CHUYẾN
XE CHIỀU ĐỊNH MỆNH
Viết theo lời kể của anh Cao văn Diễn
N.V.T.
Tôi cứ phân vân mãi không biết
có nên lên chuyến xe này hay không. Những chuyến xe chiều Đà Lạt - Bảo Lộc hành
khách vẫn rất ngán. Nhưng nếu không về thì thất hẹn với Chi. Chi đã hẹn chắc
chắn với tôi hôm nay gặp nhau tại quán chè bờ hồ. Mới quen biết mà đã thất hẹn
như thế tôi áy náy lắm. Mà về giờ ấy thì thế nào cũng bị mẹ tôi rày. Trước khi
đi, mẹ tôi đã dặn kỹ:
- Nếu việc xong trước buổi
trưa thì về, còn muộn hơn thì dứt khoát ở lại một đêm. Xe buổi chiều hay gặp
nguy hiểm lắm!
Tôi đã 24 tuổi mà bà cứ coi
như con nít, dặn đi dặn lại đến bực mình. Nhiều lần tôi cảm thấy quê vì sự chăm
sóc quá đáng của mẹ mình. Bà không hề nghĩ rằng tôi cũng đã có một chỗ đứng nhỏ
trong xã hội. Nói mà cười, dưới tay tôi cũng có chục thằng lính ngon lành như
ai chứ.
Tôi để ý thấy hành khách phần
nhiều là phụ nữ. Lâu lâu mới có một hành khách đàn ông lớn tuổi. Tôi thậm thùi
thậm thụt toan quay về thì chợt thấy một người quen cầm xách tay đi lại. Đó là
anh Khâm, một sĩ quan hiến binh vừa mới chuyển ngành sang cảnh sát tỉnh Lâm
Đồng. Anh khoảng 40 tuổi, có vợ và 7 đứa con chưa có đứa nào trên mười sáu. Tôi
làm bộ xăng xái hiên ngang vẫy tay với anh Khâm và hỏi:
- Anh định về Bảo Lộc giờ này?
- Về thì về chứ sợ cóc gì!
Có lẽ điệu bộ của tôi đã làm
anh an tâm hơn. Ngược lại, lời nói của anh Khâm cũng khuyến khích tôi quyết
định lên xe. Hai chúng tôi ngồi gần nhau. Tuy chúng tôi đều mặc đồ dân sự nhưng
cả hai đều có lận súng lục trong người. Tôi là tiểu đội trưởng một tiểu đội
cảnh sát dã chiến ở Lâm Đồng.
- Về chiều thế này anh thật
không ớn à?
- Chú mày thanh niên không ớn
tao già cả mà ớn gì! Nói chơi vậy chứ đi công việc cả tuần rồi, nhớ mấy đứa con
chịu không nổi phải liều vậy! Có lẽ giờ này chúng đang ngong ngóng nhìn ra cửa
ngõ. Mấy đứa con tôi ít đeo mẹ nó mà cứ quấn quít tôi không à! Sợ cũng sợ mà nghĩ
đến con đâm ra hết sợ. Không lẽ mình lại mang mạng con rệp?
Tôi không dám đem cái động lực
thúc đẩy tôi liều lĩnh về chuyến xe chiều nguy hiểm này tiết lộ với anh Khâm.
Trong cách suy nghĩ vụng dại, tôi muốn bày tỏ sự can đảm của mình, tôi muốn lấy
điểm với nàng. Tôi đã không chịu nghe lời căn dặn của mẹ tôi "Nếu về kịp
buổi trưa thì về chứ sang buổi chiều thì nhất định phải ở lại nghe con!".
Thường thường những người có
liên can tới quân đội và chính quyền qua lại Bảo Lộc Đà Lạt chỉ đi vào những chuyến
xe sáng đến trưa hoặc những khi có xe quân đội mở đường. Bất đắc dĩ mới phải
liều đánh rủi may với định mệnh. Những nương trà bao la nối tiếp nhau dọc con
đường chính là chỗ ẩn núp rình mò rất tốt cho bọn du kích. Đoạn nào chúng cũng
có thể xuất hiện bất ngờ. Du kích vẫn ra đón đường thu thuế xe đò và thỉnh
thoảng cũng bắt vài người đi mất tiêu. Chủ xe lẫn hành khách tuy chẳng quen
biết chúng tôi nhưng ai cũng nhìn chúng tôi với ánh mắt ái ngại. Khi chưa bước
lên xe thì chúng tôi quả quyết lắm. Tôi nghĩ lâu lâu chúng mới đón đường một
lần chứ chúng cũng "rét" thấy mẹ đâu dám làm ăn thường xuyên! Nhưng
ngồi yên chỗ trên xe rồi, trống ngực tôi lại bắt đầu đánh lô tô. Tôi nhớ đến
một chuyện kể về một lần duy nhất những người lính trên xe thoát khỏi tay bọn
du kích. Lần đó, chúng bắt xe ngừng và bảo ai là ngụy quân ngụy quyền trên xe
phải bước xuống hết. Vì không có một ai bước xuống cả nên chúng bảo tất cả phải
xuống cho chúng kiểm tra. Một anh lính trên xe liền lấy ra một trái lựu đạn,
anh rút chốt ra cầm tay tuyên bố:
- Bị bắt cũng chết, vậy, tôi
muốn chết trước cho yên. Bây giờ, nếu có một ai trên xe bước xuống, tôi sẽ
buông trái lựu đạn này để cùng chết chung.
Câu tuyên bố quyết liệt và
hành động của anh lính làm mọi người trên xe tái mặt không dám động đậy. Sau đó
thì tài xế, lơ xe cùng nhiều người lên tiếng năn nỉ bọn du kích. Rốt cục bọn du
kích phải nhượng bộ cho xe đi.
Thú thật, tôi không có gan như
anh lính kia. Hơn nữa, trong mình tôi cũng không có lựu đạn. Bấy giờ tôi lại
hối hận về sự liều lĩnh nôn nóng của mình. Chỉ vì một cuộc hẹn hò phù phiếm làm
mình dám quên thân, bỏ lơ cả lời mẹ ân cần dặn dò. Thà ở lại Đà Lạt một đêm rồi
sáng về cũng đỡ mắc bệnh tim hơn như thế này. Tôi cũng hối hận vì đã lận theo
cây súng trong người như một bằng chứng để nộp mình. Cây súng đó thật khó sử
dụng trong trường hợp này. Mình đâu dám cầm sẵn trên tay! Mà nếu cầm sẵn được
nó cũng chẳng ăn thua gì với nhiều cây súng lớn đang lăm lăm. Tôi ngẫm nghĩ rồi
tìm cách gợi chuyện với cô gái ngồi cạnh:
- Cô về Bảo Lộc à?
- Dạ phải ! Ông cũng về Bảo
Lộc?
Nghe giọng nói Bắc Kỳ, tôi rất
mừng. Dân Bắc Kỳ sống ở Bảo Lộc hầu hết là dân di cư, không mấy người ưa Cộng
Sản, tin tưởng được.
- Đúng! Tôi về Bảo Lộc, tôi là
Diễn, ở ấp Tân Phát. Cô ở ấp nào?
- Em tên Phượng, ở ấp Tân Bùi.
Tôi nhẩm lại tên cô gái cho
nhớ. Tên ấp thì khỏe rồi. Tôi không dám hỏi kỹ hơn vì thật ra nói chuyện này
tôi cũng không được tự nhiên cho lắm.
- Ông có đi lính tráng gì
không? Về Bảo Lộc giờ này ông không ngại à?
Thấy cô gái hỏi câu đó tôi nhẹ
người đi:
- Thanh niên thời này ai mà
tránh lính được! Trong trường hợp cần thiết cô giúp đỡ tôi được không?
- Giúp đỡ như thế nào?
- Giấu giùm cái này! - Tôi chỉ
vào cây súng lục đang giấu trong áo.
Những lần đón xe, bọn du kích
thường chỉ lo nhận tiền của chủ xe, bắt bớ hoặc lục xét cấp tốc một vài người
đàn ông rồi lo chuồn chứ ít khi đụng đến phụ nữ.
- Vậy ông hãy gói vào tờ báo,
tôi cất trong xách tay cho!
Tôi quá mừng nhưng lại ngập
ngừng vì súng là vật hộ thân, tôi chưa dám khinh xuất trao cho người khác. Ở
đời, lúc đã đen lại hay gặp thợ rèn, chưa đi được bao xa thì xe chết máy. Bấy
giờ tôi chỉ mong sao cho xe sửa không được ở lại tại đó cũng đỡ nguy hiểm. Hoặc
sửa được thì cũng mong đủ muộn để xe phải quay về Đà Lạt. Nhưng chỉ khoảng 20
phút sau xe lại chạy được. Lúc đó tôi đành quyết định đem cả giấy tờ lẫn cây
súng gởi cô Phượng. Nhìn lại anh Khâm thấy anh đang ngủ gà ngủ gật tôi cũng yên
chí. Tôi gởi súng nhưng lại ngại anh Khâm biết, sợ anh cười là nhát gan. Tôi
không ngờ chính vì sợ người khác cười, không dám thành thật bày tỏ lòng mình
với anh Khâm, để khi chuyện xảy ra rồi, tôi phải ân hận mãi.
Chuyến xe chiều tuy cũng chật
khách nhưng ít ai chuyện trò. Trông mọi người hình như đều có vẻ gì nghiêm
trọng làm tôi càng thêm bồn chồn. Khi xe còn cách quận lỵ Di Linh chừng bốn năm
cây số, lúc ấy mặt trời sắp lặn, ông tài xế đột nhiên quay mặt lại nói vội:
- Mấy ông đón đường rồi đó.
Coi chừng!
Người trên xe đều lấm lét nhìn
nhau, bầu không khí im lặng đến khó chịu. Vài người đưa mắt nhìn tôi và anh
Khâm. Tôi quay lại thấy anh vẫn còn ngoẹo đầu mà ngủ. Tôi dùng tay đánh thức
anh dậy và bảo nhỏ:
- Coi chừng, mấy chả ra đón
đường!
Anh Khâm có vẻ hoảng hốt chốc
lát nhưng rồi anh bình tĩnh lại ngay. Tôi chưa kịp bàn bạc gì với anh Khâm thì
xe đã chậm lại rồi ngừng hẳn. Ba tên du kích chận cửa trước và bắt mọi người
xuống xe hết. Tôi không rõ chúng còn bao nhiêu tên phục ở những chỗ khác. Cây
súng không còn trong người nên tôi cũng an tâm phần nào, rụt rè theo chân mấy
người bước xuống. Vừa đi tôi vừa quay liếc nhìn lại anh Khâm. Tôi thoáng thấy
anh chạy ngược lại mọi người, kéo cái cửa sau của xe và nhảy xuống. Có lẽ mấy
tên du kích không thấy được, bên dưới không có gì chộn rộn hết. Bọn du kích bắt
số nữ hành khách ngồi một dãy. Nam hành khách chỉ có bốn người, ba người khá
lớn tuổi, cỡ 50 trở lên cả và tôi cùng ngồi một dãy. Không có anh Khâm - như
vậy là anh trốn được rồi. Anh tài xế cũng ngồi gần dãy chúng tôi. Hai tên vừa
cầm súng kềm giữ hai toán người đang ngồi vừa thuyết chính trị. Tên thứ ba kéo
anh lơ xe lên lục soát đồ trong xe. Chốc sau tên lục soát bước xuống, tay cầm
một cây súng lục mới lấy được. Nó sấn lại ngay trước mặt tôi:
- Cái súng này của anh phải không?
- Dạ không phải. Tôi làm thợ
mộc làm gì có súng!
Hai tên kia cũng chạy lại.
Chúng cũng hỏi ba người kia, nhưng thấy họ đều già cả quê mùa nên rốt cục chúng
quả quyết cái súng là của tôi. Tôi cũng nghĩ chắc là cô Phượng vì sợ quá đã
quăng cây súng của tôi lại. Biết khó thoát chết chuyến này, tôi đành quyết định
liều mạng.
- Nếu mày không chịu nhận, tao
bắn liền tại chỗ bây giờ! Tao đếm 3 tiếng: một .... hai...
Bất ngờ tôi vùng đứng dậy chồm
tới xô mạnh thằng đang chĩa súng vào tôi ngã vào một thằng thứ hai rồi bỏ
chạy.
- Đuổi theo! Đuổi theo!
Tôi nghe rõ tiếng hô của
chúng, tiếp theo là nhiều loạt đạn nổ. Chúng nó đồng loạt đuổi theo tôi. Tôi cứ
băng băng nhảy đại qua những bụi chè thấp hoặc lòn đại dưới những lùm cây lớn.
Gai chồi đều không kể, tôi cứ chạy. Đằng sau vẫn có tiếng người la hét. Bấy giờ
trời đã chạng vạng, nhá nhem. Người tôi ra mồ hôi như tắm. Khốn nạn thay, đang
chạy tôi bỗng bị sa xuống một cái hố. Hình như là cái giếng cạn người ta
dùng để đổ cỏ rác. Tôi chưa leo lên miệng hố được thì nghe tiếng bọn người đuổi
theo đã tới gần. Tôi nhìn lại thấy cả ánh đèn pin chiếu lập lòe. Tôi điếng hồn
chưa biết tính sao thì bỗng nghe tiếng một tên đã tới gần chỗ tôi thét lên điệu
mừng rỡ:
- Anh em ơi, nó đây rồi!
Tôi nghĩ chúng đã thấy tôi.
Cái chết đã đến bên mình. Tôi kêu thầm "Mẹ ơi, chính vì con không nghe lời
mẹ mới đến nông nỗi này!". Nhưng tôi ngạc nhiên thấy ánh đèn pin lại rọi
vào một chỗ khác, hình như có tới bốn năm bóng người xúm lại.
- Mày chạy trốn ra đây rồi
cũng không thoát được hả! Mày đáng tội chết chưa?
Tôi nghe tiếng đấm đá
lịch bịch cùng với tiếng kêu rên hự hự của nạn nhân.
- Mày làm chúng ông chạy bở
hơi tai mày có biết không? Mày làm gì mà có cây súng này? Nói ấm ớ tức là mày
muốn chết sớm đấy nghe chưa!
- Dạ, tôi làm cảnh sát trật tự
lưu thông.
- Công việc hằng ngày của mày
là gì?
- Giữ trật tự các tuyến lưu
thông cho xe cộ khỏi chạy ẩu tránh gây ra tai nạn.
Tôi nghe giọng trả lời đúng là
của anh Khâm. Bây giờ thì tuy lo lắng thương xót cho anh ấy nhưng tôi lại khá
an tâm cho mình.
- Mày làm việc ở đâu?
- Thị xã Bảo Lộc.
- Mày làm việc ở Bảo Lộc vậy
có biết thằng này không?
- Dạ không.
- Anh Hai, ông ta không biết
em nhưng em biết ông ta. Ông ta không phải là người xấu. Ông ta không bắt nạt
ai hết.
Tôi đoán chừng đây là một tên
nào đó ở Bảo Lộc mới thoát ly. Nhưng tiếp đó lại một giọng hách dịch vang lên:
- Thôi, nói lôi thôi làm gì!
Làm tay sai cho giặc thì cứ phất đi cho rảnh. Tốt cũng giết, xấu cũng giết,
được thằng nào hay thằng ấy, có thế dân mới ngán mà khỏi theo chúng! Giết ngay
đi! Hơi đâu đem về mất công giam giữ lại phải nuôi ăn hao hụt khẩu phần mình!
Ấy, đừng có bắn, để dành viên đạn bắn con chim con thú có lợi hơn. Dùng tay
chân được rồi.
Thế là tôi nghe rõ tiếng đấm
tiếng đạp cùng tiếng rên la, tiếng năn nỉ của anh Khâm. Mỗi tiếng đấm đá, mỗi
tiếng rên la đều như mỗi mũi dao ngoáy vào tim tôi. Chừng mười lăm phút sau thì
tiếng đấm đạp ngưng và tiếng rên rỉ cũng ngưng.
- Kiếm một cái lỗ mà dập nó
xuống!
Tiếng ra lệnh của tên nọ làm
tôi điếng hồn lên. Chỗ chúng hành hạ anh Khâm chỉ cách chỗ tôi không tới mười
thước. Nếu chúng đi tìm chỗ để dập anh Khâm thì có thể chúng bắt gặp tôi lắm.
Nếu chúng động đậy chắc tôi phải liều mạng vọt chạy lần nữa. Chẳng thà bị chúng
bắn nhằm một viên đạn còn hơn bị bắt để chịu trận đòn tàn khốc trước khi chết
như anh Khâm.
- Thôi, dập làm gì! Ngày mai
thân nhân nó sẽ đến tìm nó. Nếu mạng nó chưa mất thì cũng tàn phế suốt đời rồi.
Chúng ta dọt!
Thế là chúng kéo nhau đi. Bấy
giờ tôi mới biết mạng mình thật sự chưa đến nỗi tuyệt. Đợi cho thật yên ắng,
tôi đứng dậy bước lại chỗ anh Khâm nằm. Tôi đặt tay lên ngực anh rồi lên mũi
anh, tuyệt đối không còn dấu hiệu của sự sống. Tôi vuốt mắt cho anh Khâm, sửa
lại cho anh đúng thế nằm ngửa. Sau đó tôi lăn đại trên cỏ mặc kệ muỗi mòng và
sương rơi.
Nhờ người quá mệt, tôi
cũng ngủ được một giấc. Gần sáng, phần vì sương lạnh, phần vì nôn nóng đợi
sáng, tôi không thể nào ngủ được nữa. Thế là tôi phải ngồi chụp muỗi. Sau đó,
tôi lần mò ra gần đường cái. Từ chỗ anh Khâm bị giết ra tới đường cái ước chừng
hai cây số. Anh Khâm đã chạy thoát và trốn xa như vậy tưởng cũng quá an
toàn. Nào ngờ chỉ vì cây súng vô chủ trên xe mà bọn chúng cứ gán cho tôi mới
sinh chuyện rủi cho anh. Tôi nhớ lại câu nói của anh chiều qua: Đúng là mạng
con rệp!
Tới chín giờ rưỡi sáng tôi mới
thấy chiếc xe đò đầu tiên trên đường nhưng lại là xe về hướng Đà Lạt. Gần mười
giờ mới có xe về Bảo Lộc, tôi quá mừng ra vẫy tay đón. Về tới Bảo Lộc, tôi chưa
vội về nhà mà đến thẳng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Lâm Đồng trình bày mọi sự. Thiếu
tá Dương Quang Tiếp liền cho huy động một trung đội CSDC giúp đỡ người nhà anh Khâm
đi lấy xác anh về.
Khi tôi bước vào nhà, mẹ tôi
mừng rỡ tươi cười:
- Mẹ biết con nghe lời mẹ sáng
nay mới về chứ! Ba con cứ lo lắng sợ con không nghe lời mà về vào buổi chiều có
khi mang khốn, cả đêm ông ngủ không yên đó.
Nghe lời mẹ tôi nói, tôi vô
cùng hối hận. Mẹ đâu có biết con đã sống một đêm kinh hoàng! Nếu như chúng
không bắt gặp anh Khâm thì chắc gì con đã thoát được! Bây giờ nét mặt mẹ đâu
còn tươi như thế! Cũng may trong nhà tôi chưa ai biết gì hết.
Hôm sau tôi vào ấp Tân Bùi tìm
nhà cô Phượng để xin lại cây súng. Cô Phượng mời tôi vào nhà uống nước rồi mang
ra cho tôi gói giấy báo:
- Em cũng định đem đến ty Cảnh
Sát trả lại nhưng còn đợi tin tức ông. Em cũng không ngờ ông Khâm lại phải chết
như thế, tội nghiệp thật! Nhiều người thấy ông ấy chạy thoát được rõ ràng rồi,
chúng nó đâu thấy. Chỉ tại ông dụt lại cây súng dưới ghế ngồi mới nên nỗi như
thế.
- Cám ơn cô Phượng vô cùng!
Nếu không có cô can đảm giấu giùm cây súng này không biết lúc đó tôi sẽ ra sao
nữa. Tôi sẽ nhớ ơn cô suốt đời...
Đúng là tôi nhớ ơn Phượng suốt
đời thật. Sau khi gặp lại Phượng tôi đã có một sự suy nghĩ so sánh ngộ nghĩnh.
Kể về nhan sắc dưới con mắt tôi thì Chi và Phượng khó mà phân biệt ai hơn ai
kém. Chỉ vì muốn lấy điểm với người con gái mới quen tên Chi mà chút nữa tôi
mất mạng. Vậy thì nàng là hung tinh của tôi chứ gì nữa! Còn Phượng, dù chỉ mới
gặp nhau lần đầu trên xe đã can đảm mạo hiểm ra tay giúp đỡ người không cần suy
nghĩ. Vậy chính Phượng là phúc tinh của tôi. Chừng đó là đủ rồi. Tuy thế, tôi
vẫn chưa tin vào sự suy nghĩ của mình. Bây giờ thì tôi có cơ sở để tin rằng,
với tuổi trẻ, có thể nguời ta lo cho chính bản thân mình lại không chu đáo bằng
những nguời thân khác, đặc biệt là nguời cha, người mẹ. Mượn cớ ăn mừng tai qua
nạn khỏi, tôi tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời cả Chi lẫn Phượng đến dự rồi ngầm
trưng cầu ý kiến những người thân của mình. Tôi không ngờ cuộc bầu cử ngầm lại
thành công mỹ mãn như định mệnh đã sắp đặt. Trong đời tôi chưa thấy một cuộc
bầu cử nào dân chủ hơn thế. Thế là sáu tháng sau cuộc gặp gỡ hãi hùng ấy,
Phượng trở thành người vợ hiền của tôi.
Ngô Viết Trọng.
No comments:
Post a Comment