NHẠC PHẠM DUY, TÔI YÊU
Tôi đã viết kỷ niệm với
nhạc Lam Phương và Trần Thiện Thanh khi hai nhạc sĩ này qua đời, rồi có hứa với
bạn bè trên Facebook sẽ viết về nhạc Phạm Duy, mà chưa viết được, vì nhiều lý
do.
Và đến hôm nay mới có thời
gian để … “mời người lên xe, về miền quá khứ”.
Tôi may mắn được biết nhạc
Pham Duy từ rất sớm. Khi tôi học lớp ba trong một trường Quân Đội thời Việt Nam
Cộng Hoà, hiệu trưởng là một Thiếu Tá. Năm đó, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đến trường,
tuyển chọn một số học sinh để dạy một bài múa quay trên đài Truyền Hình Sài
Gòn. Bài múa của chúng tôi tên gì tôi chẳng nhớ rõ, nhưng lại nhớ bài múa của
một nhóm học sinh trường khác khi đến Đài Truyền Hình thu hình trước và chúng
tôi thích thú đứng xem, vì bài hát thường nghe trên radio tại nhà: “Em
ước mơ mơ gì tuổi mười hai tuổi mười ba …” . Bình thường nghe qua
radio thì thấy …bình thường, nhưng được nhìn bài múa với những động tác nhí
nhảnh đã cho tôi ấn tượng nhiều với bài này, mới 8 tuổi đầu, chẳng cần biết tác
giả là ai .
Tuổi thơ đó, tôi thường
nghe những nhạc thiếu nhi nào, tôi cũng không nhớ, nhưng lại nhớ một buổi chiều
mưa dai dẳng, quán cà phê nhà tôi vắng khách, ba má bận việc trong bếp, tôi và
nhỏ bạn trong xóm đứng hứng nước mưa trước mái hiên của quán, rộn ràng vui vẻ,
bỗng dừng lại vì nghe được bài hát quen thuộc trên radio. Thế là hai đứa nhảy
tưng tưng, hát (và hét) to hơn tiếng mưa, xem đứa nào thuộc bài hát nhiều hơn,
thi với cả giọng ca trong radio (sau này tôi đoán là của Thái Hiền, chớ còn ai
trồng khoai đất này):
“Ông trăng trả vợ đàn ông
trả chồng cô gái trả trái cây cà,…”
Rồi Tháng Tư Đen ập đến,
cuộc sống sau đó bị thắt chặt mọi bề, các đợt bố ráp đốt sách báo “đồi truỵ Mỹ
Nguỵ” liên tiếp, các anh chị lớn trong gia đình tôi vẫn “ngoan cố” giữ lại được
một số tờ nhạc rời của Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, và cả một tập nhạc “Bình Ca”
của Phạm Duy. Mỗi tối khi rảnh rỗi, mấy anh trai của tôi lại ngồi ôm đàn
guitar, hát mà tôi nghe đến thuộc và cũng mê luôn hồi nào hổng hay: “Này
em con chim lười/ Nhiều năm chịm đau phổi/ Buổi sáng vắng tiếng chim cười vui …
Này em con trâu gầy/ Nhiều năm trâu vất vả/ Cùng với bác xã nơi đồng quê …Này
em đã tới giờ/Mẹ đưa em đi chợ …”
Ngoài ra còn có một số sách
văn học khác, và mấy băng cassette cũ, trong đó có băng nhạc Thái Thanh hát
nhạc nhiều tác giả trong đó có Phạm Duy .
Cứ thế, tôi lớn dần theo âm
nhạc các anh chị em trong nhà lén lút khi hát và khi nghe vào những đêm khuya
khoắt.
Anh Ba của tôi, sinh viên
Đại Học Nông Nghiệp, có máu văn nghệ, thường vào cuối tuần tụ tập nhóm bạn đến
nhà chơi, ăn uống, đàn địch hát hò. Nhà tôi có hai cây guitar, các anh bạn khéo
tay xúm lại tự chế một bộ trống, nghe cũng xập xình lắm, thế là có đủ cho một
ban nhạc mini. Lúc này tôi đã lớn, học lớp 10, đã biết thưởng thức âm nhạc,
nhất là “nhạc Vàng”. Trong ban nhạc của anh Tư, có đủ giọng ca nam, nữ, hát đủ
nhạc “sến” và nhạc “không sến”, đặc biệt có anh Thành Ruộng ( vì nhà ảnh có
vườn trồng hoa, trồng rau để bán ngoài chợ, và để phân biệt với anh Thành ở xóm
Chùa) . Anh Thành Ruộng còn trẻ như anh tôi, nhưng tóc bạc sớm, đeo cặp mắt
kiếng rất nghệ sĩ, chuyên hát nhạc Phạm Duy. Ôi, những đêm vắng lặng, mấy chị
em gái chúng tôi nằm trong phòng, hóng nghe ngoài phòng khách, giọng anh Thành
Ruộng như mê hoặc : “Ôi giấc mơ qua/Mộng đời phiêu lãng giang hồ...”
Thời gian này, chế độ mới
đã bớt hung hăng cấm đoán “văn hoá đồi truỵ”, người Việt ở hải ngoại gửi về
Việt Nam hàng hoá, và cả những cuốn băng nhạc theo đường tàu viễn dương do các
thuỷ thủ Việt Nam mang về, nên chợ trời Tạ Thu Thâu đã có những tapes nhạc phục
vụ “âm thầm” nhu cầu khao khát của những người yêu nhạc VNCH. Các anh chị tôi
đem về vài băng nhạc của nhiều giọng ca và nhiều tác giả, nên tôi được thưởng
thức Duy Quang với những bài hát đã nhanh chóng làm trái tim tôi rung
cảm: Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Maseur, Chuyện Tình Buồn, Thà Như
Giọt Mưa, Ngậm Ngùi…
Năm tôi đang học lớp 12,
một buổi trưa đầu hè tôi bước vào lớp, thấy trong hộc bàn một tờ giấy màu xanh
lơ, có ép một cánh bướm làm từ hoa phượng và mấy câu thơ: “Em tan trường về-
cuối đường mây đó- Anh tìm theo Ngọ-Dáng lau lách buồn-Tay nụ hoa thuôn-Vương
bờ tóc suối-Tìm lời mở nói- Lòng sao ngập ngừng …”, chẳng có tên người gửi,
cũng chẳng ghi tên người nhận. Được biết, người ngồi cùng chỗ đó của tôi (lớp
buổi sáng) là chàng tuổi trẻ, nhỏ hơn tôi một tuổi (học lớp 11). Nếu như gặp
các chàng khác, tôi sẽ vứt ngay tờ thư vào sọt rác, nhưng chàng này … may mắn,
vì tôi đã yêu bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị do Phạm Duy phổ nhạc
từ thơ Phạm Thiên Thư, qua tiếng hát Thái Thanh, nên tôi thấy cánh bướm đẹp
quá, tờ thư xinh quá, và nhất là mấy câu thơ lần đầu tôi được đọc, tôi cũng
đoán cả bài Thơ sẽ còn hay hơn nhiều. Tôi bỏ lá thư trong cặp, mang về nhà, đọc
đi đọc lại nhiều lần, và mong “người ta” gửi tiếp cho trọn…bài thơ!
Cũng thời Trung Học, ông
Thầy dạy Văn kiêm bí thơ Đoàn Trường, dân Nghệ Tĩnh, là bộ đội vượt Trường Sơn,
nhưng có tính tình văn nghệ phóng khoáng. Thầy từng tâm sự với đám nữ sinh
chúng tôi, thời ở trong rừng Trường Sơn, thầy thỉnh thoảng có nghe đài VNCH
nhất là những bài nhạc tình lãng mạn. Rồi thầy lim dim đôi mắt hí như đang phê
thuốc lào:
- Bài thơ
Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đã hay rồi, nhưng phải qua tay phổ nhạc của Phạm
Duy và giọng ca Thái Thanh thì trở nên rất tuyệt vời, không có chỗ nào chê
được!
Riêng bài Ngày Xưa
Hoàng Thị gắn bó với tôi dài lâu, (một phần cũng vì mấy câu thơ “người
ta” để trong hộc bàn), theo tôi đến tận con đường vượt biển, qua trại tỵ nạn
Thailand. Hôm ấy, tôi đang say giấc nồng trưa hè thiu thiu thì bỗng nghe bên
nhà hàng xóm mở cassette (xài bằng bình acquy) bài Ngày Xưa Hoàng Thị qua
giọng ca Thái Thanh. Tôi bỗng tỉnh ngủ, như chợt gặp lại “người xưa”, cầm theo
giấy bút chạy qua để thưởng thức điệu nhạc quen thuộc và chép lời. Chị chủ nhà,
cũng là người chung chuyến tàu với tôi, rất vui vẻ quay đi quay lại bài hát gần
chục lần (sắp nhão cả tape) để tôi kịp ghi lại đầy đủ bài hát. Từ đó tôi cứ lẩm
nhẩm bài này với bạn bè cùng lô nhà và khi chúng tôi tụ tập nhóm “đờn ca tài
tử”.
Trong nhóm “tài tử” này, có
một chị, lớn hơn tôi hai tuổi, có giọng ca hay, chung nhóm bốn đứa con gái
chúng tôi ăn ở chung trong trại, xem nhau như chị em ruột, và tôi trở thành
“bầu sô”, “quản lý” của chị mỗi khi ở trại có chương trình văn nghệ
. Hồi gặp nhau tại Cambodia trên con đường ra biển đến Thái, có lần chị ấy cất
tiếng hát Thuyền Viễn Xứ giữa đêm khuya khó ngủ, nên khi nhập
trại tỵ nạn, buổi văn nghệ đầu tiên tôi đã ghi danh cho chị hát Thuyền
Viễn Xứ, cả trại nghe mà rưng rưng đúng nỗi lòng tha thiết khi chị vào câu
kết “Chiều nay trên bến muôn phương, có thuyền viễn xứ nhổ neo lên
đường ...”
Năm nào trại cũng có nhiều
dịp văn nghệ, nào sinh nhật Đức Vua Thái, nào Tết, nào Giáng Sinh, chị luôn vui
vẻ để tôi chọn bài, (vì lúc đó tôi làm thiện nguyện ở post office của trại,
quen biết nhiều, chương trình văn nghệ nào tôi cũng được biết rất sớm, nên sẵn
đó ghi danh luôn cho chị).
Lần đó, mùa lễ Phật Đản,
bên Chùa có một chương trình ca nhạc đặc biệt, như thường lệ, tôi báo với ban
tổ chức bài Em Lễ Chùa Này cho chị . Sau đó chị lên tiếng:
- Loan
ơi, chọn bài khác đi, chị không quen bài này.
- Ôi,
bài này dễ ca lắm, để em chép lời ra rồi... hát mẫu cho chị vài lần là chị quen
liền hà.
- Không
phải thế, chị biết bài này, nhưng chị không hợp giọng, sợ sẽ hát không hay, mà
lúc nào em cũng Phạm Duy, Phạm Duy là sao!
- Còn
bài nào hợp với ...Chùa bằng Em Lễ Chùa Này không hở chị?
- Nhưng
...
Tôi bỏ ra sau nhà, hờn mát:
- Thì
tùy chị đó! Nói thiệt nghen, em mà có giọng ca hay, thì bài này không đến lượt
chị đâu!
Vậy mà vài hôm sau, tôi
nghe anh trong ban nhạc kể, chị đã đến tập dợt và sẽ hát Em Lễ Chùa
Này, dễ thương hết sức!
Giờ nghĩ lại thấy chị ấy
rất đúng, bài đó cô Thái Thanh hát rất hay và hợp những khúc ngân nga luyến
láy, còn chị thì giọng nội lực khá mạnh, không phải lúc nào cũng hợp cho nhạc
Phạm Duy, chỉ tại hồi đó tôi cứng đầu ngang như cua, và chị thì thương tôi nể
tôi, đã cố hát Nha Trang Ngày Về, Vũ Nữ Thân Gầy, Bà Mẹ Quê, và
dĩ nhiên là không thể không hát Ngày Xưa Hoàng Thị (kỷ niệm
tuổi học trò của... nàng “bầu sô”).
Nhân đây tôi cũng xin kể
môt kỷ niệm vui về giọng hát Thái Thanh hồi còn ở trại. Đến giờ giới nghiêm, cả
trại im lìm trong bóng đêm, chúng tôi bốn đứa chui vào mùng mở máy cassette nho
nhỏ chạy bằng “pin”, nghe Thái Thanh phải nghe đêm khuya mới thấm, nhứt là khúc
chậm rãi nàng rên rỉ:“Chim ơi chết dưới cội hoa/ Tiếng kêu rơi rụng giữa
giang hà ...”. Chú Tám kế bên vách vọng sang thì thào:
- Cô Loan ơi, cô làm ơn mở
volume lên chút xíu cho tôi nghe rõ giọng Thái Thanh, được không cô?
Tôi sung sướng:
- Ủa, chú cũng mê tiếng hát
Thái Thanh sao? Hổm rày con đâu biết!
- Chả giấu gì mấy cô, tui
chỉ mê nhạc mùi của Tuấn Vũ, Chế Linh. Nhưng giọng cô Thái Thanh làm tôi …buồn
ngủ, tôi vốn mắc chứng mất ngủ!
Dễ giựn không nà! Nhưng mà
thôi, mục đích nào cũng tốt hết á. Chúng tôi bên này thả hồn theo từng điệu
nhạc lời ca cao vút điệu đà của Thái Thanh, còn bên kia chú Tám…ngủ ngon.
Rời trại tỵ nạn cuối năm
1993 đến Canada, thuở chưa có internet, youtube, facebook. Mỗi chiều cuối tuần
tôi đón xe bus xuống Thư Viện thành phố, tìm vào Vietnamese Section, sung sướng
thấy những kệ sách, truyện Tiếng Việt, và mừng rỡ chộp liền Hồi Ký Phạm Duy (4
cuốn) đem về nhà nghiền ngẫm không sót một dấu chấm dấu phẩy . Đọc hồi ký, biết
nhiều điều về tác giả và gia đình, biết số lượng tác phẩm đồ sộ của ông hơn cả
nghìn bài, thế mà tôi từng ngỡ mình biết nhiều nhạc Phạm Duy.
Mùa Tết đầu tiên ở Ottawa,
Canada, có một đêm nhạc dạ vũ, thấy poster có Thái Hiền, tôi liền mua vé ngay
lập tức, con gái Phạm Duy chắc chắn sẽ hát nhạc của bố. Quả như mong ước, phần
trình diễn của Thái Hiền, ngoài vài bài hát của tác giả khác, là các bài: Cành
Hoa Trắng, Nghìn Trùng Xa Cách, Phượng Yêu ...nghe tới đâu mê mẩn tới đó.
Thời gian sau, trung tâm
Thúy Nga Paris ra cuốn chủ đề Phạm Duy, thỏa lòng tôi biết bao. Mãn nhãn vì
được nhìn thấy Thái Thanh, Duy Quang, hai tiếng hát tôi chỉ được nghe qua
tapes, Cds, nay được “vừa nghe vừa ngắm” hỏi sao hổng vui! Mãn lòng khi nghe nhiều
bài nhạc của Phạm Duy, trong đó vài bài tôi mới nghe lần đầu.
Lúc con gái tôi 8-9 tuổi,
đi học piano, đến cuối khóa, con hỏi tôi chọn một bài nào đó để cô giáo tập
cho, chuẩn bị buổi “recital”. Tôi bất chợt nghĩ đến “Blue Danube” vì điệu nhạc
hay, ai dè lại là nhạc Phạm Duy chuyển qua lời Việt “Dòng Sông Xanh”. Nhớ
đến chuyện ép uổng chị bạn ở trại tỵ nạn, tôi hỏi con gái:
- Mẹ
thấy bài này hay, nhưng tùy con có thể chọn bài khác mà con thích.
Nó trả lời ngay:
- Bài
này quá tuyệt mà mẹ, con cũng thích!
May quá, thế là có những
buổi chiều, tôi lo cơm nước ngoài bếp, văng vẳng ngoài phòng khách là tiếng đàn
piano con gái tập dượt, chỉ là nhạc thôi, nhưng trong đầu tôi là tung tăng điệu
lả lướt theo Thái Thanh: “ Một ...giòng ...xanh ...xanh ...”
Dù ở trại tỵ nạn, hay qua
Canada, bạn bè xung quanh đều biết tôi là “fan” của Phạm Duy . Ngày nay mỗi khi
tụ tập nhóm họp có karaoke, giọng ca của tôi chỉ “tàm tạm” nhưng Phạm Duy có
một số bài tương đối dễ ca cho tôi “thể hiện đam mê”: Trả Lại Em Yêu,
Bao Giờ Biết Tương Tư, Còn Chút Gì Để Nhớ, Mùa Thu Chết ...
Nói vậy chớ, có một thời
gian dài, tôi đã phải che dấu, hoặc ngại ngùng thú nhận mình là
“fan” của Phạm Duy- Thái Thanh, vì nhiều lần bị bạn bè chọc ghẹo:
- Úi chào, loại nhạc đó,
giọng ca đó, chỉ dành cho người già, thích loại nhạc …khó nuốt khó nghe!
Nhưng giờ đây, tôi đã “đủ
tuổi”, à mà không, tôi đã dư tuổi, có thể công khai tuyên bố là “fan” của Phạm
Duy rồi nhỉ.
Dĩ nhiên, tôi vẫn thưởng
thức nhạc của nhiều nhạc sĩ khác của VNCH , nhưng không hiểu sao, trong nhiều
tình huống, dù bất ngờ hay có dự định, thì nhạc của Phạm Duy luôn được chọn
nhiều hơn . Vì đi làm buổi chiều, nên khi sáng ở nhà lo cơm nước, tôi thường
nghe youtube bài giảng của vài vị linh mục, hoặc của Thầy hàng xóm Edmonton là
thầy Pháp Hòa, hoặc là nghe nhạc. Có khi tôi chọn cả 1 CD, nhưng cũng có lúc
tôi nghe riêng từng bài tùy theo tâm trạng.
Khi lãng đãng “không nắng
không mưa” thì sẽ là “chiều buông bên dòng sông Cửu Long, như một cơn ước
mong ...ơi chiều”, rồi thì “một người ngồi im nghe bên kia sông nước
chảy về đâu ...” .
Khi buồn buồn nhớ quê hương
thì có “chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai/hiu hắt tiếng bà mẹ cười/
vui vì nồi cơm ngô đầy ...” dù tôi chưa bao giờ sống ở nông thôn nhưng
sao lại yêu thương quá đỗi với hình ảnh này.
Tháng Tư Quốc Hận thì phải
nghe: “Một ngày 54 Cha bỏ quê xa...”
Khi tự hào dân tộc thôi
thúc, tôi muốn nghe “tôi yêu tiếng nước tôi ...” và “quê hương tôi có
con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên đồng vuông vắn”.
Khi trái tim mềm yếu nhớ
tuổi thanh xuân lãng mạn, sẽ là “ vai em gầy dưới mưa, ướt bao nhiêu
cũng vừa ...” rồi thì “ dắt em lên đồi cỏ hoang ngập nắng
...” lại bâng khuâng : “ đường dài hạnh phúc cầu chúc cho
người ...”
Khi Tết đến Xuân về sẽ ngân
nga: “Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi/Muốn yêu anh vác cày trên đồi ...” để
rồi mộng mơ: “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà ...”
Tuy chưa được gặp Phạm Duy
ngoài đời thực, nhưng tôi cũng có hai lần “giao tiếp” cùng Ông qua email phamduy@aol.com .
Lần đầu khi tôi còn làm trong ban báo chí Hội Người Việt Edmonton, tôi viết một
truyện ngắn, có lấy câu ca dao “Tóc mai sợi vắn sợi dài/Lấy nhau chẳng đặng
thương hoài ngàn năm” để dưới tựa đề truyện, thì một anh trong ban báo chí (là
một “fan” của Phạm Duy) cương quyết cho rằng đó là thơ của Phạm Duy trong bài
hát cùng tên, có câu: “Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc ...”. Tôi bèn
email hỏi tác giả thì Phạm Duy sau đó đã hồi âm, bảo rằng tôi ...không sai!
Lần thứ hai, tôi hỏi Ông về
câu hát: “Năm năm rồi không gặp/ Mười năm mất nhau không/ Trăm năm dù lỗi
hẹn/ Ngàn năm vẫn không quên/ Vẫn nhớ y nguyên” và nhân tiện chúc mừng sinh
nhật Ông. Lần này Ông cũng giải đáp thắc mắc, cám ơn lời chúc sinh nhật và nhắc
vui tôi đừng dùng “years- old” mà phải dùng “years-young” vì Ông lúc nào cũng
...trẻ .
Qua hai lần email đó, một
lần khi Ông còn ở Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City, California) và lần Ông đang
ở Việt Nam, lần nào Ông cũng trả lời email trong vài giờ, không để tôi phải chờ
đợi lâu . Điều này chứng tỏ Ông là một nhạc sĩ nghiêm túc, chuyên nghiệp, trân
trọng khán thính giả, những người hâm mộ nhạc của Ông.
Kỷ niệm về nhạc Phạm Duy
của tôi đến đây là hết, hy vọng không còn thiếu sót gì, chớ còn nói về nhạc
Phạm Duy thì chẳng bao giờ cạn, vì mênh mông lắm , bao la lắm.
Trong một dịp tụ tập gia
đình bên Arlington, Texas, mấy anh chị em có ôn lại thời gian khó khăn sau năm
1975 khi “nhạc Vàng VNCH” bị cấm đoán và nhắc đến những tờ nhạc rời Phạm Duy đã
một thời vang lên “khe khẽ” trong căn nhà của chúng tôi . Anh Hai cho rằng, lẽ
ra bài“Việt Nam Việt Nam” nên là Quốc Ca của VNCH, anh
Ba anh Tư ca tụng Ông là “phù thủy” dịch nhạc ngoại sang lời Việt, bà chị Cả
thì say mê gọi Ông là “phù thủy” của phổ thơ, còn riêng tôi thì luôn ...nghi
ngờ Ông đã là thi sĩ trước khi là nhạc sĩ rồi cơ: “ Em có hay chăng anh
về/Thoạt nhìn người yêu ngỡ trong mộng mê/ Ai dám mong chi Xuân về/ Nào ngờ
vườn đêm có bong hoa kề” .
Tóm lại, trong lĩnh vực âm
nhạc, dù với chủ đề nào, thể loại nào, Ông cũng là “phù thủy” hết á!
Trước Phạm Duy thì tôi
không biết, nhưng kể từ khi có Nhạc sĩ Phạm Duy, thì với tôi, âm nhạc Việt Nam
chắc còn lâu lắm, mới có được người thứ hai như thế!
Edmonton, Tháng7/2025
KIM LOAN
*** Ghi chú: Tất cả những chữ in nghiêng trong bài viết
này, là những Tựa Đề hoặc những câu hát trong nhạc Phạm Duy.
No comments:
Post a Comment