Thưa Quý Vị.
Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi là tên 1 sáng tác của NS Phạm Duy viết căn cứ theo sự tích của Huyền Trân Công Chúa.
Nhạc phẩm này với phần trình bày điêu luyện của hai ca sĩ Quang Lê và Mai Thiên Vân. Và phần hình ảnh y phục cổ trang 4K do Trần Ngọc Autumn thực hiện.
Xin bấm LINK để xem hình rõ nét:
https://youtu.be/ovE58vQROcM?
Trân trọng
TN.A
Sự tích Huyền Trân Công Chúa (Trích
theo Wikipedia)
Huyền Trân Công Chúa (1287- 1340[3]), tức Hòa
thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh Tông, vợ thứ 3 của vua Chế
Mân.
Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm
Thành là Chế
Mân (để
đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế đến phía bắc Quảng
Trị ngày
nay). Sau khi vua Chế Mân chết (1307), Vua Đại Việt phái Tướng Trần Khắc Chung
hộ tống đưa Huyền Trân công chúa hồi hương trở về, mang theo nhiều của cải được
vua Chế Mân ban phát trước đó. Câu chuyện về Huyền Trân công chúa được truyền
tụng trong dân gian, không chỉ vì lý do chính trị mà còn về khía cạnh văn
hóa thơ, ca
nhạc cũng
như nghệ thuật sân
khấu.
Theo
dã sử và thần tích tại đền thờ của bà, sau khi bà trở về Thăng Long thì
theo di mệnh của Thái Thượng hoàng, công chúa xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay
thuộc Bắc Ninh).
Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương
Tràng . Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã
quy y đến làng Hổ
Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am
tranh trở thành điện Phật, tức chùa Hổ Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340)[7]. Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần
Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Hổ Sơn. Ngày công chúa mất sau này hàng năm
trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế[8]. Các triều đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân
là Thần hộ quốc. Nhà
Nguyễn ban
chiếu ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp
dân, có nhiều linh ứng".
Một
số người đời sau cho rằng câu chuyện Huyền Trân lên giàn thiêu có phần thêu
dệt, chuyện nêu lý do công chúa phải lên giàn hỏa chỉ là cớ do sách Việt sau
này viết thêm. Theo tiến sĩ Po Dharma, Huyền Trân công chúa không thể hội đủ điều kiện để
xin lên giàn hỏa thiêu vì nếu theo truyền thống Champa xưa, đây là một vinh dự
và chỉ có Vương hậu chính thức mới được phép hoả thiêu trên giàn hỏa thiêu với
chồng của mình. Chuyện Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân có thể là gièm
pha, đồn thổi vì sự chênh lệch tuổi tác quá lớn và Trần
Khắc Chung được tiếng đạo đức.
Trong thơ ca nghệ thuật
Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài
trong thi ca, nghệ thuật.
Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chăm là
dân tộc thấp kém nên đã có câu:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng dùng những chữ đầu trong bài này để viết
thành ca khúc "Nước non ngàn dặm ra đi", nói về tâm sự của Huyền Trân
công chúa khi sang Chiêm Quốc:
Nước non ngàn dặm ra đi...
Dù đường thiên lý xa vời
Dù tình cố lý chơi vơi
Cũng không dài bằng lòng thương mến người...
Chiến tranh Việt – Chiêm là một loạt những cuộc
chiến tranh giữa Đại Việt ở phía Bắc và vương quốc Chiêm
Thành (Chăm
Pa) của người Chăm ở
phía Nam. Các cuộc chiến lớn nhất tập trung trong thời gian từ thế kỷ 11 đến
thế kỷ 17.
Từ thế kỷ 10, sau khi giành lại độc lập từ Trung Quốc
sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, xây dựng một quốc gia có chủ quyền, Đại Việt
bắt đầu có các cuộc chiến tranh trong lịch sử với các quốc gia lân bang như
Chiêm Thành – Chân Lạp,...trong việc tranh chấp về quyền lợi và lợi ích
của dân tộc. Chiêm Thành là láng giềng phía Nam cũng bị kết
thúc sự tồn tại của mình vào cuối thế kỷ 17, và toàn
bộ lãnh thổ và dân cư sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt,
No comments:
Post a Comment