Những Người Đàn Bà Sau Cuộc
Chiến
-Nguyễn Thị Thêm
Hôm nay 29/4/2023 tôi ngồi một mình trong phòng, trước mặt
là màn hình computer. Ngày mai là ngày mà ai là người VN lưu vong đều phải nhớ.
Trong tôi ngập tràn nỗi nhớ chồng. Thật tếu và mắc cỡ khi mình lại nói ra điều
đó khi tuổi không còn trẻ. Hình bóng người lính đã bị bào mòn và không thể xuất
hiện 48 năm rồi. Anh chàng Đại Úy phong sương ngày xưa của tôi đã chết. Chết cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái áo lính của chồng tôi mặc mỗi khi đi chăn trâu,
cắt cỏ, cấy lúa trồng khoai ngoài đồng cũng đã rách nát không còn. Người lính
đã tan hàng đã bị xóa sổ một cách bi đát, còn những người vợ lính thì sao? Nếu
trẻ nhất họ cũng đã trên 65 tuổi, thời gian quá dài để thương đau đọng lại làm
những tì vết không thể xóa mờ. Nước mắt không còn bao nhiêu để khóc cho cuộc
đời còn lại.
Tôi lại nhớ đến những người phụ nữ của phe thắng cuộc .
Chứng nhân có thật là những người trong gia đình chồng tôi. Họ được gì và mất
gì sau khi tàn cuộc chiến.
......
Tôi đi theo mẹ chồng đến đốt hương bên ngoại. Ông bà ngoại
của chồng tôi có 5 cô con gái và một người con trai út. Mẹ chồng tôi là đứa con
gái thứ hai trong gia đình. Cả 5 người con gái bây giờ đều đã già, con cháu
thật đông, cuộc sống không giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đủ ăn đủ mặc.
Người con trai út của ông bà ngoại chồng tôi đi theo Cách Mạng chống Tây hiện
là bộ đội phục viên mang quân hàm thượng úy.
Chồng tôi Đại Úy ngụy, cậu chồng thượng úy cách mạng. Hai
chức ngang nhau ở hai chiến tuyến đối nghịch. Thật sự tôi chưa từng gặp mặt ông
thượng úy này chỉ nghe mẹ chồng mừng vui báo tin ông còn sống và vội vã thu xếp
về quê theo lời nhắn gửi của ông.
- Mụ yên tâm về làng, mọi việc có bầy choa lo. Không răng
mô.
Tôi về quê chồng, chưa quen khí hậu nơi này, chưa biết tắm
sông, chưa quen giặt đồ ở bến, chưa biết nấu cơm bằng rơm, chưa quen ăn nước
ruốc, hai vai còn sưng to vì tập gánh nước từ dưới sông về nhà. Chỉ mới mấy
ngày để tập tành mọi thứ, mẹ chồng tôi đã dẫn tôi đến lạy bàn thờ bên ngoại.
Nhà bên ngoại cách nhà bên nội chỉ qua một con đường, ngăn cách bởi cái ao hồ.
Cho nên muốn qua ngoại phải đi con đường vòng, qua mấy nương vườn nhà người
khác, cái chợ, cây đa, đình làng, ra đường lộ đi một lúc mới tới nhà. Nếu đứng
ở bên nhà ngoại kêu to, ới một tiếng lớn là nhà bên nội có thể nghe.
Khi cha chồng tôi xin hỏi cưới mẹ chồng. Lễ hỏi đã xong mà
cha chồng tôi phải đến nhà vợ làm rể ba năm mới được cho cưới. Làm rể ngày xưa
không dễ, phải làm như việc nhà mình, tận tụy và siêng năng mới cưới được vợ.
Cha chồng tôi là con con trai đích tôn, là con cầu con khẩn của dòng họ hiếm
hoi con cái. Được cái cha chồng tôi rất hiền, bên đàng gái muốn gì ông cũng
chiều để cưới được vợ. Mẹ chồng tôi giỏi giang, buôn bán tháo vát lo cho gia
đình nên bên ngoại không muốn gả liền để còn nhờ cậy. Thật không may, cưới được
mấy năm cha chồng tôi mất sớm. Dù tuổi đời còn trẻ, mẹ chồng vẫn ở vậy lo cho
ba đứa con và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng.
Nghe kể lại, mùa xuân năm nào đó ghe tàu của Tây chạy tuần
tra dưới con sông Ô Lâu trước nhà bên nội, du kích quân núp ở nhà dân xả súng
bắn tàu. Lính Tây nổi giận đổ bộ lên bờ đốt sạch nhà cửa, ruồng bố du kích. Lửa
cháy khắp làng. Mẹ chồng tôi chỉ kịp lôi ba đứa con chạy núp dưới ao hồ, tính
chạy lên dẫn cha mẹ chồng chạy trốn nhưng ngọn lửa đã bùng lên dữ đội, lính Tây
cầm súng ruồng bố la hét om trời. Mẹ chồng tôi ôm con không dám khóc, bụm miệng
các con không cho la. Căn nhà của gia đình và những nhà lân cận cháy phừng
phừng trước mặt. Tây rút đi, xác ông bà nội chồng tôi cháy co rút tội tình. Năm
đó mùi thây người khét lẹt bao trùm không gian, ngày đại tang của cả làng. Nhà
nào cũng có mất mát cũng có người chết thật thê lương. Đó là ngày 12 tháng Giêng
năm nào tôi không biết. Chỉ biết đó là ngày kỵ giỗ ông bà nội chồng.
Tôi đến đây để ra mắt tổ tiên bên chồng nên tôi đảo mắt tìm
bàn thờ. Nơi thờ phụng tổ tiên nhà miền Trung không giống miền Nam. Miền Nam
ngay gian giữa nhà trang trọng đặt bàn thờ, bước vào nhà là thấy ngay như muốn
nhắc nhở khách tới nhà phải biết lịch sự, phải tôn trọng tổ tiên gia chủ. Bàn
thờ là một bộ tủ thờ rất đẹp chạm khắc tinh xảo (hoa văn và chất lượng gỗ tùy
theo kinh tế của gia chủ). Tủ thờ cao khỏi đầu người, trên bàn thờ bộ lư đồng
để giữa, bát nhang để phía sau, hai chân đèn bằng đồng để hai bên. Dĩa đựng
trái cây khá to được đặt trên một cái giá ba chân thật đẹp. Hai bên là hai bình
bông để cúng. Tủ thờ phía trước chạm trổ, cửa mở ở hai bên hông dùng để chứa
những vật trang trọng quý giá. Ngày lễ hay Tết bàn thờ rực rỡ hoa trái, hương
đèn.
Nhà người miền Trung khác hẳn, vị trí bàn thờ cũng ở giữa
nhà nhưng được được che bằng một tấm màn ngăn cách. Phía trước đặt một bộ bàn
ghế dài dùng để tiếp khách. Chỉ trong những ngày kỵ giỗ tấm màn mới được kéo ra
để gia đình làm lễ. Bàn thờ hơi thấp được đặt phía trong với nhiều bát hương
đặt cao thấp khác nhau theo thứ tự vai vế gia phả trong gia đình. Bàn thờ miền
Nam chỉ có một bát hương để cắm nhang, bàn thờ miền Trung có rất nhiều bát
hương nên trông có vẻ âm u và hơi... dễ sợ.
Tôi vén màn đi vào và đốt hương. Không biết bát hương nào
là của ông bà ngoại. Thôi thì cắm hết và... thật vô duyên không biết phải khấn
gì với ai, tên họ gì. Tôi hồi hộp và lúng túng chỉ biết niệm lâm râm Nam Mô A
Di Đà Phật.
Mẹ chồng tôi giới thiệu tôi chào Mợ Tuấn. Mợ thấp người,
khắc khổ và nhìn rất lam lũ. Hai người đàn bà có chồng ở hai phía Quốc - Cộng
chào nhau. Mợ Tuấn là một người phụ nữ xứng đáng được mẹ chồng tôi trân trọng.
Mặc dù cậu là con trai độc nhất trong gia đình được cha mẹ và các chị thương
yêu bảo bọc, nhưng cậu bỏ tất cả gia nhập hàng ngũ kháng chiến chống Pháp lúc
mợ vừa cấn bầu đứa con trai đầu lòng. Mợ ở nhà làm ruộng, phụng dưỡng cha mẹ
chồng cho đến ngày ông bà ngoại chồng tôi mất. Con trai mợ hiện giờ đã cưới vợ
sắp sửa sinh con thì được tin chồng vẫn còn sống và chuẩn bị trở về đoàn tụ. Mợ
vui vẻ tươi cười với những tin vui chiến thắng. Ngồi nghe mợ nói chuyện, niềm
vui chờ sum họp với chồng, tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận của mình. Đây cũng
là gia đình nhưng người phụ nữ trước mặt chờ tin vui. Tôi và chồng là những
người đối lập sẽ nhận những bất trắc, trả thù vì mình là Ngụy.
Gia đình thứ hai tôi đến để đốt hương và ra mắt là nhà của
chú Minh, chú họ của chồng tôi. Ông cố chồng sinh được hai người con trai. Ba
chồng tôi là con nối dõi của người anh, chú Minh là con nối dõi người em. Nghe
thì xa nhưng với gia phả trong họ tộc thì rất gần. Vì cha chồng tôi và hiện giờ
chồng tôi đang là trưởng tộc. Người chú họ này cũng bỏ nhà đi kháng chiến,
người vợ mới cưới phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ chồng và cũng sinh được một con
trai độc nhất. Điều khác giữa mợ Tuấn và thím Minh là mẹ chú Minh vẫn còn sống
nhưng hai mắt đã mờ. Con dâu của thím Minh vừa sinh đôi hai đứa cháu trai cực
kỳ kháu khỉnh dễ thương. Bà cố đang đong đưa hai cái nôi mà người ở đây gọi là
dứng. Đó là cái nôi trẻ con nhưng có bốn sợi dây được móc lên cao, muốn ru người
ta nắm bốn sợi dây và lắc. Nghe tiếng má chồng tôi, mụ nghiêng người lắng nghe:
- Mụ Thi về khi mô rứa? Có vợ thằng Trai về khôn?
Tôi lên tiếng chào và bước tới nắm tay mụ. Bàn tay nhăn
nheo của những người già lao động quanh năm. Mụ chỉ bàn thờ cho mẹ con tôi vào
thắp hương và báo tin chú Minh đã liên lạc nhưng chưa về đến nhà. Tôi ngồi nhìn
hai thằng bé, cưng quá là cưng với gương mặt bụ bẫm. Mẹ chồng tôi còn mê chúng
hơn vì tôi chỉ sinh được con gái, còn đây là hai đứa cháu trai.
Quan niệm "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô"
đúng vô cùng ở những gia đình này. Con trai cưới vợ đẻ con, con dâu mặc dù
không có chồng bên cạnh vẫn chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi con duy trì huyết mạch
nối dõi tông đường.
Những người như mợ Tuấn, thím Minh hay mẹ chồng tôi là
những người đàn bà điển hình trong xã hội VN. Khi đã lấy chồng họ sống và hy
sinh cả đời cho gia đình nhà chồng. Đối với họ chăm sóc mồ mả gia nương nhà
chồng, đẻ con trai và duy trì nòi giống là nhiệm vụ mà họ phải tuyệt đối làm
tròn.
Vì gia đình bên chồng tôi chuyên về nghề mộc, nên dựng lại
căn nhà với đầy đủ vật liệu là chuyện dễ dàng. Chỉ một tuần lễ trên nền nhà bỏ
hoang ngôi nhà tôi đã được thành hình. Dựng lại căn nhà xong, chưa kịp xếp đặt
mọi thứ, chồng tôi được lệnh khăn gói đi học tập cải tạo. Từ đó không có tin
tức, không thấy trở về để biết mặt và chào hỏi hai người thân cách mạng đã kêu
gọi anh về đây: "Không răng mô, về làng có bầy choa lo".
Chú Minh về làng trước, chú ra dáng là một bộ đội Bác Hồ.
Chú không nói về cấp bậc trong quân đội nhưng để trả lời cho câu hỏi vì sao mấy
chục năm chú không liên lạc với gia đình thì thím Minh được nghe sự thật đau
lòng: "Chú đã lập gia đình với một nữ đồng chí bộ đội và lễ tuyên bố được
đảng đứng ra tổ chức"
Chú Minh về thăm mẹ, thăm gia đình rồi vội vã về lại Bắc.
Chú không thể can thiệp hay giúp đỡ gì thằng cháu sĩ quan Ngụy đang không biết
được giam giữ ở đâu. Hành trang chú mang về Bắc là một số vật dụng của gia đình
tôi khi chú ỉ ôi với mẹ chồng tôi: "Mụ về đây không có điện thì để lại làm
gì, mụ cho lại các cháu của Mụ ngoài ấy."
Từ lúc chú Minh về rồi đi, thím Minh như một người khác,
thím gầy rạc đi trông thấy. Sự uất ức oán hận khiến người phụ nữ hiền lành,
chịu thương chịu khó thay đổi. Chỉ cần ai đến nhà, hỏi thăm chú Minh thì cơn
giận trong thím trỗi dậy, sự ghen tức khiến thím nói những điều không tốt về
người chồng thím từng tôn trọng. Người mẹ chồng tội nghiệp của Thím không thể
làm gì hơn chỉ biết khóc và chịu đựng những cơn giận dữ của con dâu. Gia đình
ngày trước sống bình yên hạnh phúc bao nhiêu bây giờ chìm đắm trong bầu không
khí oán hờn thiếu đi sức sống.
....
Rồi cậu Tuấn cũng về làng. Người con trai sinh ra cậu chưa
một lần gặp mặt giống cậu như khuôn đúc. Hai cha con ôm nhau mừng rỡ. Mợ Tuấn
được chồng chìu chuộng hết lòng. Mợ sống những ngày hạnh phúc nhất sau mấy chục
năm vò võ nhớ mong. Mợ trẻ ra, tươi tắn và chăm chút bản thân hơn. Tôi đã thấy
nụ cười và ánh mắt rạng ngời của mợ mà thật thương cho thân phận đàn bà. Mẹ
chồng tôi và các người chị của cậu Tuấn dành cho cậu những đón tiếp yêu thương
và long trọng nhất. Người em trai quý tử của gia đình đã trở về, chức lớn trong
chế độ mới làm họ thấy mình hạnh phúc hẳn ra. Rồi thì những ngày về thăm quê
cũng hết, như bong bóng lên cao sẽ vỡ, cậu Tuấn trước khi về lại miền Bắc, thú
nhận với các chị mình đã có một gia đình ấm êm với ba đứa con đã trưởng thành cả
trai lẫn gái. Cậu chỉ về đây để thăm còn gia đình chính thức đang ở ngoài kia.
Ôi những người đàn ông bội bạc đã làm tan nát trái tim của
những người vợ thủy chung son sắt. Mợ Tuấn ngất xỉu khi nghe sự thật. Mợ không
hung hăng hờn giận như thím Minh, mợ chỉ khóc và lặng lẽ sống trong câm nín tủi
thân. Mẹ chồng tôi và các dì, dượng không biết phải nói gì. Sự thật bây giờ
cũng không thể làm gì khác. Những đứa cháu dù sao cũng ruột thịt, mấy chục năm
xa nhà cậu cũng phải có người chăm sóc. Và thế các mụ đồng ý chấp nhận gia đình
bên kia, cậu về tay không nhưng khi cậu đi ê hề là quà cáp các mụ gửi về cho em
dâu, cho cháu. Cậu Tuấn thành công đại thành công.
Khi mẹ chồng tôi nhắc đến đứa con trai tội nghiệp không
biết bây giờ ra thế nào. Cậu Tuấn khuyên mẹ chồng tôi nên chờ đợi. Những người
có tội với nhân dân phải nhận hình phạt. Nếu học tập tốt, thông suốt đường lối
cách mang sẽ được khoan hồng về sớm.
Từ ngày cậu Tuấn ra Bắc lại, mợ Tuấn và các chị bên chồng
không còn khắng khít như xưa. Đối với mợ, các chị chồng chấp nhận bên kia là
không công bằng với mợ. Những gì mợ đã cống hiến cho gia đình coi như không còn
giá trị. Gần như cả cuộc đời của mợ đã chờ đợi hoang uổng. Bây giờ mợ đã thật
sự mất chồng, chỉ toàn tâm toàn ý lo cho con trai và các cháu.
Hòa bình đã trở về trên mảnh đất chịu nhiều thương tổn của
chiến tranh. Người lính của hai bên đã rời xa chiến trường. Người vợ của phe
thắng cuộc cũng như bên thua được gì và mất gì? Như Mợ Tuấn hay thím Minh đoàn
tụ với chồng trong u uất, oán hờn. Như tôi chia ly chồng trong nước mắt. Bao
nhiêu bi ai đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của người phụ nữ VN.
Chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt nhưng những dư chấn cho
cuộc chiến ý thức hệ mãi mãi vẫn còn. Tôi đã sống trọn vẹn những ngày tháng vất
vả gian lao chờ chồng trong chế độ mới. Những nhân vật chính tôi kể trên đây
đều là thật và đã thành những người muôn năm cũ. Không ai đúng hoặc sai hoàn
toàn. Mỗi người đều bị ràng buộc bởi vòng xoay của chiến tranh ý thức hệ và vô
thường trong cuộc sống.
Đàn bà chúng tôi luôn luôn là nạn nhân trong cuộc chiến.
Người đàn ông không thế nào hiểu được sự kiên trì chịu đựng của phụ nữ khi hy
sinh cho người mình yêu thương. Trái tim phụ nữ cũng bằng thịt nhưng sự dũng
cảm nhiều khi sắt đá cũng phải chịu thua.
Nguyễn Thị Thêm
29/4/2023
No comments:
Post a Comment