Dưới vòm cây trứng cá
Nhất-Phương
Đó là những ngày quá nửa mùa Hè của Thiên Kỷ
trước, không gian vẫn còn ngập tràn hoa Phượng đỏ. Trâm và đám em, cả trai lẫn gái, được ba mẹ đưa lên thủ đô Sài-Gòn, sửa
soạn để vào niên học mới. Ngôi
nhà tuy không quá lớn nhưng tiềm ẩn khối tình thương bao la vời vợi của các đấng
sinh thành dành cho lũ trẻ ăn chưa no, lo
chưa tới. Với tuổi đời vừa bằng trái cau
non, Trâm tuy đã biết nhưng không đủ ngôn từ để định nghĩa, để diễn đạt thế nào
là sự tàn khốc của chiến tranh, mặc dù ở làng quê, nơi Trâm được học các lớp vỡ
lòng là một ngôi làng hai mặt.
Sài-Gòn của những ngày thơ ấu trong tâm tư cô
bé Trâm, vô cùng nguy nga tráng lệ. Khu xóm Trâm sinh sống là một gia cư nhiều
dãy nhà xinh xắn giống nhau, được chính phủ thời bấy giờ chu cấp với giá tượng
trưng cho công chức, nên gần như... đầu trên xóm dưới các gia đình đều thân thiết,
biết quan tâm đến mọi sinh hoạt của nhau.
Bàn đêm Trâm ngồi học được đặt bên khung cửa sổ lớn hình chữ nhật, có chấn
song “kiên cố” nên lúc nào cũng được rộng mở để đón từng đợt thời tiết đổi mùa,
và cũng dễ thả hồn gửi theo chiều gió cuốn, theo các đám mây ngàn. “Hàng xóm” của cô bé học trò Gia-Long năm 19... hồi đó, đối diện “khung vuông
hoài vọng” là tàn cây Trứng Cá sum suê, um tùm, cao lêu nghêu như các ngài chủ
nhân của nó. Nhà ấy là dân Bắc chính hiệu, vào Nam từ cuộc chiến dở dang (cũng
là tựa tác phẩm Cuộc Chiến Dang Dở của Cố Thiếu Tướng T.V.N).
Mẹ của “ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” là bác sáu Châu...Long. Tên thật của bác là Phạm-Thị-Châu, cùng họ với
mẹ Trâm, nhưng Trâm và hai đứa bạn gái chung xóm vẫn gọi là bác Châu Long, bởi
bác rất đẹp và hiền, tần tảo nuôi ba đứa con khôn lớn, thành người có ăn có học,
khiến bọn con nít gán ghép gia đình của
tam công tử vào chuyện Lưu Bình Dương Lễ tân thời.
Ở… 'giai cấp thứ ba', lứa tuổi nào cũng đẹp vì tánh tình thuần nét tự nhiên. “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”, nghĩ sao làm vậy, chưa hề biết đánh vần hai chữ e dè một cách hạnh thông. So với tam công tử, tuổi Trâm chỉ đáng tuổi làm con cháu của nhà Châu Long. Thời gian Trâm được vào học lớp đệ thất GL, chú Út đã trên 24 tuổi, sắp sửa có cháu bé đầu lòng. Chú lớn và chú hai tuy đã có gia đình riêng, nhưng khá hiếu thảo, nếu không bận việc quân hành, ngày Lễ, ngày Tết đều trở về thăm mẹ. Đáng lý ra Trâm có thể gọi các chú bằng anh vì Trâm được phép gọi bác Châu Long bằng bác. Nhưng không hiểu sao, vẫn thích gọi các anh bằng chú. Có lẽ, dưới ánh nhìn của cô bé mười một tuổi lúc bấy giờ, bức tranh Trâm tô điểm lên gia đình các chú nửa như huyền thoại ẩn hiện nhiều nét hoang đường.
Cái đẹp nhất khiến Trâm không thể
quên quãng đời đáng nhớ ấy là tàn cây trứng cá phủ chụp lên cửa trước nhà các
chú, đẹp và lãng mạn vô thường để Trâm
tha hồ nhìn ngắm hái ăn mà chẳng cần chăm
sóc. Màu xanh của trái non, ánh đỏ của
quả chín đều là những thanh sắc trời ban, tạo nên một vòm thảm long
lanh, lấm tấm li ti như màn Tóc Tiên, dễ cảm biết chừng nào. Điều đặc biệt hơn cả là dường như những tàn
lá sum suê ấy rất biết 'mánh mung', âm thầm
âm ỉ mong muốn...vượt biên để tìm tự do, đưa chồi non mới nhú mềm mại dễ uốn lượn,
dễ vươn xa... vươn xa qua khỏi con hẻm rồi chui hẳn vào khung cửa sổ rộng mở,
nơi Trâm ngồi học hàng đêm mới lạ lẫm đầy thích thú, như cố tình quá cảnh, bò từ
Bắc vô Nam, qua nước láng giềng thám hiểm. Nhiều lần ba Trâm nhắc nhở, 'con nên cắt bỏ nó đi Trâm, để cành lớn
quá sẽ hư khung của sổ...' Cũng đã nhiều lần nhiều, Trâm lững lờ, nhỏ nhẻ
giả lả với ba... 'con chưa thấy hư hao chỗ nào, tha cho Nó nghen ba'!
Các bạn thử mường
tượng để cùng Trâm thưởng thức hàm thụ, trọn vẹn vòm không gian thiên nhiên độc
đáo ấy. Khi ngồi học sau chín giờ đêm, tứ bề im ắng, chỉ còn lại một mình dưới
màn xanh vời vợi cõi mơ, lãng đãng mùi hương đặc trưng, thơm tho ngọt ngào hơn
cả trái Sim rừng của sơn nữ Phà Ca nữa, có thể nói 'vô tiền khoáng hậu' được
chăng? Nhìn sang nhà bác Châu Long, thỉnh thoảng còn thấy chú Út tưới tắm cho
nó từng lon Guigoz nước.
Rồi một ngày, một
công tử khác, cháu gọi bác Châu Long bằng cô, tên đặt chữ N. đầu, sĩ quan không
quân giống như chú Út vào Sài-Gòn công tác, dọn từ Đà Lạt về nhập cư. Cây trứng
cá có thêm người chăm sóc để cùng chia thu hoạch. Ngôi nhà khởi sắc hẳn lên bởi
những điệu cười lẫn các trận gấu ó 'cà kê dê ngỗng' về chuyện không quần, hai
quần, đôi lúc hợp quần của Hải-Lục-Không-Quân; chuyện của các đấng nam nhi tham
gia “chinh chiến để nước yên vui”... Trâm vô tình nghe được hầu hết các
mẫu phiếm luận lẫn bình luận... chưa hề có đoạn kết của các chú.
Không ít lần Trâm tự hỏi, thời gian và không
gian thuộc về quá khứ sao có thể tồn tại như in trong tiềm thức Trâm lâu đến
như vậy? Đó là gì? Là niềm nhớ khôn nguôi? Là kỷ niệm khó thể xóa mờ hay chỉ là
sự nuối tiếc bâng khuâng lững lờ lãng đãng như mây? Có nhiều ý kiến trái chiều
về sự tồn tại của quá khứ. Các bậc thức
giả cho rằng, 'nếu bạn buồn phiền là bạn nghĩ về dĩ vãng; nếu bạn âu lo
là bạn nghĩ tới tương lai; nếu bạn thật sự tâm bình là bạn đang sống bằng hiện
tại'. Nhưng đối với Trâm, khi nhớ
về quá khứ của chuỗi ngày thơ chỉ là sự hoài niệm, không chút muộn phiền, hy vọng
được hòa quyện vào trong ngần ấy không gian bằng tâm tư hồi tưởng, gợi khơi những điều có thật, lỡ bị tàn phai
'theo gió bão đời'! Niềm vui chợt đến chợt đi, khá ngu ngơ mù mờ của cô bé là
Trâm khi bắt gặp chính mình vừa đủ lớn, để kịp lưu trữ niềm vui xen lẫn nỗi bất
hạnh triền miên ở quãng đường chạy trốn chiến tranh trên đất nước điêu tàn với
nhiều hệ lụy.
Ngôi nhà sát cạnh gia đình bác Sáu được làm
chủ bởi hai đấng sinh thành độ chừng hơn năm mươi tuổi, sống cùng hai cô chú
nam thanh nữ tú tên được lót bởi chữ Tâm. Chú anh tên Tâm Bình, giáo sư dạy đàn
tranh của viện ĐH Vạn Hạnh. Cô em là Tâm
An, y tá trưởng của bệnh viện Đồn Đất. Từ bàn học nếu không mở đèn, Trâm tha hồ
quan sát sinh hoạt về đêm của cả hai nhà đối diện mà 'địch quân' không hề hay
biết... Xin đừng vội nghĩ rằng Trâm quá tò mò, bí mật theo dõi cuộc sống riêng
tư của người khác. Nhờ những hoạt cảnh chung chung quanh xóm, được mọi người
quan tâm lưu ý, nên Trâm biết, chú N., ngoài nghề chính là lính, chú còn là thi sĩ nên thích diễn đạt tâm
tư bằng những lời vô ngôn, qua ánh nhìn lặng lẽ, lạnh lẽo như đôi thạch ở đồi
băng miền Nam cực. Nhà của người mình thuở trước ở Việt-Nam, cứ sáng ra là mở
toan cửa rộng để nô đùa cùng nhịp nắng bình minh tưng bừng rực rỡ, làm bạn với
không ít tiếng chào hàng lãnh lót vang vọng từ “cộng-đồng-buôn-gánh-bán-bưng”
thơm lừng mùi khoai lang khoai mì, tàu hủ đường, chè bà ba, mía hấp, (ngày nào
thiếu sẽ rất nhớ)... và ngẫu nhiên nghe luôn cả nhiều mẫu chuyện bình thường
xen lẫn ngàn chuyện bất thường không thể đếm.
Dòng đời trôi theo nhịp chảy mơ hồ của thời
gian. Cuồn chỉ rối bắt đầu âm ỉ chung quanh cuộc sống vừa êm đềm, vừa phức tạp
của các cô chú láng giềng tốt bụng mà đối với Trâm, họ đã từng vô cùng hạnh
phúc cũng như bất hạnh triền miên, bởi một ngày của năm 1963, chú Út tử nạn
trong lòng con chim sắt giữa lúc thi hành quân vụ. Chuyến bay cuối cùng của chú
Út khơi đầu nguyên nhân (?), giúp cho thím Út và chú Bình, không hò mà hẹn, âm
thầm rời bỏ vòm cây “biên giới của ba nhà”, thay đổi tổ uyên ương!
Các cô chú ấy đều
là những người có học thức. Càng lớn lên thêm, Trâm càng nghiệm ra rằng, chuyện
tình cảm không hề biết phân biệt tuổi tác, giàu nghèo sang hèn; càng không thể
cưỡng cầu theo giai cấp hoặc hiện trạng trong cuộc đời của mỗi cá thể. “Lý trí có 1000 lý do để chống đối; nhưng trái
tim lại có 1001 lý lẽ để biện minh”. Tuy nhiên, nói gì thì nói, Trâm rất
xót xa mỗi khi nhìn thấy bác Châu Long dẫn cháu nội Huỳnh Liên, con gái chú
thím Út đi chơi lòng vòng chung quanh khu xóm.
Cô Tâm An đi làm
bằng xe Vélo Solex, kiểu xe lịch sự, thịnh hành nhất thời bấy giờ, tôn vinh
dáng ngồi của phái nữ ngoài xã hội. Nhiều lần cô bị hư xe (?), luôn nhờ chú N.
đưa đến sở làm. Những lúc rảnh rỗi, chú N. cũng đã từng tự nguyện chở Trâm đi học
khi Trâm lỡ bị trễ chuyến xe Hiệu-Đoàn, chuyên đưa đón học trò Gia-Long đúng giờ
như Robot thời nay.
Một buổi trăng
khuya đang độ tròn, lan tỏa ánh sáng vằn vặt, lung linh xuyên vòm lá, ngơ ngác
len lõi vô chỗ không đèn Trâm đang âm thầm ngồi độc thoại. Ánh sáng long lanh
tương phản với đóm lửa đỏ, giống như đầu điếu thuốc ai đó đang cầm trên tay,
Trâm đoán vậy. Tiếng nói tuy khẽ khàng, nhưng với khoảng cách độ chừng hơn vài
thước, Trâm nghe không xót một lời:
-Tâm An nên hiểu,
đời lính rày đây mai đó, chưa thể biết trước điều gì. Cứ nhìn cảnh anh Út của
tôi. Tiếng nói chợt ngừng với ánh lửa
lóe sáng lập lòe, lung linh thêm đôi chút...
….............................................
Vậy rồi, thời
gian lờ lững trôi xuôi theo dòng đời, vẫn với chu kỳ bao mùa không ngừng nghỉ.
Hằng năm, cứ mỗi độ Hè, Trâm thường được ba mẹ cho phép về thăm lại quê hương Bến-Tre. Trâm
quyến luyến miệt vườn hơn đô thị phồn vinh nên thích ngắm nhìn chốn xưa lối cũ
bất cứ lúc nào có thể. Xe đò vừa lăn bánh qua phà Rạch Miễu là Trâm quên hết mọi
chuyện của ngày hôm qua. Cho dù đi dưới những cơn mưa bụi bay bay hay giông bão
ầm ầm lê thê ghềnh thác Trâm cũng vô cùng tự nhiên tự tại để được thấm đẫm, đùa
vui cùng đất nước ở nơi 'chôn nhau cắt rốn' của mình.
Vườn nhà ngoại
tuy không rộng lắm, nhưng vẫn có đủ những lối mòn quyến rũ cho Trâm tự do rong
chơi thám hiểm, thu ngắn chuỗi ngày nhàn tản thênh thang. Ngoài những loại cây
ăn trái thông thường quanh năm trĩu quả, còn có bòn bon tròn ủm, dâu xanh dâu
vàng, xoài hòn xoài cát, mận xanh mận sữa, chuối tiêu chuối ngự, dừa tam quan dừa
nước (còn cho lá để lợp nhà), trái điều trái đào lộn hột (loại đào có sọc màu
vàng chanh, hột ăn rất ngon, chúng ta gọi là hạt điều)... Chưa hết đâu nghen,
vườn được coi là… đầy đủ và khởi sắc hơn nhờ có thêm hai gốc Sầu-Riêng, sống
đơn lẻ, nghiêng mình soi bóng nơi cuối bờ đi xuống bến sông để đợi đò ra chợ tỉnh.
Độ mùa cuối cùng, một năm trước Tết Mậu Thân, sau những tháng ngày rong
chơi cùng đất nước, Trâm trở lại với vòm cây, vừa lúc để hái xuống bài thơ được
chú N. gắn lên cành lá, nắn nót viết
trong lòng chiếc máy bay xếp bằng giấy trắng học trò... “Tuổi nào nhìn lá
vàng úa chiều nay” (TCS)! Trâm đã mân mê bài thơ chưa từng biết đợi chờ bằng
mười đầu ngón tay nhẩm đếm nỗi buồn biệt
ly. Chiếc cầu lưu luyến vẫn còn đây,
nhưng linh hồn của chính nó đã bay xa, trở về miền cao nguyên giá lạnh tự lúc
nào?
“Trời mùa Hạ, trời nghiêng nghiêng nắng đổ
Mây giã từ rừng núi cũ mây bay
Người thương ơi, nhớ nhung tràn giấc ngủ
Tôi gối đầu, dấu mặt giữa lòng tay.
Giấc ngủ ngắn, vỡ òa theo ánh
sáng
Triền mi nghiêng thèn thẹn giấc chiêm bao
Khe khẽ gọi tên ai lần thứ mấy?
Âm thanh buồn tung đôi cánh
bay cao”.
[…..............những lời vô ngôn tiếp nối.........................................
…........................................................]
Vào một
cuối tuần không lâu sau ngày chú N. trở về Đà Lạt, hai bác cha mẹ của 'Tâm
Bình- Tâm An', tiễn đưa con gái đến tận am thiền làm công quả.
Ướp tình trân châu, nghe
gió thổi
Vén rèm khuê các, ngắm mưa rơi
Gió mưa sướt mướt, thuyền trôi nổi
Lỡ kiếp hồng nhan, lỡ kiếp người.
Cuối cùng, giữa thời ngã nghiêng của đất nước
và của cả nội tâm, chỉ còn lại mình Trâm tiếp tục thưởng thức màn trăng và hái
trái dưới tàn cây huyền hoặc. Miền hạnh phúc thênh thang đã tan đàn xẻ nghé bởi
những vật đổi sao dời bất chợt của cả nhóm người quen.
Người không quen gặp mỗi ngày
Người quen càng đợi, càng dài nỗi xa
Đắm chìm trong Cõi-Người-Ta
Đừng quen, đừng biết, người xa bỗng gần.
Câu hỏi cho đến tận bây giờ, khi chú N. đã
không còn trên cõi đời này nữa, ai đã từng là AI trong lòng chiếc máy bay xếp bằng
giấy trắng học trò gắn khéo dưới vòm cây?
Sao cũng lại đúng vào lúc “Sầu riêng hai gốc trồng chung, vàng rơi xuống mộng không
cùng... ngẩn ngơ” vậy chứ?!
No comments:
Post a Comment