Người tù binh hồi
chánh bên bờ sông Ba
Phạm Tín An Ninh
Tôi gặp lại anh trong một dịp rất tình cờ. Mùa hè
năm 2008, vợ chồng tôi cùng mấy người bạn trên đường từ thác Niagra trở lại New
York bằng chiếc mini-van, ghé lại thành phố Buffalo để tìm mua một hộp thuốc
nhỏ mắt. Đến quày Pharmacy trong một cửa hàng Target, tôi may mắn gặp một dược
tá người Việt. Nếu không nhìn kỹ cái bản tên trên nắp túi áo, và với cái
tên khá đặc biệt, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra anh, người tù binh, đã bị
Đại Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt trong một cuộc hành quân thám sát bên bờ
sông Ba, nằm trong địa phận quận An Túc (An Khê) vào giữa tháng 2 năm 1972.
oOo
Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tý (1972) khi
chuẩn bị cho buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao, Trung
Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh
tăng phái, thành lập một chiến đoàn, thay thế vị trí của một Lữ Đoàn thuộc Sư
Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước, làm lực lượng trừ bị cho Quân
Đoàn. Giai đoạn đầu, Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn, hành quân
tảo thanh tiêu diệt các lực lượng địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách giữ
an ninh lộ trình 24/24 con đường huyết mạch này từ Bình Khê đến Pleiku, để kịp
thời cho các nhu cầu chuyển quân, tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum.
Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân số quân dụng, chuẩn bị di chuyển
lên Tân Cảnh để đối phó với tình hình đột biến. Một lực lượng lớn Cộng quân từ
miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới, tăng cường cho Mặt Trận B-3 của
Tướng CS Hoàng Minh Thảo, trong ý đồ đánh chiếm Tây Nguyên.
Buổi tiệc khao quân tất niên bị hủy bỏ, thực phẩm
phân phát cho binh sĩ và trại gia binh. Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12
giờ trưa. Chi Đoàn 2/ 8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ binh đến Đèo Cả, ranh
giới tỉnh Phú Yên. Sau đó được lực lượng Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn
mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông, Bình Định. Nghỉ đêm
và đón giao thừa tại Vạn Giã, sáng hôm sau tiếp tục di chuyển. Chúng tôi
đến căn cứ An Khê lúc 4 giờ chiều ngày mồng một Tết.
Một Bộ Chỉ Huy “Chiến Đoàn 44” được nhanh chóng
thành hình. Trung Tá Trần Quang Tiến, Trung Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn
Trưởng, Trung Tá Trần Lý Hưng, Thiết Đoàn Trưởng TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó. Cá
nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn. Một toán liên lạc của Sư Đoàn Mãnh
Hổ Đại Hàn, do một vị Đại Tá chỉ huy, được đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn. Ngoài
Thiết Đoàn 3 KB, Chi Khu An Túc và một tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK Bình
Định cũng được đặt dưới quyền chỉ huy, điều động của Chiến Đoàn.
Hai hôm sau, Chiến Đoàn được lệnh tổ chức một một
cuộc hành quân khẩn cấp, giải tỏa hai căn cứ cấp đại đội thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ
Đại Hàn nằm trên Đèo An Khê, vừa bị một lực lượng Công quân bất ngờ tấn công và
đang vây hãm. Sư Đoàn Mãnh Hổ đã phái một lực lượng tiếp ứng, nhưng bị phục
kích, thiệt hại khá nặng. Lực lượng địch được uớc tính gồm một tiểu đoàn và một
đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng.
Nhờ hỏa lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm
trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn 3KB, cùng các phi công tài ba gan dạ
thuộc Phi Đoàn Mãnh Sư 243, sau những kế hoạch nghi binh, tạo các bãi đáp giả,
lừa địch rất hiệu quả, từng đại đội bộ binh được tuyển lựa các binh sĩ trẻ,
trang bị nhẹ, đổ xuống, vừa khép vòng vây vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của
địch. Đại Đội 44 Trinh Sát nổi danh thiện chiến, với hai toán Viễn Thám được
trang bị mặt nạ chống hơi ngạt, chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau
lưng địch, từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay, lựu đạn, và cả M-72,
dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng võ trang, nhanh chóng
tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo, làm đầu cầu cho lực
lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết, đồng loạt tấn công, nhanh chóng làm chủ
chiến trường. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, cả hai căn cứ đã được giải tỏa,
địch quân tháo chạy, bị các đơn vị bao vây tiêu diệt, có mấy tên bị ta bắt
sống. Chiến Đoàn đã ghi một chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới.
Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng
Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài gòn bất ngờ bay ra An Khê quan
sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến.
Ngay chiều hôm ấy, qua hệ thống siêu tần số,
Tướng Lam Sơn, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II cho biết, theo tin tức không ảnh của Mỹ
ghi nhận, có dấu hiệu địch xuất hiện trong khu vực bên kia bờ sông Ba, khu này
nằm tiếp giáp “Vùng Oanh Kích Tự Do”, lệnh Chiến Đoàn cho một đơn vị cấp đại
đội thâm nhập, thám sát tình hình. Ông Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại Úy Trần
Công Lâm, Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát, dùng CNC bay dọc theo bờ sông, thám sát
địa thế, tìm một khúc sông thuận lợi và an toàn nhất để vượt sông. Sáng sớm hôm
sau, sau khi thông báo cho TTHQ/Quân Đoàn và Sư Đoàn Mãnh Hổ, yêu cầu tạm ngưng
mọi cuộc tác xạ hay oanh kích trong vùng, đúng 5 giờ sáng, hai toán
Viễn Thám vượt sông trước làm đầu cầu để toàn bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông.
Nhiệm vụ hành quân lục soát trong khu vực được ấn định 16 cây số vuông, theo đề
nghị của Quân Đoàn.
Sau hai tiếng đồng hồ, không có cuộc đụng độ nào,
Chiến Đoàn nhận được báo cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt được 2 tù binh, một nam
một nữ, và cả hai xin được hồi chánh
Theo trình bày của anh Đại Đội Trưởng Trinh Sát.
Người đàn ông bị phát giác trước, khi đang trên đường xuống sông lấy nước. Anh
ta khai là y sĩ thuộc một tiểu đoàn chính quy CS, đã đào ngũ hơn một tuần. Anh
xin được hồi chánh cùng với người vợ mới gặp, cô là người Thượng, dân ở vùng
này, không phải đồng chí của anh. Sau đó, anh hướng dẫn đến một hốc đá, chỉ
người con gái, và cây súng K-54 được chôn trong một bụi rậm gần đó.
Vì cuộc hành quân đang tiếp diễn, nên tôi yêu cầu
Đại Đội Trinh Sát an ninh bãi đáp để tôi dùng CNC bốc về khai thác. Khi trực
thăng đáp xuống, đích thân Đại Úy Lâm “dẫn giải” đến giao cho tôi cùng giấy
chứng nhận “y sĩ” và mấy tấm ảnh. Hai người được giữ lại BCH Chiến Đoàn để tiếp
tục khai thác trước khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi Bình Định. Khi cô
con gái bước lên trực thăng, chúng tôi đã khá bất ngờ, ngạc nhiên về sắc
đẹp kỳ lạ của cô. Thấy áo quần rách rưới, chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba.
Khi mặc vào, trông cô thích thú lắm.
Vì cả hai đang bị bệnh, người đàn ông thỉnh
thoảng lên cơn sốt, nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong trạm xá (đang trống)
của Đại Đội Quân Y để điều trị. Tất nhiên có sự canh gác đề phòng. Anh Bác sĩ
Quân Y lại là bạn thân đồng hương, nên tôi thường ghé lại đây thăm và nhân tiện
có nhiều dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh hồi chánh. Mặc dù đã được Ban
2 (Tình Báo) cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết sau khi khai thác, nhưng
qua những cuộc tâm tình riêng, tôi biết thêm nhiều điều lý thú khác.
Anh tên Trúc Bạch, họ Hồ. Làm tôi nhớ tới cái hồ
có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ nổi danh John McCain đã nhảy dù xuống và
bị bắt, khi phi cơ của ông bị bắn rơi, lúc ấy ông còn ở trong nhà tù Hilton Hà
Nội. Tôi hỏi anh có biết sự việc này không, hay là anh đã có công trạng gì, nên
được mang tên cái hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ? Anh cười ngượng ngùng, bảo là,
bố mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ hồ này, rồi sau đó nên duyên và đặt tên
cho anh, thằng cu đầu lòng để làm kỷ niệm. Ông bà đều là giáo viên. Trước dạy ở
Hà Nội, nhưng vì lý lịch nên sau này phải đổi lên “vùng sâu vùng xa” mới giữ
được nghề cũ. Bố anh gốc người Phát Diệm. Gia đình theo đạo Công Giáo từ mấy
đời trước đó. Bố anh chỉ có một bà chị, nhưng đã theo chồng di cư vào Nam từ
1954. Ngày ấy cả xứ họ đạo đều đi, nhưng vì mẹ mang thai anh gần đến ngày sinh,
nên bố đành ở lại. Bà cô anh vào Nam, một thời gian ở Ngã Ba Ông Tạ, nhưng sau
đó mất liên lạc, không biết đã chuyển đi đâu. Bố anh bảo người bà con trong
làng vào Nam rất đông, nên nếu tìm bà cô cũng không khó lắm. Tôi cho anh biết
là tôi có quen nhiều bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai, đa số là người Bùi Chu
Phát Diệm, tôi có thể hỏi thăm tin tức cho anh. Đang học trường Trung Học Y tế
thì anh bị động viên chuyển sang Quân Y, và được đưa vào B (chiến trường miền
Nam) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng. Dù học chưa xong, anh vẫn được cho làm y
sĩ. Anh bảo chỉ biết cứu thương và học được một số thuốc Nam, trị bệnh bằng các
loại lá cây. Hơn nữa đơn vị cũng chẳng có thuốc men gì, ngoài một ít thuốc ký
ninh của Trung Cộng viện trợ.
Anh cũng kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân
chúng miền Bắc, chính sách hộ khẩu như một hình thức nắm cái bao tử để tạo áp
lực với dân, đặc biệt là ép buộc thanh thiếu niên phải vào Nam chiến đấu. Anh cũng kể về mối tình đầu của anh với một cô
bạn học, khá xinh. Khi biết cô là con của một đảng viên trong ban bí thư thành
phố, anh ngại. Chưa kịp lùi bước, thì cô cũng kịp khám phá anh ta gốc
Công giáo, gia đình lại có đông người di cư vào Nam, nên cô bảo thẳng thừng rồi
chia tay. Anh biết trước nên chẳng bất ngờ, cũng chỉ buồn buồn một chút rồi
thôi..
Cô con gái đang ngồi với anh, anh gọi là vợ,
người sắc tộc, có cái tên rất khó nhớ. Điều đặc biệt là cô khá đẹp. Cái đẹp man
dại của một cô gái núi rừng có một ma lực hấp dẫn đến kỳ lạ. Chính vì điều này
đã làm anh có thêm dũng khí để trốn khỏi đơn vị, thực hiện ý định hồi chánh, mà
anh đã ấp ủ từ lúc bị chuyển vào miền Nam.
Tiểu đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo, nhiều
bộ đội bị sốt rét, nên anh cùng một người lính trong tổ Quân y “tranh thủ” đi
vào rừng để tìm lá cây làm thuốc. Khi đến bờ một con suối nhỏ bên triền núi,
anh bắt gặp một cô gái đang trồng khoai bên cái chòi tranh sơ sài trong hốc đá.
Anh ngạc nhiên, sao lại có một người con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng
quạnh vắng. Đến gần anh giật mình ngạc nhiên hơn, không tin vào đôi mắt của
chính mình. Không thể giữa núi non hẻo lánh này lại có một cô con gái đẹp đến
lạ lùng, một nét đẹp hoang dã, cuốn hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Da ngâm
đen với đôi mắt thật to, chiếc mũi cao, đôi môi mọng đỏ. Cô khác hẳn với những
cô gái Thượng mà anh đã gặp trong các vùng hành quân. Anh mơ hồ nhớ đến chuyện
ngày xưa, khi còn bé, anh thường nghe mẹ kể về những cô tiên mắc phải lỗi lầm
bị đọa xuống trần gian. Người bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước
điều bất ngờ kỳ lạ này. Cô gái chỉ nói một ít tiếng Việt, nhưng cũng đủ để hai
người hiểu được. Cô bảo cô bị người trong buôn cho là ma, nhiều lần đòi giết
cô, nên ông trưởng làng đày ra sống ở đây. Cha mẹ thỉnh thoảng được đến thăm,
nhưng cô không được phép về buôn. Anh bực dọc cảm thấy có điều gì bất nhẫn. Sau
khi được cô gái chỉ đường đến buôn, anh và người bạn lính tìm đến gặp ông
trưởng làng để cố thuyết phục xin được thả cô ra, nhưng không những bị từ chối,
mà ông trưởng làng còn cho biết là chờ đến mùa lũ, họ sẽ trói cô lại và bỏ trôi
sông để cúng thánh thần, tránh tai họa cho buôn.
Sau khi về đơn vị, anh suy nghĩ bằng cách nào để
cứu được cô con gái. Ý muốn đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe lên trong
đầu, bây giờ càng thôi thúc anh thực hiện. Hai ngày sau, anh báo cáo riêng với
tay thủ trưởng, xin đi lấy lá thuốc Anh đi một mình, thật sớm. Để tránh nghi
ngờ, nhất là người bạn “đồng chí” Quân Y hôm trước, anh để lại balô, chỉ mang
theo ít lương khô và khẩu súng K-54 phòng thân. Anh tìm đến giải cứu cô gái
Thượng, kể lại cho cô nghe lời của ông trưởng làng, sẽ thả cô trôi sông. Cô gật
đầu, mang theo cái gùi chứa ít bắp, khoai và hai cái bình chứa nước làm bằng vỏ
trái bầu.. Anh dắt cô gái đi thật nhanh. Buổi chiều khi gặp con sông Ba, hai
người tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến tối. Nghĩ đã hơn một ngày đường, đơn
vị không thể nào đuổi theo, anh dừng lại và ẩn trốn trong một hốc đá an toàn.
Ăn bắp khoai sống tạm, chờ tìm đường ra hồi chánh. Không ngờ một tuần sau thì
bị đơn vị tôi bắt.
Tin tức đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung
cấp được kịp thời báo cáo lên Quân Đoàn. Một lực lượng Biệt Động Quân đang hoạt
đông trong khu vực Hàm Rồng được tung vào khu vực, nhưng địch quân đã di chuyển
đi nơi khác mấy ngày trước. (Sau này được biết đơn vị này bị thiệt hại nặng nề
bởi hỏa lực Không Quân của ta oanh kích, khi bọn chúng bao vây tấn công một căn
cứ tại Thuần Mẫn, do một đơn vị đia phương quân trú đóng).
Mấy hôm sau, khi sức khỏe tạm hồi phục, vợ chồng
anh được chuyển giao cho Ty Chiêu Hồi Tỉnh Bình Định. Qua nhiều lần nói
chuyện, nhìn thấy ở anh có sự chân thành, nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của
anh bị thiệt hại nặng nề, bộ đội chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số,
chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân miền Bắc, nhất là những thanh thiếu
niên bị cưỡng bách, tuyên truyền “xẻ dọc Trường Sơn cứu nước”, để rồi có
biết bao người phải “sinh Bắc tử Nam!”
Ngày 24.4.72, Tân Cảnh thất thủ, khi BTL/SĐ22BB
bị địch quân tràn ngập, vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đã cùng đồng đội chiến
đấu tới giây phút cuối cùng, và vùi thây nơi chiến địa, Trung Đoàn 44 chúng tôi
có lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù Hanh, Pleiku để được không vận lên
Kontum. Chỉ sau một ngày đến Kontum, thay thế cho một Liên Đoàn Biệt Động Quân
ở tuyến Tây Bắc, đơn vị tôi đã đánh một trận lẫy lừng, tiêu diệt cả một trung
đoàn của Sư Đoàn 320 CS và một đại đội chiến xa T-54, khi bọn chúng từ Tân Cảnh
tràn xuống tấn công, trong ý đồ chiếm lấy Kontum. Chiến thắng này đã mở màn cho
nhiều chiến thắng sau đó để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa. Và thành
phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào tay CS, khi Quân Đoàn 2 có lệnh “triệt
thoái”vào giữa tháng 3/75, tạo nên cuộc di tản đẫm máu kinh hoàng trên con
đưởng tử lộ 7-B.
oOo
Đã hơn 36 năm, bất ngờ gặp lại anh giữa một nơi
xa lạ. Chỉ mới nhắc lại một vài chi tiết bên bờ sông Ba ở An Khê năm nào là anh
nhớ ra tôi ngay. Tôi không dám vồn vã vì đang đo lường phản ứng của anh. Nhưng
bất ngờ anh ôm chầm lấy tôi, gọi tên tôi trong nỗi vui mừng pha chút cảm động.
Anh lễ phép xưng em với tôi, bảo là vợ chồng luôn nhớ đến tôi, nhớ anh bác sĩ
quân y bạn tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn cứ An Khê. Anh ca ngợi khả năng
và lòng nhân đạo của những người lính VNCH. Anh bảo làm sao anh có thể quên
được một kỷ niệm lớn lao đã làm thay đổi cả cuộc đời anh vả cả vợ anh. Anh khẩn
khoản mời chúng tôi ở lại một vài ngày với gia đình anh. Tôi ra xe kể qua
câu chuyện cho mấy người bạn. Ai cũng thích thú, nhất là muốn xem dung
nhan của cô tiên nữ người Thượng bây giờ ra sao. Tôi vào báo cho anh biết là
chúng tôi chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh đến sáng ngày mai, nhưng xin anh
tìm giúp một hotel ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm, vì đông người quá, ngại
làm phiền. Anh cười, bảo một đêm thì quá ít để anh có thể kể bao nhiêu chuyện
về cuộc đời của vợ chồng anh. Anh gọi điện thoại về nhà báo tin cho vợ biết và
vào xin boss nghỉ sớm để đưa chúng tôi về nhà. Anh cho biết đã đặt giùm khách
sạn, nhưng muốn mời chúng tôi về nhà anh chơi, đến khi nào ngủ anh sẽ đưa ra
khách sạn. Anh lái xe chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy theo anh. Đường lạ
nhưng không nhiều xe lắm, bọn tôi ai cũng nôn nao, mong sớm đến nhà để nhìn
dung nhan cô gái Thượng ngày xưa.
Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn rộng, trồng
đủ các loại hoa. Điều đặc biệt là trước nhà có cả một khóm dã quỳ. Loại hoa màu
vàng tôi thường thấy ở Vùng Pleiku, An Khê ngày trước. Khi chúng tôi vừa xuống
xe, một người đàn bà mở cửa bước ra chấp hai tay trước ngực và cúi đầu
chào. Anh chồng chưa kịp giới thiệu thì chúng tôi đã ồ lên. Chị
cười thật tươi và đưa tay bắt từng người. Có lẽ đã nghe chồng kể qua về
chuyện bất ngờ gặp lại tôi, nên chị nhìn từng người để cố nhận ra tôi. Và chị
đã nhận ra khi tôi là người cuối cùng bắt tay chị. Điều làm tôi bất ngờ là chị
chào hỏi bằng tiếng Việt rất sõi. Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng trầm
trồ trước nhan sắc của chị. Riêng tôi lại có một chút thất vọng. Đúng là
với tuổi bây giờ, chị là một người đàn bà đẹp, nhưng là cái đẹp của một “hoa
hậu phu nhân”, mang nét quí phái với chút phấn son. Không còn cái đẹp man dại
núi rừng của cô ngày trước. Cái đẹp đặc biệt và hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc
người ta hơn.
Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau, ngồi quanh cái
bàn tròn dưới gốc một cây bơ phủ bóng. Chúng tôi phụ anh chị làm một bữa BBQ.
Tôi bảo là hồi đó tên chị khó đọc quá, nên tôi
không còn nhớ. Chị cười bảo là H’ Niê. Sợ không hiểu chị lấy một que cây viết
xuống đất. Vừa viết chị vừa nói:
- Sau này ông xã em đặt tên cho em là H’ An Khê.
Sang Mỹ lấy họ chồng, bây giờ em là An Khê Hồ.
Nói xong, chị nhìn sang tôi cười:
- Cái chỗ An Khê mà các anh đã cứu vợ chồng em
đấy!
Tôi đùa:
- Bọn tôi phải cám ơn chị. Sắc đẹp của chị đã
giúp bọn tôi bớt đi một kẻ thù, và anh Bạch cũng phải mang ơn chị, vì nhờ chị
mà anh mới quyết tâm thực hiện giấc mơ hồi chánh của mình, nếu không thì chắc
đã trở thành liệt sĩ vô danh từ lâu rồi!
Suốt buổi chiều hôm ấy, anh ngồi kể say sưa cho
chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và đời sống của vợ chồng sau ngày hồi chánh.
- “Em chỉ có một cô em gái, Mãi đến năm 1985 em
mới liên lạc được và sau này đã bão lãnh sang Mỹ cùng với chồng và một đứa con
trai. Bố mẹ em đã chết từ lâu, và vẫn cứ tưởng em là liệt sĩ. Sau ngày
được chuyển về Bộ Chiệu Hồi, vợ chồng em đều được đối xử rất tốt và giúp đỡ tận
tình. Đáng mừng và cảm động nhất là họ đã cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm đươc
bà cô ruột của em. Bà có hai người con trai đều là sĩ quan VNCH, một anh ở Biệt
Động Quân, nghe nói đánh giặc có tiếng, tiếc là anh đã tử trận trong Tết Mậu
Thân, hình như lúc mang “hàm” trung úy, và một anh là Thiếu tá Hải Quân. Cũng
nhờ anh này mà cả nhà và vợ chồng em mới được rời khỏi Sài gòn vào sáng sớm
ngày 30.4.75. Năm 1974 vợ em sinh con trai đầu lòng, sang đây thì có thêm cô
con gái. Hai cháu đều đã lập gia đình. Lúc trước gia đình em ở Philadelphia,
nhưng từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc làm ở đây, bọn em chuyển lên đây
sống gần các cháu.”
Buổi chiều, cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái
chạy xe đến, mang theo mấy chai rượu đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi tối. Các
cháu rất lễ phép, dễ thương, nói được tiếng Việt nhưng không giỏi lắm. Đặc biệt
cô con gái, chắc nhờ thừa hưởng sắc đẹp của mẹ, nên rất xinh xắn. Nhìn đôi mắt
của cháu tôi nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ cháu ngày xưa, khi còn là cô gái
Thượng hoang dã. Đôi măt to, đen láy, mang cả hình bóng núi rừng và mây trời
cao nguyên thưở ấy. Điều làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn. Cháu gái đang
là một dược sĩ và cậu con trai là Thiếu Tá Bác sĩ của một đơn vị trú đóng ở
đây. Cô vợ người Mỹ cũng là một bác sĩ quân y cùng đơn vị. Bọn tôi nâng cốc ca
ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt của các cháu.
Sáng hôm sau, hai vợ chồng đến khách sạn rất sớm,
mời chúng tôi ăn điểm tâm trước khi chia tay. Khi tôi đến quày check out, người
thu ngân của khách sạn cho biết có người đã thanh toán tiền phòng rồi. Tôi phàn
nàn trách, anh cười, ôm vai tôi nói nhỏ:
- Biết trả bao nhiêu cho đủ so với tấm lòng và sự
giúp đỡ của các anh.
Cả vợ chồng ôm từng người chúng tôi và mong có
ngày tái ngộ. Khi bắt tay từ giã anh, một người bạn của tôi hỏi đùa:
- Thế Hổ Trúc Bạch có gặp “giặc lái” John McCain
chưa?
Anh cười, nói lớn:
- Em đã gặp ông trong một cuộc vận động bầu cử.
Em bảo với ông là, tôi và gia đình sẽ bỏ phiếu cho ông, vì ông đã nói một câu
rất đúng: “Điều đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam, kẻ man rợ đã thắng!”
Anh chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi một đoạn
đường. Đến ngã rẽ qua xa lộ, anh dừng lại, đưa tay ra cửa vẫy chào tiễn biệt.
Chia tay vợ chồng anh, suốt cả đoạn đường dài, tôi miên man hồi tưởng về những
ngày tháng cũ và hình dung lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè, một số đã chết
tại các chiến trường khốc liệt An Khê Cheo Reo, Pleiku, Kontum, số còn lại sau
những năm tháng tù đày nghiệt ngã, giờ đang lưu lạc bốn phương trời, mang theo
những vết thương chưa thể lành được trong lòng. Đặc biệt, tôi nhớ tới Trần Công
Lâm, người Đại Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh, đã chỉ huy cuộc hành quân bên bờ
sông Ba ngày ấy. Lâm là bạn chí thân, cùng khóa Thủ Đức, cùng Trung đội SVSQ,
và nằm giường trên tôi, lúc còn ở quân trường. Hai thằng đã rủ nhau về cùng đơn
vị. Lâm đã hy sinh vào cuối tháng 3/73 trên đỉnh núi Ngok Wang, Kontum khi đang
là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44. Và cuối cùng, tôi cũng nhớ đến đôi mắt đẹp
man dại của cô gái Thượng, cùng hình ảnh người tù hồi chánh ở An Khê lúc trước,
khi Lâm “dẫn giải” đến trực thăng giao lại cho tôi.
Phạm Tín An Ninh
__._,_.___
No comments:
Post a Comment