NGÔ ĐÌNH LỆ THỦY, HỒNG NHAN MỆNH
BẠC
Kim Thanh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương (Đoạn Trường Tân
Thanh)
Mais où sont les neiges d’antan? (Villon)
(Đâu rồi những cánh tuyết năm xưa?)
1. Niên
khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Pháp văn tại
trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, đường Lê Thánh Tôn. Còn nhớ cùng lớp, lúc ấy,
có nhạc sĩ Hùng Lân (Hoàng Văn Hương), người dễ mến, hiền lành, như một thầy
tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy
giảng bài. Có bà sơ Marie-Jeanne Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi
lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Thánh Tâm
Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay, và cho vào dạy mà không cần thủ tục điều tra
lý lịch, khi tôi lò dò đến trường hỏi xin job. Có Đặng Tiến, nói tiếng Pháp lai
giọng Quảng, da vàng xanh như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không
chải, ra trường, không hiểu tại sao lại được phục vụ ngành ngoại giao, tức
phòng Thông tin Quốc ngoại tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, và trước 1975, đào
nhiệm qua Pháp sống cho đến bây giờ. Anh chàng Tiến này rất giỏi Việt văn, là
phê bình gia văn chương có hạng, và theo đuôi Thông Luận về VN nhiều lần,
chuyên viết bài nịnh hót Việt Cộng trắng trợn. Có Đại úy Ngô Văn Minh, đeo kính
trắng, thỉnh thoảng mời tôi ra quán cơm Tây, ăn bíp-tếch, uống rượu vang, sau
lên chức Đại tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có một ông bác sĩ quân
y lớn tuổi, người Bắc, ít nói, mà tôi quên mất tên. Có Joséphine Lương Thị Nga,
bên Khánh Hội, môi cười rất tươi, duyên dáng, lần nào thèm ăn phở, cũng rủ tôi
đi cùng, rồi giành trả tiền, và tự động phân trần, tỉnh bơ, mặc dù tôi không
thắc mắc chi hết: “Moa rủ toa đi cho người ta thấy moa có copain (bồ), chứ con
gái ngồi ăn một mình, ngượng lắm”. Có Monique Wang Seng, cô bạn Tàu, luôn mặc
jupe serrée, người thon gọn, rất xinh. Có Bùi Thế Cần, Lê Thị Tuyết, Thái Thị
Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, và Lê Ngọc Loan v.v... –sàn sàn tuổi nhau.
Đặc biệt, Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên, đẹp như đầm lai, là đồng hương
Nha Trang của tôi và đồng môn, cũng như hai cô đầm chính cống Josette Hermel và
Elisabeth Pineau (con gái của ông hiệu trưởng Jean-Jacques Rousseau), trong lớp
Latin của thầy Jean Le Menn.
Đầu niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi nhất
lớp, con của cụ dân biểu Bùi Tuân, Huế) thường xuống lầu một, vào giảng đường
Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay, đúng hơn, để tuyển mộ
tân binh cho JÉCU (Jeunes Étudiants Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công
Đại Học), mà tuyên úy là cha Bernard Pineau, dòng Đa Minh chi Lyon. Lúc ấy, Cần
là trưởng JÉCU Liên Trường, Bộ Chỉ Huy đặt tại Cư Xá Phục Hưng (đường Nguyễn
Thông), Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), tổng thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm (Équipe)
Văn Khoa Pháp.
Đôi lần, tôi thấy đứng trước hành lang giảng đường Dự Bị
một sĩ quan đeo ba hoa mai bạc, đầu đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng
cao gầy, vẻ thân thiện. Lần nào gặp ông, tôi cũng khẽ gật đầu chào, và ông mỉm
cười, lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm
sau, ông lấy bằng Cử Nhân Giáo Khoa Pháp, lên tướng, và trở thành xếp quá lớn
của tôi, khi tôi bị động viên vào khóa 20 Thủ Đức, hè 1964. Có kẻ xấu mồm nói,
ông nhờ tà-loạc đi học, và đi thi, thay cho ông. Tôi không tin, cho đó là tin
vịt cồ. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, ai cũng phải vào lớp ghi
chép hoặc mượn bạn, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, số sinh viên
không nhiều, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau, rất khó gian lận. Vào
trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe lại cha
Pineau (thay cha Cras nghỉ hưu) giảng về Socrate và Hégel hay thầy Nguyễn Văn
Kiết dịch bài tiếng Pháp ra tiếng Việt, mà phát mệt.
Một hôm, hai đứa thấy Yvonne Lan Hương, cô bạn mới trong
JÉCU, học dưới hai năm, đang ngồi trò chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne
giới thiệu, đây “Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy”. Lần đầu gặp Thủy, chúng tôi không nói
gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JÉCU Văn
khoa Pháp, tôi và Cần tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng cũng chỉ để thông báo
ngày giờ và chương trình họp của Nhóm. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị,
thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt linh hoạt, mặt trái soan, cằm hơi nhọn,
tóc dày, cài bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên
bây giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một điều
mà sau hơn nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy cũng hơi “dị”, mặc dù do thói
quen, giống như các em Việt Nam sinh trưởng ở Mỹ, nói chuyện bằng Anh ngữ với
nhau, kể cả hai đứa con tôi hiện nay, chứ chẳng vì lý do nào khác.
Lệ Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi
cả đồng phục Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy, hớp
hồn người ta như Irène Phụng Tiên, không tươi lộng lẫy như Joséphine Nga. Một
vẻ đẹp trang nhã, đài các, kín đáo. Tôi để ý, Lệ Thủy ở đâu là luôn luôn có
một, hai anh chàng gorilles (khỉ đột, hộ vệ), giả dạng sinh viên, ngồi phía
dưới, cách cô hai dãy bàn, mắt cú vọ nhìn chòng chọc vào mọi người.
JÉCU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin),
dày độ 30-40 trang, bằng tiếng Pháp, do Bùi Thế Cần, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn
Nương Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh
thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm, vớ vẩn của tôi, không đối tượng,
chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ, sau hơn 50 năm, tôi còn nhớ lõm
bõm vài câu:
Je veux tremper mes lèvres
Dans l'eau pure de ton coeur
Et émerger frissonnant
D'une aube de lumière...
(Tôi muốn nhúng đôi môi
Vào nước tinh tuyền của tim em
Và bừng lên run rẩy
Dưới ánh sáng bình minh…).
Hay vài câu dịch thơ của thi sĩ Anh John Keats, hoặc
Tennyson, tôi không nhớ nữa, đại khái:
Ce n' est pas toi que je regrette
C' est le rêve par toi brisé
(Không phải em mà tôi tiếc nuối
Mà giấc mơ vì em vỡ tan)
Lệ Thủy đọc báo xong, và, dĩ nhiên, mấy bài thơ ngắn của
tôi, mày hơi nhíu, bảo nhỏ tôi, nghiêm nghị như một cô giáo la rầy học trò: “Je
n' savais pas que tu avais été si romantique. Les poèmes d’ amour, ça c’est
vraiment beau, mais ils désespèrent aussi” (tôi không biết anh đã lãng mạn dữ
thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Như một
phản xạ tự nhiên, tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt quả tang:
“Un peu, oui... mais je n' les ai faits que pour m'amuser... Rien de sérieux!”
(Chút chút, đúng... nhưng tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà... Đâu có gì quan
trọng!).
Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, và sinh
hoạt với Nhóm, ngoại trừ một lần duy nhất, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn
Hội JÉCU do cha Pineau cử hành, tại nhà nguyện nhỏ của CLB, rồi có xe đưa về
ngay. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique, trong giờ nghỉ giữa
hai lớp, năm sáu đứa ngồi ở một bàn cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy,
thảo luận, hay trao đổi vài tin tức cần thiết. Hai anh chàng gorilles, chắc đã
được báo trước, đứng xa xa, dựa tường hút thuốc, để chúng tôi yên.
2. Một
ngày thứ bảy, JÉCU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ
Quán, sau đợt công tác thăm viếng dân lao động nghèo tại Xóm Chùa cách đó mấy
tháng. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền không
nhỏ, không lớn, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn của sinh
viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng, trước mặt Cần và
Yvonne, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ
Cộng Hòa, không đi với các toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào
tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Lệ Thủy tham gia, hai gorilles phải đi theo,
phiền lắm!”
Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau
lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe
hơi riêng, như hai chị em Anh Thư và Hạp Thư, học Dược (chuyên lái xe bằng chân
trần), hay “đại ca” Dược sĩ, đã ra trường, Hoàng Ngọc Tuệ, lái chiếc Peugeot
203 màu xanh lợt (đang cộng tác với báo Người Việt). Tổ y tế gồm các sinh viên
Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà, sinh viên Y khoa năm
cuối, hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống (ẩm thực?) do
Rosa, sau thành vợ của Nguyễn Ánh Tuyết, và người chị là Rosette, điều động. Tổ
văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do các cô bên Dược phụ
trách, trong số tôi nhớ có Yvette Trương Tấn Trung (mà khi được biệt phái cho
phái đoàn Liên Lạc Quân Sự ở Phnom Penh năm 1971, tôi bất ngờ gặp lại tại phi
trường Pochengton, nơi vợ chồng Yvette có một tiệm pharmacie), Tôn Nữ Tâm
Thường (có dược phòng tại Nam California và tôi có một lần nói chuyện qua điện
thoại), và Nguyễn Cẩm Nhung (con của Luật sư Nguyễn Văn Huyền, sau này nghe nói
đi tu thành Mẹ Bề Trên của một nhà dòng Carmélite).
Đi trong lần này, có một nhóm Sư Phạm, gồm Trần Ngọc Báu
(hiện ở Thụy Sĩ), Nguyễn Thanh Quan (sau này là giáo sư Pháp văn Đại Học Sài
Gòn), Nguyễn Minh Tâm (giám học trường Sư Phạm Qui Nhơn), và Trương Ân (Hiệu
trưởng trường Cường Để, Qui Nhơn). Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Ánh Tuyết phụ
tá hành quân.
Đầu tiên chúng tôi vô thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông.
Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú
lên những tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số
rất hiền, đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào,
hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Theo thói quen
nghề nghiệp, Đinh Hà dọn sẵn mấy chai alcool, để mọi người tùy nghi sử dụng.
Bệnh nhân rất đông, chia thành khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp. Tôi
không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một
trại cùi do các tu sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi
còn nhỏ, chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những
vòng rào kẽm gai. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những thân hình gầy
còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất ngón, những cặp mắt mờ
đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm thương vô hạn, cũng như, năm 1983,
sau khi đi tù cải tạo từ miền Bắc trở về, tôi bị phường khóm chỉ định làm vệ
sinh (quét sân) mỗi ngày tại trại Cùi Núi Sạn (gần đèo Rù Rì). Tổ y tế bắt đầu
khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng
trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng
hát theo nhịp đàn guitare của Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau.
Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo
sống chung với cha mẹ.
3. Tháng
sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một
khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm –bắt buộc cho sinh viên Văn khoa
Pháp và Anh– vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương Hồng Sển tôi không nhớ
Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ
ông nọ cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hại hơn, tôi
không biết “chiết tự” bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu
chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn
những nàng tiên nga trong đám xuân xanh ấy, đã kể tên ở trên, chưa có ai theo
chồng bỏ cuộc chơi, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt lên đường du
học Pháp một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế. Tôi về quê Nha
Trang, dạy tại Collège Français.
Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô
trao cho Nhóm JÉCU chúng tôi một trăm đồng của mẹ. Tôi biết cô cũng đã đậu
Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước cửa trường, với tên chính thức, đầy
đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945 tại Huế. Chiến sự mỗi ngày
leo thang. Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường
hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui và lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi
thậm tệ chế độ. Làm tôi thấy lo lắng vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ
Ngô Đình Diệm trở thành sâu nặng, không như một vài bạn JÉCU lớn tuổi hơn,
chẳng hạn Nguyễn Hữu An, sinh viên Kiến Trúc. Bấy giờ, tôi lờ mờ hiểu rằng thế
nào bàn tay lông lá của Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Sau này, trong
thời đại internet, nhờ những tài liệu đã được giải mật, sự thật phơi bày trọn
vẹn, và ai cũng biết chính quyền Kennedy đã cố tình giết cụ Diệm để không bị cụ
ngăn cản trong việc đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại Việt Nam. Nhưng khi
ấy tôi tin tưởng và cầu mong cụ sẽ vượt qua như lần đảo chánh hụt 1960. Nhiều
biến cố xảy ra, dồn dập, sau đó. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng tọa
Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu tình bị cảnh sát
bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai
anh em cụ Diệm bị giết, cha tôi ứa lệ, nghẹn ngào và trong giờ kinh tối bắt cả
nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi thấy lòng buồn vô hạn, suốt mấy
bữa, mặc dù chưa hề nhận lãnh một ơn mưa móc nào từ chế độ.
Lúc ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công
du giải độc. Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA,
nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (như của anh
chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn), hùa theo các ký giả Mỹ, mở chiến dịch
bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu
có một chiếc ghế khích dục, trong dinh Độc Lập, nhưng sự thực đó chỉ là chiếc
ghế làm răng, hay làm tóc bình thường. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà Nhu tư
tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy có nhiều bồ,
kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không
đến lớp mà cũng có bằng, v.v… Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân
chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê
miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào đám sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách
thật tình, la hét và nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt
con nít, hiếp dâm phụ nữ.” Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ
Thủy. Kỷ niệm với JÉCU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian.
4. Cho
đến đầu năm 1967. Từ Ban Mê Thuột, tôi được lệnh dẫn một toán Tâm Lý Chiến-Dân
Sự Vụ xuống tăng phái cho Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 44 (của nhà văn Phạm Tín An
Ninh, đồng hương Nha Trang lẫy lừng), Sư đoàn 23 BB, trong chiến dịch Bình Định
Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm nhất, thuộc tỉnh
Phan Thiết. Ngày theo Tiểu đoàn đi hành quân tìm diệt địch, qua các thôn xóm,
đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây, nằm nghe tiếng đại bác ầm ì
xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên núi Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính
tráng nay đây mai đó, trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang đứng
nói chuyện với ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng, Vũ Công Khanh (nghe nói đã lên đại
tá, hiện ở Na Uy), một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ kẽ
tóc, xuyên qua cổ anh binh nhất mang máy truyền tin PRC 25 đứng cạnh bên, làm
anh ngã xuống, chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính Tiểu đoàn
rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây. Một người lính giận dữ
chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới
thôi. Cảnh tượng quá thảm cho bên này, bên kia.
Nói tiếp về Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối
tháng 4, 1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách
Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, bằng xe lam, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu
bia với gà luộc, ở một chợ lộ thiên. Tại quán bánh căng “còn ướt sền sệt”,
chúng tôi gọi mỗi đứa hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho
bõ những tháng ngày gian khổ trong rừng với cơm sấy, đồ hộp, nước bi đông, ngán
đến tận óc. Sẵn tiện, tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc thấy tin Lệ
Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi, đêm 12/4/1967, tại Pháp, chính xác tại
Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa tròn 22
tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc
thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April 21,
1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.
Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chỉ là
bạn học, cùng Nhóm JÉCU, chưa bao giờ thắm thiết đủ để cho những giọt lệ trào
dâng chan chứa, làm đẫm vạt áo xanh như của người Giang Châu Tư Mã cảm thương
nàng kỹ nữ Tầm Dương thuở trước, tin ấy cũng làm tôi thấy bàng hoàng, xao
xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã từ lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ
niệm thời sinh viên, JÉCU, những buổi họp dã chiến tại giảng đường Dự Bị Văn
Khoa, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng
“maman cho”...
Đêm về, qua cửa sổ một khách sạn Phan Thiết, tôi nhìn bầu
trời xanh thẳm không gợn chút mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên ngọn
Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu:
Y! Vân tán, tuyết tiêu
Hoa tàn nguyệt khuyết
(Ôi! Mây tản, tuyết tan
Hoa tàn, trăng khuyết).
5. Hai
tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Sư đoàn 22, Bình Định. Đáp chuyến bay
Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một
tuần, trước khi ra căn cứ Bà Gi (Qui Nhơn) trình diện đơn vị mới. Hành trang là
túi ba lô nhỏ và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân phục tác
chiến mặc trên người. Trong cùng chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn vị
về, cũng trang bị súng ống đến tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải
gom hết lại, đem cất đi ở phía đuôi phi cơ.
Tại Sài Gòn, dịp này, tôi được gặp lại một cô bạn Văn Khoa
Sài Gòn (yêu cầu tôi giấu tên) từ Pháp về thăm nhà. Cô cho biết tin tức về
những bạn học cũ. Như Irène Phụng Tiên đã lấy chồng, đang ở Grenoble, quê hương
của Stendhal –tác giả mà tôi yêu mến từ thời trung học. Hai mươi năm sau, 1987,
từ University of Oregon, Eugene, tôi được học bổng và chọn đi tu nghiệp một năm
Sư phạm Pháp tại Đại Học Grenoble, với lý do duy nhất là sẵn dịp tìm tài liệu
tại chỗ cho luận án Ph.D về văn sĩ Stendhal. Ghé Paris chơi vài bữa, ăn phở với
Joséphine Nga, Thái Tuyết Lê, và Lê Thị Bích tại một tiệm Việt Nam, thay phiên
kể những kỷ niệm ngày xưa, cười vui với nhau, rồi cả bốn thả bộ dọc sông Seine,
thỉnh thoảng dừng lại nghe các ca sĩ hè phố hát tình ca theo tiếng đệm phong
cầm của ai đó, gần cầu Mirabeau –cây cầu được nhắc trong một bài thơ rất nổi
tiếng của Apollinaire.
Đến Grenoble, sực nhớ lời cô bạn kể, tôi mở những trang
điện thoại (annuaire), rà tìm hết các tên Việt Nam, không thấy, nhưng vẫn hy
vọng gặp lại Irène, bất ngờ, đâu đó, một ngày nào. Thành phố Grenoble lớn hơn
Pleiku một chút, không đến nỗi đi “dăm ba phút quay về chốn cũ” (cf. thơ Vũ Hữu
Định), nhưng ngày đó ở cùng một thành phố mà còn vô duyên đối diện bất tương
phùng, như lời cổ nhân, thì nói chi bây giờ, cách xa một đại dương mù khơi.
Irène không Công giáo, nên không thể gặp tại các nhà thờ. Đi thư viện, vào
những quán ăn VN, trên đường nhìn chằm chằm, hay bước theo, những phụ nữ Á Châu
hay An Nam có dáng dấp của Irène ngày trước… Không ăn thua. Cuối cùng, đành bỏ
cuộc.
Trở lại với cô bạn gặp tại Sài Gòn năm 1967 ấy. Về tai nạn
thảm khốc của Ngô Đình Lệ Thủy, cô ngậm ngùi kể:
-Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu
hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi
liệm, được khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó
đẹp quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà
khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc Peugeot 403
còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế xe camion không
việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về.
Tôi hỏi:
- Lệ Thủy học trường nào ở Paris?
- Trường Luật.
- Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?
- Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước
kia.
Tôi bỗng thở dài:
- Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận!
6. Nếu còn sống, năm nay (2010), Anne-Véronique Lệ Thủy
cũng đã 65 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng
bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ
tình làm tuyệt vọng. Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ dịch ngày đó, vẫn không có
đối tượng:
C’est bien toi que je regrette
Ce n'est pas le rêve par toi brisé
(Chính em mà tôi tiếc nuối
Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)
Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn,
tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để mãi mãi
được xinh đẹp, trẻ trung, dễ thương. Và để không bao giờ cho thế gian thấy tóc
mình bạc màu.
Kim Thanh
No comments:
Post a Comment