu kính và ăn nói có hậu lai.
Ở miền Nam nước Việt qua những ngày Tết Nguyên Đán thì vào mùa
trái cây. Dọc hai bên bờ sông, mương, rạch, vườn… xóm trên, thôn dưới các
loại trái cây phơi phới dưới nắng trời. Các cây xoài tượng, xoài cát đen, xoài
cát trắng, xoài thanh ca, xoài voi, xoài hòn… Nhứt là cây xoài Lữ Phụng
Tiên có hột dẹp lép, cơm vừa dẻo lại vừa ngọt, ở vườn ông Năm Sầu Riêng
làm hấp dẫn lũ trẻ trong xóm đợi giông gió đi lượm. Có khi chúng còn lấy
đất, lấy đá chọi cho xoài rụng để lượm nữa.
Tại sao người ta gọi ông Năm Lê Văn Tài lại là ông Năm Sầu Riêng?
Nghe mấy ông trong xóm khi chén thù chén tạt, say ngà ngà kể lại rằng lúc
còn nhỏ, khoảng mười, mười một tuổi, có lần ông Năm Tài oang oang cái
miệng khoe với bạn bè rằng:
- Hồi chiều, tao đi ngang qua gốc sầu riêng nhà bà Tư Cọp. Bỗng có
trái sầu riêng thiệt bự bằng cái thau, nặng mấy ký lô rơi xuống trúng đầu tao!
Lũ bạn chưng hửng, có đứa nhào đến mò đầu, đứa kéo tóc ông coi có
thiệt không? Có đứa cười lớn nói:
- Mầy nói xạo! Chớ tao có thấy đầu mầy bị xây xát, hay trầy trụa chỗ
nào đâu?
- Ê đừng nói ẩu nghen mậy. Trái sầu riêng đâu rồi? Tao không tinh.
Vậy mà thằng Năm Tài còn cứng miệng huênh hoang:
- Tao sợ bà Tư Cọp thấy trái sầu riêng sẽ lấy lại. Lật đật chạy bay một
mạch ra côi vườn, mà trái sầu riêng vẫn còn dính khắn trên đầu tao. Mèn ơi,
sầu riêng chín cây thiệt ngon quá xá tụi bây! Ngon quá là ngon nên tao ăn
sạch bách rồi…
Bạn bè đứa trề môi, đứa méo miệng. Đứa hò hét ì ầm:
- Thôi đi mầy ơi. Mầy là cái thằng “láo thiên láo địa/ Láo từ Bà Rịa
láo vô/ Láo từ núi ông Tô láo xuống” Trái sầu riêng mấy ký rớt dính đầu là
toi mạng rồi con ơi! Vừa vừa thôi đừng có láo hết thuốc chữa đó nghen
con…
Miệng truyền miệng, từ đó ông Năm Tài có cái tên mới là “Năm Sầu
Riêng”. Cho đến bây giờ đã mấy chục năm rồi, ông ta vẫn còn mang cái tên
cúng cơm nầy.
Tỉnh Mỹ tho nổi tiêng có trái cây ngon. Nhưng trái cây có nhiều nhứt
là ở các làng lân cận bắc Mỹ Thuận thuộc quận Giáo Đức (trước kia là làng
An Hữu, sau được lập thành quận) như ở Bà Đưng, Hòa Lộc, Nỹ Đông, Mỹ
Tây… Trong vườn nhà ngoại của Hiền có nhiều loại trái cây, như là: mận,
điều, lê, lý, cam, quít, chôm chôm, bòn bon… Còn ổi thì khỏi nói nào là ổi
sá lị, ổi tố nữ, ổi tám tháng, ổi cửu ngoạc, ổi sẻ, ổi trâu …
Trong các loại trái cây, Hiền không ưa trái nào có nhiều hột. Trái
thanh long có nhiều hột, mặc dù hột nhỏ li ti màu đen nằm trong cơm trắng
mịn màng. Thanh long ăn hột không dính răng như ổi, như lựu. Nhưng cơm
của trái thanh long mềm, lờ lợ lạt lạt không ngon, nhưng nên thuốc. Hình
dáng và màu sắc tươi thắm. Trái thanh long dài chừng 2 tấc có khi lớn bằng
bắp chuối, màu tím đỏ, mình chạy những lằn gân lồ lộ màu xanh tươi. Ở
thôn quê người ta thường dùng thanh long làm mâm trái cây đi lễ hỏi, cưới
(trong 4 mâm ngũ quả). Dù nghèo cũng phải có, đó là: bánh, trái, rượu, trà.
Trái chuối hột quá nhiều hột, mà ăn vào Hiền dễ bị bón. Kế đó trái lựu, trái
ổi, nhứt là ổi trâu.
Ổi trâu trái lớn bằng nắm tay. Khi chua, ổi da láng bóng, hột nhiều và
lớn, cơm trắng lột xột và lạt nhách. Chỉ bị vài trận mưa thì ổi trâu có giòi. Ổi
nầy thường do chim ăn ỉa ra mọc lên ở vùng đất bỏ hoang, cây cối rậm rạp.
Ổi trâu không ngon còn chiếm tàn lớn nên ít ai trồng. Nhưng khi chín thì
mùi thơm không ổi nào bằng! Hiền thích hái ổi trâu cúng trên bàn thờ ông
Địa, hoặc giữ trên các kệ trong nhà để hưởng mùi ổi chín.
Quê ngoại của Hiền ở gần bắc Mỹ Thuận. Ngoài trái cây ngon có
tiếng ở tỉnh Mỹ Tho, còn có thủy sản như tôm càng xanh vỏ, ốc gạo, rùa, cua
đinh.... Cá trắng từ các sông rạch, cá đen của miền đồng ruộng Tháp Mười,
từ các con kinh theo nước ra. Và còn các loại chim trời để ăn thịt nữa.
Những hàng quán ở dọc hai bên bắc Mỹ Thuận mỗi ngày đều có bán món
chim quay, chiên dòn, nướng, rô-ti nước dừa xiêm… Ngon nổi tiếng đáo để
mà hành khách qua lại hàng ngày ít ra cũng một lần đã dừng chân lại để
thưởng thức.
Đến mùa cày ruộng thì đi bắt cua đồng, cá, ốc bưu, ốc lác… Bắn
chim, bẫy chuột đồng, câu cá… Tan trường học trò sống trong làng thường
cùng các bạn đi trên bờ mẫu về nhà. Vào mùa nước ngập linh láng tràn bờ.
Không biết đường ở đâu mà đi, cầu ở đâu mà qua. Thì cha mẹ hay anh chị sẽ
bơi xuồng, chống ghe để đưa con em mình đến tận cửa lớp học, hoặc rước
về nhà.
Ở làng thôn ngoài cúng giỗ, hỏi cưới thôi nôi đầy tháng... riêng rẽ
trong gia đình, còn có những lễ lọc chung cho cả miền: Lễ Giáng Sinh bên
Công giáo, lễ Trung Thu, rằm Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn (bên
lương giáo). Rằm Thượng Nguơn lớn nhứt của 3 cái rằm trong năm.
Cứ vào tháng ba ở đình làng quê ngoại của Hiền, ban Hội đồng đi
quyên góp tiền và xuất quỹ mở tiệc đãi dân cư ngụ trong thôn làng. Họ
mướn gánh hát chầu về hát Bội 3 ngày liên tục. Trước sân đình làng họ che
lều, dựng trại, và những quán lộ thiên buôn bán thức ăn cho dân nhàn du vui
chơi trong suốt 3 ngày lễ hội. Trong dịp nầy mấy bà Cả, bà Chủ, bà Hội
Đồng… Những người đàn bà chồng có chức sắc trong làng tha hồ mặc quần
lãnh, áo nhiễu, đeo vòng đeo vàng khoe đẹp, khoe sang. Thanh niên, thiếu
nữ ăn diện bảnh bao quần là áo lụa đi từng đàn, từng đám nói cười vui vẻ
trên các đường quê. Chỉ có những ngày lễ là lúc dân làng có dịp tiêu tiền, ăn
uống vui chơi, giải trí. Để rồi sau đó thôn dân tay cày, tay cuốc lam lũ làm
việc suốt tháng quanh năm.
Tuổi thơ của Hiền thật tươi đẹp, mà những đứa trẻ sanh ra và lớn lên ở
thị thành, như anh chị em của Hiền thì không làm sao được hưởng. Họ
không làm sao biết được thời tiết, mưa nắng, gió bão, đêm trăng, hoàng hôn
xuống, hay mặt trời lên… Cùng những cảnh vật thiên nhiên êm đềm, tươi
đẹp, sinh động của đất trời ở thôn làng trên dải đất quê Nam.
Sống với gia đình cậu mợ và ngoại đến năm 7 tuổi thì Hiền về sống
với cha mẹ ở thị thành để tiếp nối việc học hành. Khi Hiền vừa vào trường
học nghề thì mẹ cha cô hưu trí. Ông bà về mua 10 mẫu đất ruộng, 5 mẫu đất
vườn. Đất của ba má Hiền nằm trên bờ con sông dài chảy qua, xa chợ, xa
đường xe nhưng gần thôn ngoại và gia đình các cậu mợ, dì dượng đang sinh
sống.
Bao nhiêu vốn liếng dành dụm mấy chục năm đi dạy học, ông bà đã
đổ vào hết mấy mẫu đất nầy để canh tác. Ba cô là thầy giáo dạy học trò Tiểu
học. Tuy về hưu, nhưng ông vẫn còn khỏe mạnh.
Ba của Hiền có thân mình vạm vỡ, bắp thịt nở nang, chắc chắn, tráng
kiện, đi đứng lanh lợi tháo vác chớ không gầy gò, ốm yếu, ho hen. Ông cũng
không ngồi chỉ tay năm ngón cho vợ con làm như những đồng liêu của ông.
Má của Hiền là con gái lớn của ông Cả, nhưng bà giỏi giang trong việc trồng
trọt ruộng nương ngay từ thuở chưa chồng.
Mặc dù là gái nhưng bà xông xáo làm việc thay cha để em ra tỉnh học.
Bà ra đồng coi sóc, phân phát, trông nom tá điền trong việc ruộng nương,
trồng tỉa… Khi gả con, ông ngoại than với bà ngoại rằng: “Con gái tới tuổi
phải gả lấy chồng. Con Hai nhà mình là đứa con nhờ, con cậy. Gả nó đi rồi,
tui như mất cánh tay …”
Trước khi đưa gia đình về quê, ba cô tự đo vẽ nhà, mua cây cột, kèo,
đòn tay, ván… Rồi nhờ thợ mộc làm theo ý ông cất ngôi nhà ba gian, hai
chái. Mái nhà lợp lá, vách bổ kho khang trang trên nền cao ráo, lót gạch tàu.
Sau đó, miếng đất ruộng gần nhà ông mướn người lên vườn thêm 3
mẫu nữa (vườn trước sau có 8 mẫu) trồng cây ăn trái rành rạnh. Vợ chồng
ông nghĩ ruộng mỗi năm chỉ làm có một mùa. Lên vườn trồng trọt được
nhiều thứ, sau mùa lúa có thể trồng rẫy sẽ có lợi nhuận vô đều đều. Đất ông
bà nằm sát bờ sông Mỹ Thiện. Con sông lớn có những nhánh đi vào Ngã
Sáu, Kinh Bùi, Đồng Tháp rồi qua liên tỉnh Kiến Phong, Cao Lãnh, Long
Xuyên, Châu Đốc, Rạch Gía, Hà Tiên…
Bà giáo Lũy còn chịu khó nuôi heo, nuôi vịt, nuôi gà, và đào 2 cái
hầm lớn nuôi cá tra. Một hầm nhỏ gần nhà cho ăn tấm, cám, chuối cây xắt ra
bằm nhuyễn. Để gia đình bất cứ lúc nào muốn ăn thì bắt lên ăn và dành khi
cúng giỗ. Còn cá nuôi cầu ở sau vườn, bên trên bà cho cất chuồng heo để
heo ỉa rớt xuống cá ăn. Và có làm cây cầu cho người đi nữa. Cá tra ăn các
loại cứt, lớn đến lứa thì ông bà kêu mối lái bán đi. Ông Lũy nói với các con:
- Cá nuôi cầu mau lớn, thịt trắng nhiều mỡ ăn thịt ngon hơn cá nuôi
bằng tấm cám. Các con có muốn thử không?
Chị em của cô Hiền nhăn mặt lắc đầu nguầy nguậy. Đứa ụa, đứa phun
nước miếng phèo phèo, đứa nhăn mặt cằn nhằn ba mình. Ông cười, bảo với:
- Nếu đi chợ mua, các con đâu phân biệt được cá ăn thứ gì? Ở dưới
sông cá sóc sọc, cá lòng tong, cá chốt… nhiều loại cá khác cũng ăn phân
người ta vậy. Tôm tép còn rỉa thây ma chết sình nữa kia!
Em kế của Hiền, càm ràm:
- Nhưng khuất mắt không thấy thì thôi. Chớ trước mặt! Con sẽ ăn
không vô. Ba bán cho người ta như vậy sẽ mang tội cho mà coi.
Ông cười hiền, rồi nói tiếp:
- Con không biết, chúng ta muốn ăn cá nuôi cầu, phải bắt chúng bỏ
vào rộng. Đem ra rạch hay sông cắm sâu dưới nước. Ngày hôm sau nó nhả,
ói ra hết chất dơ bẩn. Còn cá chở ra thành thị bán cũng vậy. Thời gian chở
đi, nó cũng ọi ra hết chất dơ rồi nên không có tội!
Ông già nói gì nói. Nhưng ba chị em của cô Hiền không ăn dù các cô
biết cá nuôi bằng tấm cám. Và về sau nầy cũng vậy, Hiền cùng hai cô em
không bao giờ ăn cá tra.
Bờ sông trước nhà, ông giáo cho người đặt một cái vó có khung rộng,
để khi nước lên đặt vó bắt tép mọi, tôm, cá thác lác, cá trạch, cá thiểu… các
loại cá sống gần trên mặt nước. Khi nào vó cá không đủ ăn thì đón xuồng
chài xuồng lưới, xuồng câu mà mua. Ba má cô sống an vui nơi thôn làng
trồng trọt sanh lợi khá lắm. Mấy năm sau ông bà mua thêm đất, xây nhà
tường, lót gạch bông.
Còn ba chị em cô Hiền đi học xa, cứ cuối tháng, nghỉ hè, ngày lễ lộc
thì về thăm nhà. Ôi những ngày đó tha hồ ăn bánh xèo, bánh canh, bánh
khọt… Trưa ra mương bắt ốc lác, ốc đắng, bưu về um sả, về luộc. Đêm đêm
bà giáo còn nấu chè khoai, chè bắp, chè mì chan nước cốt dừa… Đến mùa
trái cây, mùa lúa chín vàng đồng… Đêm trăng sáng… Đến mùa đông gió
bấc thổi lạnh. Rồi mùa xuân, các loại hoa, khoe hương khoe sắc. Hoa mai nở
rộ vàng ối cả khu vườn để đón Tết Nguyên Đán.
Nhớ hồi ba cô báo cho các con biết là ông bà sẽ đem gia đình về quê
khi ông hưu trí. Hai cô em gái của Hiền phản đối kịch liệt để lay chuyển ông
bà già đừng đi. Nhưng vô hiệu chúng nó buồn rầu khóc rấm rứt vì ngại ở
thôn quê cực khổ, thiếu tiện nghi, thiếu phương tiện. Nhưng sau mấy mùa
hè, lễ nghỉ về sống dưới quê với cha mẹ. Hai đứa em cô mới thì thầm to nhỏ
với nhau rằng:
- Bây giờ mình mới biết sao ba má thích sống ở thôn quê!
Cha mẹ Hiền bán được mười mấy mùa cây trái trồng ở vườn thì cuộc
nội chiến Quốc Cộng càng ngày càng sôi động, ác liệt. Từ mấy năm rồi, sau
ngày hai chị lớn đã gả chồng an bề gia thất ở tỉnh xa. Thì Hiền học xong
chuyên môn ra trường đi làm, và hai cô em gái đứa năm trước, đứa năm sau
ban Trung học Đệ nhị cấp. Ông giáo Lũy là người thức thời, nhìn xa nên
luôn khuyến khích con gái học hành. Ông thường bảo:
- “Ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay” Thời buổi nào cũng vậy,
dù là gái, nhưng các con phải học lấy cái nghề. Để ngày sau có cuộc sống
vững vàng bảo đảm, mà cùng chồng lo tương lai cho con cái. Đất nước được
cải thiện theo đà tân tiến của nước ngoài. Nam nữ bình quyền, nên các con
không nên ỷ lại để chồng lo mọi thứ…
Cho nên năm đứa con gái của ông, mỗi cô đều học một cái nghề để
thủ thân. Còn vườn tược nhà thì cây xanh lá thắm, có hoa trái sum sê bốn
mùa. Đó là nhờ sự cần mẫn siêng năng của ba má cô Hiền.
Ngày đó đã qua! Tính đến nay cũng mười mấy năm rồi. Bây giờ có
còn chăng là quê ngoại nghèo nàn vì chiến tranh giặc giã. Hai bên bờ sông
đường đi vào làng ngày xưa đã bị giặc đào hố, có chỗ nước chảy lững lờ
thong thương như con rạch, con kinh. Những cây cầu lớn bị giật sập. Xa xa
những cây ăn trái như dừa, xoài, vú sữa bị bom đạn dầy xéo làm gãy nhánh
đứt ngọn… Dân cư sống nhờ vườn tược, chài lưới, tạm lánh nạn. Đùm túm
gia đình, tản cư vào che lều sống tạm ở lộ đá, gần chợ…
Rồi trong trận ác chiến dữ dội vừa qua. Thôn ngoại nhà cửa nát tan.
Mái hiên ở chái trên nhà thờ phượng của gia đình bị sập nằm gần mặt đất.
Cậu Ba của Hiền cho chống đỡ lên chớ không tu sửa lại. Bà ngoại qua đời vì
đạn pháo vô tình! Hiền được tin tất tả về chịu tang bà. Cô ngồi chờ ngoài lộ
đá để quá giang xuồng ghe vào nhà ngọai. Nhưng cậu Ba cho người bảo
đừng về! Vì đường về nhà ngoại không an ổn. Hiền đón xe trở về nhà mình
mà nước mắt chảy dài, lòng buồn đau vô kể.
Hôm nay, Hiền về thăm ngôi nhà cũ của cha mẹ giờ chỉ còn là đống
tro tàn! Kèo cột nhà nghiêng ngả. Cây cối có nhánh bị cháy xém, có cây đã
cháy thành than. Chén tộ, nồi niêu méo mó nám đen nám đỏ được gom lại
thành đống. Ông bà giáo Lũy, sau trận tàn phá do ảnh hưởng chiến tranh nầy
đã trắng tay. May mắn hôm đó họ đi thăm em bịnh mới còn sống sót! Nay
thì cả hai, mỗi người chỉ còn cái gì có trên người, và mấy cái quần áo giặt
phơi trên sào ngoài sau gần chuồng gà. Nhưng bị đã lủng lỗ lủng hang rách
rưới teng beng vì mảnh bom đạn xuyên qua! Thấy áo quần rách cô bảo với
mẹ:
- Chú thím Mười có gởi mớ quần áo cũ con xách về cho ba má mặc
tạm thời. Bỏ đi má, quần áo nầy để làm nùi giẻ chớ rách nát hết rồi đâu còn
mặc được nữa.
Mẹ cô ôm mớ áo vừa rút ngoài xào vô, nước mắt chảy dài. Bà vừa dở
lên từng cái vừa chép miệng nói:
- Bậy nà, má sẽ chằm khiếu lại để bận đi làm vườn. Bây giờ miếng
giẻ cũng không có, tiền đâu mà mua thì làm sao bỏ được con? Con coi cái
quần cụt của ba còn mới nguyên, chỉ bị miểng đạn làm tưa lai thôi.
Bỗng mắt của má Hiền sáng ngời, khi bà thấy chiếc áo cuối cùng trên
tay. Bà ôm cứng rồi ấp vào trước ngực như sợ ai lấy mất. Mắt nhắm nghiền
dòng lệ tuôn:
- Má cưng cái áo lắm, lâu lâu đi đâu mới lấy ra mặc. Không dám mặc
thường sợ nó cũ và rách đi.
Nhìn mẹ xót xa, Hiền đỏ mắt bảo:
- Thôi bỏ đi má. Chiếc áo rách nát rồi để làm gì? Tuần sau về, con sẽ
mua hàng vải may cho ba má những quần áo khác.
Mẹ cô ôm cứng chiếc áo hơn. Mắt mở to rồi nói với con:
- Không được. Vì đây là vật kỷ niệm, ngoại ngồi còm lưng may từng
đường kim mũi chỉ cho má trước ngày bà đột ngột qua đời! Còn vá lại được
mà, chỉ bị rách có mấy lỗ ở trên vai và sau lưng thôi. Má sẽ giữ nó cho đến
cuối đời.
Sau ngày nhà cháy, ba má cô theo con ra thành ở đâu mấy ngày, thì
ông bà trở về chốn cũ. Họ dựng cái chòi nhỏ để che nắng che mưa. Tu bổ lại
miếng vườn xưa, cắt bó những nhánh cây bị gãy, bị đứt đọt, bị chết cháy…
Việt Cộng từ miền Bắc lén vàp Nam, lúc nào cũng xách động dân tình
non dạ phá hoại… Súng đạn vô tình luôn đe dọa nếp sống an phận của người
dân quê. Đời sống của người dân nông thôn trong chiến tranh thật vất vả
trăm chiều. Nhiều lúc phải tản cư ẩn náu đâu đó đôi ba bữa đợi gió êm sóng
lặng rồi trở về. Dù cuộc sống khổ sở gian nguy, họ vẫn bám lấy đất nhà, vì
đó là nơi chôn nhau cắt rúng của mình chớ không chịu dứt bỏ ra đi. Thậm
chí ba má của Hiền dù con cái ở thành có nhà cửa, công ăn việc làm dư sức
nuôi cha mẹ. Nhưng ông bà cũng không chịu bỏ đất đai, mà cứ len lỏi tới lui
vun bồi, trồng trọt…
Năm đó, chị Hai của Hiền đột ngột qua đời vì bịnh hậu sản. Năm sau
người chị thứ Ba của cô bị bịnh liệt (bán thân bất toại). Ông bà giáo Lũy
đem con về nhà nuôi để trị bằng thuốc Nam. Bởi sau hai năm bị bịnh, chồng
chị chạy thuốc Tây, thuốc Bắc nhưng bịnh vẫn không thuyên giảm. Cha mẹ
Hiền lại thêm gánh nặng! Nhưng ông bà vẫn vui vẻ chăm sóc kỹ lưỡng nuôi
con mình.
Ngày giặc Cộng tràn vào chiếm miền Nam! Mẹ của Hiền đẫm đầy
nước mắt tiễn Mỹ Dung (em kế của Hiền) theo gia đình bên chồng bồng bế
xuống thuyền chài vượt biển Đông. Sau đó, Việt Cộng lùa người vào trại tập
trung! Cướp tài sản! Dân miền Nam còn xao xác, bàng hoàng trong ngày đổi
tiền đợt nhứt. Mẹ của Hiền bị dồn dập nhiều nỗi bất hạnh. Bị cướp mất hết
đất đai vườn tược, giờ đây lại mất tiền, bà tức tưởi qua đời ngay trong chiều
ngày hôm đó! Hiền đớn đau dắt hai con về chịu tang mẹ, còn chồng cô
không về được, vì bị đày trong tù cải tạo.
Cô nghẹn lời, dòng lệ trào tuôn thấy mẹ nằm trong cổ áo quang như
đang ngủ! Ba cô mặt buổn bã, lạnh lùng. Mắt ông trắng dã vô hồn! Ông như
không còn nước mắt để khóc vợ! Nghe cô khuyên lơn. Ông chỉ nói: “Mấy
mươi năm sống chung. Bây giờ bả đành lặng lẽ bỏ ba mà đi!”
Vợ chồng đứa em Út Ngọc Hân vượt biên khi đứa con đầu lòng sanh
được 3 ngày! Năm sau ba Hiền cũng qua đời. Chồng Hiền bị giặc bắt đi cải
tạo được thả về. Thì gia đình cô cũng bồng bế bôn đào.
Nơi xứ lạ quê người, ba chị em của Võ Thị Minh Hiền, Võ Thị Mỹ
Dung và Võ Thị Ngọc Hân (cô em út) sống cùng làng. Trong những năm
thập niên 80. Người Việt ở vùng Hiền đang tạm cư rất thưa thớt. Lâu lắm, 3,
hoặc 4 tháng trời thỉnh thoảng mới gặp được đồng hương. Vùng đất nầy mỗi
năm gần sáu tháng lạnh. Những tháng mùa đông thì mưa thành tuyết, ao, hồ
đóng thành băng. Cái lạnh ở đây thiệt hết sức khắc nghiệt mà đa người Á
Đông không thích. Vì họ được sanh ra và lớn lên trong một nước có khí hậu
ôn hòa, ở miền Nam mưa nắng hai mùa.
Ba chị em của Hiền may mắn được sống gần nhau, nên đỡ cảm thấy
cái lạnh lẻo giá rét ở ngoài trời và tâm tư cũng đỡ phần cô độc nơi xứ lạ quê
người. Những ngày cuối tuần, ba gia đình thường họp lại nhà Hiền, khi thì
nhà Dung, nhà Hân. Họ nấu phở, chiên chả giò, nấu bún nước lèo, nấu cháo
lòng, bì cuốn, đổ bánh xèo…
Tết thì chị em xúm lại gói bánh tét, bánh ít… Chiều ba mươi Tết,
cùng rước ông bà… Mấy ông chồng thì khề khà lon bia nói chuyện Nam
Tào, Bắc Đẩu… Chuyện thời sự, chuyện trong tù… Mấy con ăn rồi thì đánh
“game”, xem truyền hình, xem phim… Ba chị em của cô Hiền thì kể truyện
ngày xưa. Những kỷ niệm lúc còn sống với cha mẹ, lúc đi học, khi đi làm.
Rồi lập gia đình… Chuyện giặc giã… Chuyện vượt biên, những ngày tháng
dài ở trại tỵ nạn… Hết thiên hạ sự thì ba chị em lại kể chuyện của gia đình
mình.
Ba ông chồng là đầu câu chuyện của ba chị em. Mỹ Dung bảo:
- Trời ơi, bác sĩ đã dặn phu quân tui lớn tuổi rồi không nên uống rượu
có hại cho sức khỏe. Và phải cữ đường, vì độ đường trong máu của ổng quá
mức trung bình rồi. Nhưng ổng có cữ kiêng gì đâu. Ổng lại là người tiêu tiền
như bươm bướm bay… chuyên môn xài bậy! Hễ mấy cha con đi chợ, mấy
đứa nhỏ đi chợ đòi giống gì ổng cũng mua. Tôi cẵn nhằn uống rượu thì ổng
uống bia thay nước lã… Thiệt hết ý kiến mà! Nói không nghe để ổng chết
sớm tui lãnh tiền tử xài đã… Trăm ngàn đô-la chớ có ít ỏi chi đâu!
Hiền càm ràm em:
- Mầy nói bậy nói bạ không hà! Vợ thì phải khuyên nhủ chồng.
Dượng ấy mua đồ cho con chớ có cờ bạc, hay có vợ bé đâu mà nói.
Út Hân cười ngất:
- Xời ơi, ở xứ nầy cày bỏ mạng còn vợ lớn vợ bé nữa sao? Đàn bà ở
đâu ra mà bé với lớn? Ở đây lo gì việc đó chị ơi.
Mỹ Dung trợn mắt:
- Như vậy là mầy lầm to rồi! Ông chồng của mầy trẻ nhứt trong ba
anh em bạn rể. Lại tốt mã gà đồng. Hãy coi chừng chồng em đó nghe em
cưng! Không đàn bà Việt thì đàn bà Mỹ, Mễ, Phi… Ở đây là Hiệp Chủng
Quốc mà dì Út Hân. Coi chừng mầy tối ngày chỉ biết đi làm để kiếm tiền.
Chồng mầy có vợ lậu bên ngoài con rơi con rớt cả đống cả lèn mầy cũng
chưa hay biết đó nhe.
Ngọc Hân coi bộ giựt mình, nhưng làm bộ tỉnh, cười khúc khích:
- Em đâu có lo! Con nào hết thời mới lấy ổng. Ổng ngủ mê thì ngáy
như kéo gỗ, ngáy như bò rống, ngáy như pháo kích của Việt Cộng… Thiệt
thầy chạy, chỉ có con nhỏ nầy mới chịu nổi tiếng ngáy của ổng thôi.
Mỹ Dung cười hí hí, liếc mắt nhìn chồng đang ngồi với em và anh rể
coi đánh banh tới hồi hấp dẫn, cô nói:
- Ờ ông chồng của tui bây giờ cũng sanh tật ngáy. Ngáy như kéo đờn
cò, ngáy như người ta lên xuống giọng cổ! Có khi ổng ngáy lùng bùng, ồ ồ
như bắt con ong bầu dằn dưới đáy dĩa, đặt trên thùng thiếc. Ổng ngáy như
ễnh ương kêu... Nhưng người ta nói người nào khỏe mạnh ngủ ngon mới
ngáy lớn. Thôi như vậy cũng tốt. Ổng hò hét mặc ổng mình ngủ thì cứ ngủ.
Hiền không nhịn được, cô cười lớn rồi lật đật giành nói với hai em:
- Chưa, chưa đâu. Anh rể bây khi ngủ còn ngáy kinh khủng hơn nữa
kìa. Tao nghĩ trên thế gian nầy không ai ngáy lớn bằng ông chồng tao. Ổng
ngáy tủng tủng, ngáy lớn như đánh trống, dọng chuông, ngáy như sấm nổ,
ngáy như chó tru… Cho nên hôm đó tao bảo ổng đi bác sĩ khám xem trong
cổ họng có bị bịnh gì không mà ngáy dữ thần ôn như vậy? Ổng đi về bảo với
tao là bác sĩ nói không có gì hết. Thế là tao bị ổng mắng cho một trận tưng
bừng hoa lá, tơi tả như xơ mướp. Tao nói thiệt, ổng ngáy lớn tao không ngủ
được. Tội nghiệp ổng cũng biết thân, ôm mền qua phòng trống bên cạnh
đóng cửa lại ngủ. Phòng tao cửa cũng đóng kín mít. Nồi đất ơi, vậy mà tao
vẫn nghe ổng ngáy ầm ầm muốn vỡ cả cái nóc nhà, muốn tróc mộng cửa vậy
đó tụi bây…
Khi gia đình hai cô em vợ ăn uống no nê rồi bồng bế nhau về nhà.
Hiền liền bị chồng cằn nhằn:
- Thiệt hết nói nổi! Ba chị em hễ xúm lại thì nói xấu chồng!
- Trời ơi, chồng mình không nói, đi nói xấu chồng người khác. Bộ
muốn tui chết sao? Rủi nói xấu chồng người ta, nghe được họ đánh phù mõ
đó? Nhưng mà hôm anh đi đám cưới con của chị Hai không có ở nhà. Mấy
đêm thiếu tiếng ngáy của anh tui lại không ngủ được. Thế mới khổ chớ!
Hiền mở to mắt vừa nói vừa nhìn chồng cười ngất, ngất! Ông chồng
nhịn không được cũng cùng vợ cười xòa. Vợ chồng sống chung với nhau
mấy mươi năm rồi. Có tánh, tật nào mà không biết của nhau. Có khổ đau,
hiểm nguy, nồng mặn nào mà không chia bùi xẻ ngọt, nương náu, dìu dắt,
đùm bọc, che chở cho nhau đi trên đoạn đường đời vô thường, tình người
đầy hỷ nộ ái ố, và tình đời bạc trắng như vôi nầy!
Trời mùa đông Chicago lạnh quá đi thôi! Nhưng hai cô em của Hiền
cũng hẹn chiều thứ bảy đến nhà chị mình nấu hủ tíu Mỹ Tho. Minh Hiền là
lớn nhứt trong ba chị em còn lại trên đời, sống nơi đất khách. Hiền đứng thứ
tư trong năm chị em cùng cha mẹ sanh ra. Chị Hai và chị Ba đã qua đời trên
quê hương. Khi út Ngọc Hân còn nhỏ thì hai chị lớn lập gia thất ở xa. Nên
họ ít gần gũi và không có nhiều dịp để chị em nhỏ to tâm sự. Vì vậy dù cô
vẫn thương yêu, nhưng không thân thiện với hai chị lớn bằng chị Minh Hiền
và chị Mỹ Dung của mình.
Lúc còn nhỏ đi học thì cả ba chị em được cha mẹ nuôi nấng. Khi
Minh Hiền đi làm chưa có chồng, thì cô thưa với ba má để cô nuôi hai em ăn
học cho đến ngày chúng ra trường đi làm. Hai em đi học, chị đi làm cùng
trong thành phố, nên ba chị em sống chung nhà hết sức tiện lợi. Cứ vài tuần
thì má, hoặc ba các cô đem trái cây, gạo, đồ ăn tươi nấu sẵn cho các con.
Còn hột vịt, các loại khô để nướng hoặc chưng ăn liền … thì lúc nào cũng có
sẵn trong nhà.
Tình nghĩa anh chị em của người Á Đông là như thế. Cha mẹ nuôi
con, anh chị nuôi em. “Quyền huynh thế phụ/ Em ngã anh nâng”. Đó là thứ
tình cảm tốt thiêng liêng cùng huyết thống như keo làm cho tình thân gia
đình thắt chặt hơn. Cho nên chị em họ luôn giữ gìn. duy trì ở cái xứ quá thừa
thãi vật chất thiếu thốn ân nghĩa, thân tình nầy.
Mới chiều thứ tư, Ngọc Hân đã gọi báo cho chị mình biết:
- Chi Hiền ơi, em đã hẹn với chị Dung rồi. Chiều thứ bảy nấu hủ tíu
bột lộc (hủ tíu dai) ở nhà chị nghen. Chị chỉ hầm xương dùm em nồi nước
lèo cho ngon lành thì được rồi. Còn mọi thứ em làm sẵn đem lại. Nhà chị có
xương không? Nếu không thì bảo anh rể đi làm về ghé lấy dùm. Em sẽ treo
sẵn ngoài nắm cửa nghen. Chị Dung bảo sẽ nấu chè táo đỏ, hột sen, la hướng
quả nóng đem đến ăn cho tiêu và ấm bụng. Mùa lạnh ăn cháo lòng, cháo cá,
phở… Các món ăn nóng coi bộ tốt hơn, chớ ăn gỏi, hay bì cuốn thì lãng xẹt,
trật chìa.
Hiền nghe giọng nói eo éo vui vẻ, thật thà của em, cô mỉm cười một
mình cảm thấy nhớ cha mẹ và thương mến hai em mình vô cùng. Mặc dù
chúng nó đôi lúc làm cho cô bực bội hết sức. Vì khó ai thoát khỏi những
chuyện do tánh nhỏ nhen, hẹp hòi, ích kỷ của con người, nhứt là đàn bà. Hai
con em của Hiền cũng không tránh khỏi những chuyện thường tình đó, chớ
cũng không chuyện gì bự sự cho lắm. Thí dụ như là, hơn người thì thích thú
khoái chí, huênh hoang. Thua người thì đố kỵ, dèm pha “vạch lá tìm sâu”
chê bai, ganh ghét…
Chị em họ một hoặc hai tuần hẹn gặp nhau khi thì ở nhà nấu ăn chung,
khi thì chở nhau đi mua sắm, đi chợ… Nhưng hễ mỗi lần gặp thì lại thì
không chuyện nầy cũng chuyện kia. Nhiều chuyện không đâu vào đâu cũng
cãi vã, xỉa xói nhau. Thậm chí xem phim bộ, hai đứa cũng cãi. Hôm tuần rồi
đang xem Tân nhạc trong Video, Mỹ Dung lên tiếng chê:
- Ca sĩ nầy bây giờ bể rồi! Gọng hát dở òm mà cục điệu bằng cái
thúng giạ, ăn mặc lại thiếu vải!
Ngọc Hân cãi:
- Bà khó tánh quá! Người ta hát vậy mà chê. Bà có hát bằng bả
không? Tui nhớ ngày xưa lễ bãi trường bà lên hát hay như dế kêu đêm, lúc
trời mưa dầm...
- Mầy giỏi quá há? Tao nhớ bãi trường Tết năm đó, mầy đóng vai Thị
Mầu trong vở kịch Quan Âm Thị Kính. Bị khán giả chọi vỏ chuối.
Ngọc Hân cười ha hả :
- Mèn ơi, thế mới hay chớ. Đóng vai cho người ta ghét mà có phản
ứng như vậy là thành công rồi đó chị Năm Lé Kim.
Mỹ Dung nghe em gọi mình như vậy, cô nổi trận lôi đình, hét lớn:
- Đồ con ác ma trời đánh! Tao lé tại cha mẹ sanh chớ bộ tao muốn
sao? Coi chừng trời trả báo đó nghe mậy…
Bình thường thì thôi, khi hờn dỗi Ngọc Hân thường gọi Mỹ Dung như
vậy. Vì con mắt trái của ả lé mại. Lé mại vậy mà có duyên, nên khi nhìn ai
như liếc rất dễ thương. Nhưng cả hai đứa không có mỹ ý đó. Lé kim thử nói
lái ngược lại! Như thế mới có chuyện. Chỉ có vậy thôi mà trận đấu khẩu kịch
liệt xảy ra. Hôm đó ở nhà Ngọc Hân. Hiền nghe thấy tất cả. Cô ghét bỏ về để
cho hai con chó đó cắn xé nhau.
Hiền vẫn nhớ, khi nghe con trai của Mỹ Dung được vào trường Y
khoa thì Ngọc Hân bắt đầu xỉa xói nói đon, nói ghen. Thằng nhỏ còn mấy
tháng nữa mới đi học, mà gặp cháu thì cô tấn công liền:
- Chào bác sĩ! Ba má mầy sau nầy ngồi lượm bạc chất đầy nhà nứt đố
vách. Tha hồ mặc hàng hiệu, đi xe mắc tiền … Nhưng đường còn dài phải 7,
8 năm nữa lận cháu ơi. Bảo ba má cháu đừng nằm mơ giữa ban ngày. Đừng
có đắc ý quá sớm, coi chừng bị “Stroker”! Chưa nhờ con thì đã quỵ thủ chủ
rồi…
Hiền nghe em nói, cô nổi nóng mắng vãi:
- Mầy là con vô duyên hết thuốc chữa! Nó là cháu gọi mầy bằng dì, là
con của chị ruột mầy đó “Cha chết nấp chân chú/ Mẹ chết nấp vú dì” Lương
tâm của mầy đâu? Đã bị chó gậm rồi hả? Sao mầy ăn nói hàm hồ độc ác như
vậy? Có ganh tị thì dạy con mình học hơn con người ta đi. Thiệt là già rồi
mà tánh xấu không chừa…
Ngọc Hân chớp mắt làm thinh có vẻ hối hận. Nhưng cô cũng cứng
miệng, sừng lại chị:
- Chị lúc nào cũng rầy ép tui binh chị Mỹ Dung! Chị có biết chị Mỹ
Dung nói sao lúc con Ngọc Hà của tui được nhận vào trường Đại học
không? “Con Ngọc Hân nghèo không để người ta thương. Vợ chồng làm cu-
li thấy bà mà làm tàng cho con đi học trường Harvard. Cho nó đi kiếm
chồng thì đúng hơn chớ học hành cái khỉ khô gì! Tao chống mắt chờ xem coi
con đó có ra trường nổi không…” Chị coi, bả nói con tui vậy đó. May mà
con nhỏ ra trường đi làm chớ không bị ảnh hưởng vì lời trù ẻo rắn rít của bả.
Hiền thở dài:
- Thì ra mầy trả đũa? Lúc nó nói mầy như vậy, mầy có buồn và tức
không? Và bây giờ mầy nói lại nó thì mầy cảm thấy lòng sung sướng lắm
hả? Tụi bây thiệt là như hai con chó cắn lộn với nhau. May mà ở gần đây ít
người Việt! Không thì hai đứa bây làm trò cười cho thiên hạ.
Những chuyện xảy ra tương tự như vậy giữa hai cô em Hiền không
phải là ngừng lại. Mà có đều đều không việc nầy cũng việc khác. Nhưng sự
giận hờn giữa hai chị em chỉ kéo dài một thời gian ngắn mười bữa nửa tháng
thôi thì hai cô đề huề vui vẻ trở lại. Họ đi chợ chung, đi ăn chung… như
không chuyện gì xảy ra. Và khi tối lửa tắt đèn chị em xúm xít có nhau.
Mấy năm sau nầy, con cái của ba gia đình ra trường đi làm xa hết. Vợ
chồng của Minh Hiền đã đến tuổi hưu trí non. Họ nghỉ việc, dời về sống ở
miền Nam của nước Mỹ. Vùng có khí hậu ôn hòa, nắng ấm chớ không khắc
nghiệt về mùa đông như hai mươi mấy năm sinh sống ở Chicago. Hai cô em
Mỹ Dung và Ngọc Hân vẫn còn sống nơi vùng lạnh lẽo đó. Giờ đây hai đứa
cũng đã là bà ngoại, bà nội rồi. Nhưng cả hai vẫn khắc khẩu và cái nết cãi
nhau đánh chết cũng không chừa.
Gia đình Hiền rời khỏi vùng đất lạnh hơn ba năm. Hôm nay Mỹ Dung
và Ngọc Hân mới khăn gói đi thăm bà chị của mình. Dù hằng ngày họ vẫn
gọi điện thoại nói chuyện với nhau. Ngoài những chuyện thăm hỏi thường,
thì lâu lâu hai con đó cũng ưa méc và tâu rổi chuyện nầy chuyện kia, mà con
nào cũng giành phần phải về mình. Mỗi lần nghe hai đứa em kể lể thì cô
mỉm cười một mình! Ôi cũng tốt, có như vậy thì sở điện thoại mới thu được
nhiều tiền của khách hàng gọi viễn liên chớ!
Hiền ra đón 2 em, mấy năm rồi ba chị em mới gặp lại ở phi trường.
Họ ôm nhau cảm động chảy nước mắt vui mừng. Hai em mua cho chị nào
bóp hiệu, giầy da thiệt, loại da tốt để đi cho êm chân. Áo mặc mùa đông dệt
bằng chỉ tốt đắt tiền, nhẹ mà giữ ấm. Trong những ngày hai em đến thăm,
Hiền đưa đi thăm viếng những nơi có di tích lịch sử, những cảnh đẹp trong
vùng. Đi ăn uống những tiệm có món ăn đặc biệt. Đi mua sắm…
Mười ngày viếng thăm qua mau. Ngày mai hai em trở về nhà. Hiền
mua cho em đem về những món ăn, những trái cây hiếm quý đia phương
trồng, hoặc từ các vùng ấm như Mễ, Florida, Texas… chở đến bán. Mà ở
vùng đất lạnh Chicago không trồng được. Như là bưởi thanh trà, ổi sá lị,
hồng giòn, chuối xiêm đen, mãng cầu dai, mít nghệ…
Sau bữa cơm trưa, ba chị em ngồi xem DVD nhạc mới ra. Minh Hiền
cười nói với hai em:
- Chắc bây giờ tao đã già rồi, nên không thích những nhạc mới bên
nầy. DVD lúc rày sao họ làm tao không thuận mắt. Mặc dù ca sĩ mới nhiều
người có giọng ca cũng hay lắm…
Ngọc Hân hỏi:
- Chị không ưa ở điểm nào?
Hiền chưa kịp trả lời thì Mỹ Dung hớt trước:
- Tui cũng không ưa. Mấy cô ca sĩ bình thường mặt mày điềm đạm dễ
nhìn. Nhưng khi lên hát thì không biết tại sao? Diễn tả cách chi để mắt mấy
cô không lé, không nhắm, không lộn thịnh trái vải, thì miệng cũng méo,
cũng chu, tay chân thì múa may quờ quạng như lên đồng. Hát thì cứ hát, có
ban vũ rồi thì mắc gì bẻ mòm bẻ miệng, múa, ẹo như vậy? Những bản nhạc
kích động diễn tả thì không nói làm gì. Những bản nhạc buồn, những bản
nhạc tiền chiến mà diễn tả như vậy mất đi ý nghĩa và cái phong cách của
nhạc điệu, lẫn của ca sĩ.
Ngọc Hân như sợ mất phần:
- Tại người ta muốn khác lạ. Ăn mặc thời trang đưa đít, đưa vú nước,
đùi rút gân (những mạch máu xanh nổi trên da) để được chú ý và nổi tiếng
đó mà.
Mỹ Dung trề môi:
- Xì, mấy con mụ ra hát mặc áo Tàu không có mặc quần, chẻ cái tà áo
từ dưới lên trên cao gần tới lưng quần thiếu điều đưa hết ra ngoài thì đẹp đẻ
gì đó? Hát dở thì hát dở bộ ăn mặc vậy rồi hát hay sao? Các ca sĩ ngày xưa
hát hay, ăn mặc đoan trang thùy mỵ thì cũng nổi tiếng như cồn vậy. Còn
nữa, mầy có thấy mấy người hát cải lương, qua hát tân nhạc chắc là họ quên,
nên mắt họ trừng, liếc, miệng họ mếu, tay chân uốn éo như mấy người hát
Bội đến chỗ «Thần Nữ Dâng Ngũ Linh Kỳ» hay «Lưu Kim Đính Giải Giá
Thọ Châu» vậy. Thiệt là khó coi quá trời! Còn MC thì nói nhiều, nói dai, nói
dẻo, nói dài, nói riết nghe phát chán! Không biết mấy ông Giám đốc làm
DVD có để ý đến sự cảm nhận của khán thính giả không?
Ngọc Hân trề môi :
- Bà già rồi nên cổ lổ sĩ giống như chị Tư Hiền. Đó là thời trang là
đợt sóng mới rất thích hợp với giới trẻ bây giờ. Nên người ta làm DVD bán
mới được. Chớ làm theo bà nói thì mấy nhà làm DVD thương mại có môn
sập tiệm.
Hiền nghĩ bổn cũ sắp soạn lại! Hai con em bắt đầu phản pháo với
nhau rồi. Nên cô cố tình đánh trống lảng, cho hai đứa đừng cấu xé nhau mà
mất vui:
- Đứa nào nói tao nghe cũng phải hết. Theo trào lưu tiến hóa thì rất
hay. Nhưng cái nào tốt, cái nào hay thì theo thì bắt chước. Còn phản thẩm
mỹ mà theo thì đôi lúc cũng làm khán thính giả mệt lắm! Có những ca sĩ tuổi
đã lớn. Mình lớn tuổi thì có cái đẹp quý phái của người lớn tuổi. Biết rằng
tạo hình tượng đẹp cho khán giả. Nhưng đã hát hết nổi mà mặt mày kéo,
giựt, chằng… làm chi mà mũi, mắt, miệng… không ở đúng vào vị trí của nó.
Có người nhớ thì miệng khép lại, lúc quên không ngậm miệng thì môi trên
giựt lên lòi cả hàm răng trắng xác, con mắt thì xếch ngược trừng trừng…
Người đối diện bất ngờ nhìn thấy không khỏi giựt mình!
Như nhớ tới chuyện gì? Mỹ Dung cười ngất nga ngất nghéo. Ngọc
Hân biết ngay chị mình sắp đem chuyện gì để «nẻ» lại mình đây? Nhưng cô
chưa kịp phản ứng thì Mỹ Dung lên tiếng:
- Dì Út nó nói đúng đó chị Tư. Phải theo trào lưu tiến hóa, cho nên
con Út nhà mình hôm đi ăn đám cưới con bà Tú mặc áo đầm không tay. Ở
vai chỉ có hai sợi dây bằng cây tăm nhang, trông đẹp hết chỗ chê!
- Đúng rồi, tui mặc mà không đẹp sao được chị Năm?
- Vậy sao? Đừng tưởng bở tao khen thiệt nghen mậy! Mấy đứa trẻ
mười tám đôi mươi da thẳng, lưng eo dù mặc không đẹp cũng dễ nhìn. Còn
mấy mụ xề như mầy thì cái lưng cong vòng như cái lưỡi liềm. Da thì trổ đồi
mồi chỗ trắng chỗ đen lại nhăn, cổ thì giùn. Thân mình mầy thì có ốm thiệt!
Nhưng người ta ốm thơ ốm mộng, ốm liễu rũ mai gầy. Còn mầy thì ốm
nhom ốm nhách, tay chân tong teo như con còng gió. Trời lạnh muốn chết
mà bắt chước người ta ăn mặc như vậy nên tướng đi cà rút cà rút như con cò
ăn đêm. Mặc dù bên trên mầy có khoác cái áo lạnh mỏng. Nhưng thiệt tình
tao thấy mầy không giống ai và tội nghiệp cho mầy quá trời! Lớn tuổi rồi, ăn
mặc thủ thiếp một chút đi mầy ơi!
Minh Hiền lo sợ trời long đất lở sắp tới nơi giữa hai con a đầu tóc bạc
nầy! Nhưng cô ngạc nhiên quá đỗi? Ngọc Hân không giận, mà cười ỏn ẻn
chọc quê lại chị:
- Mụ nầy tối ngày chỉ biết chì chiệt chê em gái mình! Tui biết rồi bà
ơi. Chỉ ông chồng tui cằn nhằn không cũng đủ mệt, còn có đâu tới phiên bà!
Nhớ lại đi, hôm đó bà mặc cái áo có lỗ có hang. Gió mùa đông lùa vào thật
tê tái tâm hồn hả? Ê bộ đi đánh cá sao mà đông mặc áo lưới vậy thím
Năm? Lại còn treo mắc lủng lẳng nào vỏ ốc, vỏ sò, vỏ hến nữa… Ôi, mỗi
lần bà di động thì âm vang nghe lạch cạch! Lạch cạch thật là vui tai vô cùng
kể…
Thế là hai đứa lấy gối của sô-pha chọi nhau, rồi ôm bụng cười
nghiêng, cười ngửa. Minh Hiền cũng cười rũ rượi với hai em. Cô nhận thấy
hai đứa em mình dễ thương quá! Thuở thanh xuân bất chợt quay về lúc ba
chị em ở chung nhà đứa đi học, kẻ đi làm. Mặc dù ba chị em người nào giờ
tóc cũng đã hoa râm. Minh Hiền chẳng nói chẳng rằng đi lẹ vào bên trong
một hồi, cô xách ra cái móc máng áo quần được bọc kín trong bao ni-long
màu trắng đục. Mỹ Dung và Ngọc Hân mắt sáng ngời tưởng chị mình khoe
áo quần đẹp mới mua.
Minh Hiền chậm rãi nói:
- Con Mỹ Dung vượt biên trước 30 tháng 4 mấy ngày. Má qua đời rồi
thì Ngọc Hân mới ra đi. Anh Ba bị tù, các cháu không còn mẹ nên về sống
nương tựa vào ba. Gia đình tao cũng lâm vào cảnh túng quẫn. Anh Tư bây bị
giặc bắt đi cải tạo. Tao bị nghỉ việc, sáng sớm phải đi mua đầu chợ bán cuối
chợ để kiếm sống qua ngày. Bữa đói bữa no, thiệt là khổ sở! Tao cụ bị đồ ăn,
gạo thóc, thuốc men, cả tháng mới về thăm ba một lần. Tội nghiệp ba lắm, vì
buồn lo, nhớ má, nhớ tụi bây. Tuổi già lại chồng chất, nên bịnh bịnh hoạn
triền miên…
Nói đến đây Minh Hiền rướm nước mắt. Hai đứa em cúi mặt ngậm
ngùi. Cô nén lòng, giọng sủng buồn kể tiếp:
- Tao với anh Tư bây không bao giờ có ý định và cũng không hy
vọng sẽ đem gia đình rời nước. Nhớ ngày đó, mấy đứa con chị Ba xuống cho
biết bịnh ba trở nặng. Tao về thăm, trước mấy ngày qua đời, ba có bảo với
tao rằng: «…Bước lên đau khổ của kẻ khác chiếm đoạt để sống, để hưởng
thụ và để hãnh diện chỉ có người Cộng Sản mới làm được mà thôi! Chúng
gieo đau thương tang tóc tiêu diệt lãnh thổ tươi đẹp miền Nam chưa đủ.
Chúng còn muốn người khác đi đến tội ác như chúng! Con nên nhớ, ở chánh
thể Cộng Hòa thanh thiếu niên phải đến trường trau giồi kiến thức. Chánh
phủ còn gởi những thanh niên ưu tú ra xứ người học hành để tiến thân, để
rút kinh nghiệm về góp sức giúp quê hương xây dựng Quốc Gia cho hùng
mạnh. Còn thanh niên ở chế độ Cộng Sản phải ra vườn mày mã tấu để giết
người, cướp của. Vì đó là niềm hãnh diện và sự vinh quang của họ. Bằng
chứng xảy ra từ hồi chúng cưỡng chiếm miền Nam con đã thấy rõ rồi… Ai
cũng một lần chết! Đừng vì ba! Đời ba sống đến đây thì đã quá đủ. Con phải
nghĩ đến tương lai của các cháu. Nghe lời ba, phải tìm cách rời khỏi
nước…»
Minh Hiền nghẹn lời, lấy khăn lau nước mắt. Hai cô em lệ cũng giọt
ngắn giọt dài
- Vậy bây giờ hai đứa bây đã hiểu vì sao lúc gia đình bây ra đi mà tao
không chịu rời quê hương. Cho mãi gần 5 năm sau mới bôn đào. Còn đây là
cái áo.
Mỹ Dung, Ngọc Hân chăm chú nhìn theo từng động tác của chị. Minh
Hiền đang mở bao ni-long để lấy áo ra. Hai cô nghĩ rằng chiếc áo nầy chắc
là đẹp, và phải mắc tiền lắm nên chị mình mới giữ gìn cẩn thận như thế nầy.
Mắt Minh Hiền buồn vời vợi. Cử chỉ cô chẫm rãi từ từ kéo cái máng còn
mắc chiếc áo ra khỏi bao. Đưa cao lên cho hai em thấy! Rồi cô ôm áo vào
lòng thút thít khóc. Hai cô em chưng hửng? Chiếc áo ngắn tay, bằng vải ba-
tít đã quá cũ nên từ màu trắng áo đã ngả màu ngà sậm, trên mình hàng lốm
đốm lem luốc những vết mủ cây. Áo còn có nhiều mảnh vá chằng chịt sau
lưng, trên vai, và trước ngực. Hai cô em lấy làm lạ, mở to mắt nhìn chị?
Minh Hiền nói qua màn lệ:
- Đây là chiếc áo ngoại đã may cho má! Ngày má qua đời, lúc liệm
thì ba và mấy cậu dì có nói: «Thời buổi bây giờ khó khăn quá! Không biết
rồi đây có tiền để mua gạo ăn không, thì nói chi đến mua quần áo. Đồ đạc
của má con cần liệm tượng trưng thôi. Những áo quần tốt nên giữ lại để cho
con cháu mặc sau nầy…».
Hai cô em trườn tới, nước mắt đầm đìa dở áo lên xem. Mân mê từ
đường kim mũi chỉ, mảnh vá. Và hàng nút trước ngực áo đã lắc hết, chỉ còn
lại mấy cái khuy (Phong tục của người miền Nam khi liệm người chết cái áo
phải cắt nút để lại)
Minh Hiền nhìn ra cửa sổ. Mặt trời chiều đã khuất sau dãy đồi xa. Đàn
chim bay về tổ kêu ríu rít trên không gian. Cô chép miệng thở dài: «Má ơi!
Trốn chạy khỏi quê hương là mất tất cả! Giờ đây nơi xứ người chúng con
còn có nhau, và chiếc áo túi lở của má, như bao nhiêu năm rồi con nghĩ rằng
má dang ở bên con!».
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email : dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment