Kính thưa quý Thầy Cô & các anh chị,
Thukỳ tình cờ quen anh Nguyễn Văn qua nhạc sĩ (VõTường Trình). Cả hai đều là người Tuy An, tỉnh Phú
Yên , thật là một niềm vui lớn lao khi thấy người Phú Yên đa tài viết
văn, làm thơ, sáng tác nhạc…tuyệt vời.
Ngày còn ở quê nhà Nguyễn Văn là một nhà giáo, đã đem
hết nhiệt huyết, sự hiểu biết của mình rèn luyện dạy dỗ cho những
em học sinh tại Phú Yên. Khi Thukỳ
hỏi chuyện muốn giới thiệu Văn trên Blog đến với quý thầy Cô &
các anh chị, Văn khiêm nhường trả lời:
“Có gì đâu hả chị, Bụt nhà không thiêng lắm ,hy vọng điều trớ trêu
này không rơi vào mình.…em chỉ một
ông Thầy Giáo thế thôi…”
Văn đến Mỹ vào khoảng thập niên 90 hiện sinh sống tại
Chicago, đã viết nhiều truyện ngắn về nước Mỹ được đăng trên nhiều báo
như Việt Báo, Hợp Lưu và Văn Tuyển…Và đang hợp tác với tờ Văn Việt. Mặc dù bận rộn công việc làm, Văn rất
vui và sẵn sàng đóng góp với “chimvenuinhan” vì Văn lúc nào cũng mang
trong tim hình ảnh Phú Yên yêu dấu.
Bản tánh khiêm nhường, đơn giản, bình dị dù rất nhiều
tài, làm cho Thukỳ vô cùng cảm khích.
Xin trân trọng giới thiệu đến quý Thầy Cô và các anh chị truyện
ngắn: “Khách Ở Xa Về” chúng ta sẽ tìm thấy ít nhiều hình ảnh thân
yêu của quê cũ, mà đã lâu lắm rồi mấy ai có dịp về thăm.
Xin thành thật cám ơn Văn và hy vọng sẽ tiếp tục ủng
hộ bài viết để chia sẻ đến tất cả Thầy Cô & các anh chị cựu
HSPY.
Trân trọng,
Thukỳ. 
Nguyễn Văn
Chiếc xe buýt chạy mệt
nhọc lên đoạn đường đèo, xong dừng hẳn lại bên lề, trên một khoảng đất trống đầy
đá dăm. Tiếng máy nổ ngắt quãng từng chặp như người đang lên cơn hen suyễn sắp
đứt hơi. Trước mặt là quán nước nằm ẩn mình đơn độc dưới tàng cây, cành lá rậm
rạp. Đường đèo dài khoảng 12km, nhiều khúc cua hẹp, có đoạn chạy vắt vẻo qua sườn
đá dựng đứng nằm sát biển. Dọc theo vách núi, đá granite nằm lởm chởm, chìm khuất
trong đám dây leo và những bụi cây gai um tùm. Dưới chân đèo, dăm nóc nhà tranh
nằm thấp thoáng bên những khóm chuối. Mấy vạt mía còi cọc, lá úa vàng, đứng
chen chân trên các thửa đất bạc màu. Giữa lưng chừng núi, vài túp lều vải của
những người thợ chẻ đá nằm lạc lõng giữa bốn bề sương mai.
Quán nước trông tuềnh
toàng, chật hẹp. Vách lá. Mái che bằng vải bố, bạt thếch màu mưa nắng. Trước mặt
quán kê mấy chiếc bàn gỗ cũ kỹ, dăm chiếc ghế nhựa đứng xốc xếch, xiêu quẹo
trên nền đất.
“Nghỉ chân ăn sáng,
bà con!” Tay tài xế nói.
Một người đàn ông
trung niên dáng tầm thước, tóc muối tiêu, mang chiếc túi xách trên vai bước ra
khỏi xe.
“Anh gì ơi, nhà vệ
sinh ở đâu?”
“Ở đây làm gì có nhà
vệ sinh. Chỉ có nhà thổ!”
Tay thanh niên dáng
ông chủ, chép miệng cộc lốc. Gã ăn vận lôi thôi, mũi gãy, môi thâm, da mặt sạm
như màu thâm u của đá núi. Gã nhướng đôi chân mày xếch ngược nhìn người khách,
vẻ xoi mói. Thiên hạ trong mắt gã dường như chia ra làm hai loại người, kẻ có
tiền và bọn khố rách áo ôm. Người đàn ông đứng trước mặt, có lẽ được gã liệt
vào loại thứ nhất. Gã quơ chiếc khăn, lau vội lên mặt ghế.
“Dạ, mời ngồi! Ông
dùng chi?”
“Một ly cà phê.”
“Ông lấy thêm gói
thuốc, há? Ở đây có Ba Số Năm. Bảo đảm thuốc lá ngoại!”
Gã nói sốt sắng. Người
khách gật đầu, xong ngồi xuống chiếc ghế, điệu bộ lóng ngóng. Đám hành khách tản
ra xung quanh, thản nhiên đứng trật quần, phóng uế ngay bên lề đường.
Mới sáu giờ sáng. Không khí hãy còn ẩm ướt. Gió từ biển thổi vào
mát lạnh. Những tia nắng sớm chiếu len lỏi qua các táng cây rừng, rải từng vệt
sáng yếu ớt xuống mặt đường. Đâu đó, tiếng côn trùng vẫn âm vang như tiếc nuối
bản hợp tấu của màn đêm. Sương giăng bảng lảng. Rừng núi còn ngầy ngật trong
cơn ngái ngủ.
“Bánh mì đây! Bánh
mì thịt nướng, nóng giòn đây!”
Tiếng rao khàn đặc.
Một ông già thân hình gầy guộc trong bộ đồ bà ba đen, hai tay bưng chiếc mâm
nhôm đựng đầy bánh mì, hiện ra từ cửa gian bếp. Mái tóc ông ta bạc trắng. Cặp
kính lão che gần hết nửa khuôn mặt. Ông bước đi cà nhắt với một cái chân cứng
đơ, kéo lê trên mặt đất. Nếu bỏ cặp kính xuống, rõ ràng ông với tay thanh niên
kia là hai cha con.
“Khỏe chứ, lão Thọt?”
Tay tài xế hỏi.
“Ngày nào anh cũng
đem khách đến đây, ngày đó lão già này vẫn còn sống khỏe!” Lão cười, miệng căng
ra như mõm sói. “Bữa sáng của anh, đằng kia!” Lão đưa tay chỉ vào cái lồng đậy
thức ăn trên chiếc bàn nhỏ nằm gần gốc cây.
“Mấy ngàn một ổ
bánh, ông già?” Một người hỏi.
“Mười ngàn.”
“Mắc quá! Mấy quán
khác chỉ bán có năm ngàn…”
“Bánh này nhân bằng
thịt rừng nướng, nên đắt hơn.”
“Thịt rừng à? Nếu
không đúng, phải trả tiền lại đấy!”
“Là thịt heo rừng thật.
Ai thèm lừa mấy người!” Lão Thọt trả lời rít rắm.
Khách khứa bu quanh
mâm bánh. Ông khách cảm thấy giọng nói lão Thọt khá quen, nhưng không nhớ đã
nghe được từ bao giờ. Ông ngồi hút thuốc, mắt lơ đãng nhìn cà phê nhỏ giọt
trong chiếc ly, khuôn mặt trầm ngâm. Thỉnh thoảng ông nghiêng tai lắng nghe tiếng
sóng biển vỗ mơ hồ vào vách đá dưới chân núi. Những âm thanh đơn điệu đến buồn
tẻ ấy cứ chốc chốc lại vẳng lên theo từng cơn gió sớm. Ông nghe chút bình yên
hiếm hoi dâng lên trong lòng, thứ bình yên của kẻ lãng du trong một sớm mai trở
về cố quốc ngồi nhìn khói bếp bay thẩn thờ trên mái rạ. Gần ba mươi năm nay,
ông ao ước được một lần trở lại chốn này.
“Có xe ôm chạy từ
đây xuống cảng Vũng Rô không, chú?” Ông khách tìm cách gợi chuyện với lão Thọt.
“Dưới đó vắng hoe, cậu
em xuống làm gì?”
“Sao nghe nói đang
xây cảng biển, lớn lắm?”
“Ối dào! Chính quyền
đang kêu gọi đầu tư để mở rộng khu cảng. Nhưng chẳng biết có ma nào chịu vãi tiền
vào cái xó đèo heo hút gió này không? Ở đây chỉ có đá núi thôi. Đường vào đó
toàn đèo dốc, khó đi lắm. Nếu cậu em chịu trả thêm tiền, chắc thế nào cũng có
người chở.”
Chờ đến hơn tiếng đồng
hồ, cuối cùng lão Thọt tình nguyện làm tài xế xe ôm cho ông khách. Giá cả hai
lượt đi về là hai trăm ngàn đồng.
“Cái chân của chú?”
“Vẫn còn chạy xe được.”
Nói xong, lão cho nổ máy chiếc 67. Chiếc xe cũ từ đời nào. Bánh xe
và cốt máy dính đầy bụi đường, có lẽ đến cả năm chưa được lau chùi. Tiếng máy nổ lụp bụp, chờ dịp là
tắt ngấm. Khói phun mù mịt.
Suốt đoạn đường, lão
Thọt nói huyên thuyên. Lão bảo thế núi ở đây ẩn tàng long huyệt, là chỗ địa
linh, vượng khí rất thịnh. Ngày xưa, tướng nhà Đường là Cao Biền khi làm Tiết độ
sứ đất Giao Châu, đã từng đến đây. Chỗ Cao Biền phóng kiếm trấn yểm long mạch,
chính là Vũng Rô bây giờ. Hồi thời Pháp, có người lên đây dựng am tu thiền,
dùng khí công chữa bệnh, tiếng đồn khắp cả một vùng, đệ tử theo học có đến hàng
trăm người.
Chạy được một lúc,
chiếc xe bỏ đường lớn rẽ vào con dốc hẹp ngoằn ngoèo nằm rợp bóng cây rừng.
Sương ướt đẫm cả vạt cỏ mọc lòa xòa hai bên vệ đường. Muỗi bay vo ve trong lớp
lá mục. Tiếng chim hót cô đơn, khắc khoải trong lùm cây. Rừng núi vẫn còn hoang
sơ u tịch, chưa thấy bị tàn phá nhiều bởi bàn tay con người. Khoảng mười lăm
phút sau, cả hai tới bến cảng. Lão Thọt đỗ xe lại dưới một bóng râm, bên con đường
bụi bặm. Lão không ngớt phun nước bọt phì phèo xuống nền cát.
“Ngừng ở đây thôi.
Người ta không cho vào cảng đâu,” lão bảo.
Khu cảng khá vắng vẻ.
Bãi chứa xăng dầu tọa lạc trên một khoảnh đất cao ráo, bên trong là những chiếc
bồn hình trụ màu trắng, đứng phản chiếu ánh mặt trời gay gắt. Mấy dãy nhà ngói
đỏ nằm lạc lõng dọc theo bến tàu. Dăm chiếc xe tải đỗ ở bãi tráng nhựa. Vài ba
chiếc tàu thả neo trên bến. Cầu tàu đổ bê tông, dài chừng trăm mét, đứng dầm
chân trong làn nước xanh thẫm. Một tốp công nhân đội mũ bảo hộ lao động đang điều
khiển chiếc cần trục, bốc dỡ hàng từ trên tàu xuống.
Cảng Vũng Rô nằm dưới
chân dãy Đèo Cả. Phía bắc là núi Đá Bia đứng vươn mình sừng sững lên trời xanh,
chóp núi sáng chiều ẩn trong mây mù. Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn viết
“Ngọn Thạch Bi Sơn ở Phú Yên là chỗ tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành”.
Tương truyền, vua Lê Thánh Tông khi đánh thắng quân Chiêm, lúc qua đây đã cho
khắc dòng chữ vào tảng đá trên chóp núi, “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc
vong. An Nam quá thử, tướng chu binh chiết”. (Chiêm Thành qua đây, quân thua nước
mất. An Nam qua đây, tướng chết binh tan.) Chữ viết đã tàn phai theo thời gian,
không còn dấu vết. Năm 1890, người Pháp xây trên Mũi Điện, phía đông cảng, một
ngọn hải đăng. Tháp đèn là một khối hình trụ thon đều, màu xám, vẫn còn đến bây
giờ.
Lão Thọt ngồi bệt xuống tảng đá chỗ bóng cây, tay cứ xoa vào ống
chân, mặt nhăn lại rúm ró. Ông khách đứng nhìn bất động vào bãi đá nằm chen
chúc, xô lấn nhau dọc theo chân núi phía sau đến mấy người ôm. Giữa những tảng
đá là các khoang trống, hang hốc kỳ dị. Sóng vỗ rì rào từng lớp, bọt tung trắng
xóa.
Ông khách chợt thấy
người bần thần. Ngày ông ra đi, Vũng Rô vẫn còn là một khu bãi hoang, không giống
như bây giờ. Ông đã từng trốn trong một cái hang ở bãi đá kia suốt cả buổi chiều,
ngồi đợi tàu. Có những chuyện tưởng đã chôn vùi theo thời gian, bỗng chốc hiện
về.
***
Đứng lại... Giơ tay
lên!... Một giọng đàn ông trầm đục vang lên trong bóng đêm nhập nhoạng. Từng
bóng người lao ra khỏi chỗ nấp, phóng mình vào mặt biển đen thẫm. Ai nấy đều cố
bơi về phía chiếc tàu đang neo đón khách, nằm cách bờ khoảng vài trăm mét. A!
Cái chân... Cái chân của tao... Mẹ kiếp! Quân phản động. Đứng lại!... Đứng lại,
không tao bắn!... Ánh chớp bật lên cùng lúc với tiếng súng AK nổ chát chúa. Âm
thanh dội rền vang vào lòng núi. Không gian như xoắn lại, quằn quại. Những thân
hình quẫy bì bõm, hoảng loạn trong làn nước. Có tiếng kêu cứu vang lên thảng thốt,
rồi tắt ngấm trong khoảng không gian đen đặc. Mấy cánh tay bám chới với vào
thành tàu. Con tàu, sau một lúc chòng chành, bắt đầu rú ga lao mình vào mặt bể
mờ mịt.…
“Em mày không sao chớ?
Mặt trắng bệt ra thế kia, chắc bị say nắng rồi!”
Tiếng lão Thọt khàn
đặc, xen lẫn trong tiếng sóng biển rì rầm, nghe lúc xa lúc gần như vọng về từ một
không gian xa xôi nào. Khuôn mặt ông khách tái ngắt, cái nhìn trống rỗng, vô hồn.
Mặt biển lấp lánh như dát bạc. Bãi cát trắng xóa nằm trải dài, đong đưa trong
hơi nắng. Bầu trời trong xanh, không một vẩn mây. Ông khách đưa tay quệt những
giọt mồ hôi đang tuôn ra giàn giụa trên mặt.
Khi lão Thọt đưa người
khách trở lại, quán đang vắng khách. Một người đàn bà nhỏ nhắn mặc bộ quần áo
hoa màu mỡ gà sờn cũ, ngồi chải tóc trên chiếc ghế trước hiên. Tóc bà dày và
đen kịt, khuôn mặt đen đúa, tia nhìn ủ dột như chất chứa bao nỗi cam chịu của một
người quen sống đời thua thiệt, nghèo khổ. Lão Thọt dựng chiếc xe ’67 dưới tàng
cây, bên hông quán.
“Bà nhà tui.” Lão
nói.
Ông khách cúi mình
chào. Thân hình bà già chợt sững lại, ngạc nhiên trước cử chỉ lễ phép của người
khách. Giọng bà líu ríu nghe như chim hót.
“Mời cậu ngồi.”
“Cảm ơn thiếm!”
“Thằng Hai đâu hả,
bà?” Lão Thọt hỏi.
“Nó vừa lấy tiền, bỏ
đi rồi,” bà già nói.
“Thằng trời đánh! Nó
mà vác mặt về đây lần nữa là tui giết.” Giọng lão rền như chiếc trống bể làm nước
bọt văng cả vào mặt bà vợ, mắt long lên sòng sọc. Ông khách ngồi bối rối trên
ghế.
“Mời cậu em uống ly nước cho đỡ mệt. Chốc nữa thế nào cũng có xe người
quen ngừng lại đây, tiện thể cậu đón về thành phố.” Bà già nói.
Lão Thọt bỏ mặc ông
khách, bước về phía chiếc võng mắc dưới tàng cây sát bên hông quán, nằm đong
đưa nhìn trời.
“Buôn bán khá không,
thiếm?” Ông khách giả lả.
“Cũng sống qua ngày
thôi,” bà già chép miệng. “Ra giêng, người ta không cho buôn bán ở đây nữa. Mấy
ông chính quyền nói ảnh hưởng môi trường, bắt dọn đi.”
Bà đưa mắt nhìn ông
khách, xong lại ngó bâng quơ vào những chiếc xe chở đầy người chạy qua trước mặt,
tay không ngừng phe phẩy chiếc quạt giấy.
“Mấy bữa rày xe cộ cứ
nườm nượp.” Bà nói. “Dân làm ăn xa đổ về quê ăn Tết. Thời buổi khó khăn. Ruộng
đất không đủ làm. Người ta bỏ quê vào thành phố tìm việc hết. Chỉ có những dịp
lễ, Tết như thế này mới trở về thăm nhà. Bây giờ ai cũng đi tha phương kiếm sống.
Ở quê chỉ còn lại đám người già và lũ con nít thôi. Cậu là khách ở xa về, hả?”
“Dạ”
“Nhìn cách ăn mặc,
nói chuyện là biết. Mấy ông Việt kiều, cứ hễ một chút là nói cảm ơn.”
Bà già ngồi hóng
chuyện với ông khách, dễ dãi như đang tâm sự với người thân. Bà kể,
“ Vợ chồng thiếm có
nhà ở dưới phố. Lúc ổng nghỉ làm công an, mới lên đây mở quán. Thời kỳ đổi mới,
nhà nước cho kinh doanh làm ăn. Quán xá ở đây đua nhau mọc lên như nấm. Khách
chủ yếu là dân buôn chuyến đường dài. Lúc đầu làm ăn cũng khá, sau người ta mở
ra nhiều quá, buôn bán đâm ế ẩm. Hai vợ chồng hiếm muộn, chỉ sinh được mỗi mụn
con trai. Nó cũng tốt nghiệp đại học hơn năm nay, khổ nỗi, gửi đơn khắp nơi
nhưng chẳng chỗ nào nhận làm. Bây giờ đi xin việc, nếu không thân thế, phải có
tiền đút lót. Thất chí, nó sinh tật nhậu nhẹt, rồi đổ đốn ra…”
Bà già thở dài. Giọng
nói bỗng ngập ngừng.
“Chỉ có mấy ông Việt
Kiều như cậu đây là nhất. Áo gấm về làng. Đô La đầy túi. Tha hồ vui thú với rượu
ngon gái đẹp. Thời thế đổi thay. Bây giờ ai cũng gọi kiều bào về thăm quê là
yêu nước. Chả bù với ngày xưa, trốn chui trốn nhủi. Biết thế này, trước đây người
ta kéo nhau đi hết… ”
“Bà nói tới đâu rồi?”
Lão Thọt nằm trên võng, chép miệng uể oải.
“Tui nói sai à? Phải
chi hồi đó ông không làm công an, mình theo người ta đi vượt biên quách, giờ có
phải sướng không... ”
“Bà tưởng đi dễ lắm.
Biển bao nhiêu là sóng gió. Rồi cướp bóc, hãm hiếp. Biết bao người vùi thây làm
mồi cho cá.”
“Sao họ dzìa nhiều
quá trời kìa! Ông xem lại thân ông đi. Sau ngày gãy chân, có ai ngó ngàng tới
không? Chỉ tổ thiệt thân…”
Lão Thọt trở mình bực
bội trên võng, đầu nghiêng về một phía, mắt nhắm hờ. Cặp kính trắng trễ hẳn xuống
sống mũi. Một lát sau, lão cất tiếng ngáy. Nước bọt tuôn ra đọng trắng cả một
bên mép. Khuôn mặt lão khi ngủ, trông hiền lành đến bình thản.
Ông khách ngồi như
đóng đinh xuống ghế. Bà già cũng thôi không nói nữa. Bà ngồi, đưa mắt ngó hoang
hoải vào vạt nắng trước cửa. Trời đang là buổi trưa. Hơi nóng hắt xuống tấm vải
bạt, hầm hập.
Chiếc tivi nhỏ đặt
trên cái tủ gỗ ọp ẹp kê sát vách đang chiếu cảnh Hội phụ nữ thành phố tổ chức
đón kiều bào về quê ăn Tết ở phi trường. Người ta tặng hoa, ôm hôn nhau với ít
nhiều nước mắt. Cảnh diễn giống như đang trích đoạn trong một vở bi hài kịch
nhiều chương hồi. Đằng sau những nụ cười gượng ép, mấy cái bắt tay thân tình giả
tạo, đôi lời chúc tụng hào nhoáng, không ai hiểu được bên trong chất chứa bao
nhiêu nỗi xót xa, cay đắng bằng lão Thọt. Có điều, vai diễn của ông khách mới bắt
đầu, trong khi phần tuồng của lão đã hết từ lâu.
Dường như không ngăn
được nỗi cảm khái đang dâng lên trong lòng, ông khách chợt thở dài. Ngồi một
lúc, ông bỗng móc ví lấy ra một xấp tiền, đặt vào tay bà già.
“Hôm nào rảnh, thiếm
bảo chú đi bác sĩ khám cái chân.”
Nói xong, ông mang
túi xách lên vai, bước đi như chạy về phía chiếc xe buýt vừa dừng lại trước mặt
quán. Loáng mắt, chiếc xe cùng ông khách mất hút sau một khúc quanh giữa đoạn
đường đèo.
Mặt trời ngã dần về
tây. Nắng chiều trải vàng vọt lên táng lá rừng. Bóng núi đổ dài, in hình xuống
đáy biển sâu. Phía xa kia, cảng Vũng Rô nằm ngửa mặt giữa ráng chiều, như ôm cả
tháng năm thăng trầm vào lòng. Chỉ còn lại tiếng sóng lao xao, cứ từng lớp nối
đuôi nhau vỗ mệt mỏi vào bờ cát.
NGUYỄN VĂN
No comments:
Post a Comment