LƯƠNG THƯ TRUNG phỏng vấn
Bên tách trà với Đặng Kim
Côn
Lương Thư Trung:
Mến chào anh Đặng Kim Côn.
Rất vui khi được nhà thơ Trần Phù Thế giới thiệu tập thơ Để Trăng
Khuya Kịp Rót
Đầy Sớm Mai của anh. Dường như anh khởi viết khá lâu vào những ngày
còn đi học?
Anh giới thiệu sáng tác của mình trên các tạp chí nào lúc ấy?
Đặng Kim Côn:
Tôi viết sớm. Khoảng 1967 đã có bài trong Bút Hoa, 1973 có thơ
trong Khởi Hành
nhưng không nhiều vì ít chấp nhận được bài viết của mình (nên không
thường gửi
bài). Đa số thơ văn nằm “dài dài” trong các báo lá cải, dưới nhiều
bút hiệu. Tôi cũng
có phụ trách “ôm” tờ Nguyệt San Bộ Binh Thủ Đức suốt thời gian thụ
huấn. Những
bài coi như trở mình tính từ 1973 trở đi. Nói chung là tôi cũng biết
khả năng mình
không tới đâu nên đã “chơi” một cách khá hờ hững, và không dám kết
thân bạn bè
viết lách. Ngay cả hiện giờ, nếu không được nhiều anh em khuyến
khích thì tôi cũng
đã không nghĩ tới việc bắt đầu “đẻ đứa con đang sắp chết ngộp” này
mà đúng ra nếu
tha thiết hơn với thơ, tôi đã cho ra đời hơn mười năm trước.
LTT:
Như vậy, tính ra cũng đã hơn bốn mươi năm anh vui thú văn chương.
Là một người
sống cùng thế hệ những ngày binh lửa ấy với anh, tôi rất hiểu và cảm
thông về những
mối hiểm nguy của "Mùa Hè Đỏ Lửa," “Tháng Ba Gãy
Súng,” những tháng năm gian
nguy đầy chết chóc nơi rừng núi Củng Sơn. Có lẽ vì thế mà thơ anh đầy
những trăn
trở, thao thức về con sông, bãi biển, ngọn núi, làng quê, ngọn tháp
Chàm của vùng đất
Phú Yên.
Được biết anh ở Tuy Hòa nhưng có lần nào anh về qua làng Ngân Sơn,
quê hương
của nhà văn Võ Hồng? Anh có mẩu chuyện nào để kể về tác giả của «Trầm
Mặc Cây
Rừng» không?
ĐKC:
Ngày ấy tôi chưa biết văn chương là gì, và tuy là lính tráng núi rừng
nhưng lại nhút
nhát nên tôi đã không dám kết thân với ai dù cũng có chút quen biết
với các cây bút
thành danh ở Phú Yên. Tôi đến Ngân Sơn rất nhiều lần vào sau những
năm 1980,
nhưng chưa được cái hân hạnh gặp thầy Võ Hồng.
LTT:
Trong bài thơ mở đầu thi tập Để Trăng Khuya Kịp Rót Đầy Sớm Mai ,
bài"Trên Đỉnh
Mê Xưa” của anh có nhiều câu trăn trở với đất trời và chính mình:
«Trời đất thấy ta ngồi trên núi không?
Ngọn thấp ngọn cao, đá đựng đá chồng
Đã rêu phong ta nghìn năm sinh tử
Mưa nắng cõi người bao giờ đơm bông?»
Bài thơ làm gợi nhớ đến bài “Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ” của Trương
Nhược Hư:
«Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang biên hà nhân sở kiến nguyệt,
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân.»
Anh có thể chia sẻ với những người mê thơ bài này được sáng tác
trong trường hợp
nào không, thưa anh?
ĐKC:
Vâng, bài thơ này là một kỷ niệm khó quên trong đời. Trong thời
gian ba năm ở Phú
Bổn, tôi rất buồn nhớ nhà, và lại bị thương thập tử nhất sinh. Lúc ấy
bị Hội Văn Nghệ
Sĩ Quân Đội tỉnh Phú Bổn “phong” cho làm trưởng ban thơ, tôi lo lắng,
tự ti trước
mấy ông “lớn” vì có người từng là ứng viên đoạt “giải ba” thơ Tổng
Thống. Tâm
trạng tôi bồn chồn, bất an sau hơn hai năm không viết được gì hoặc
thỉnh thoảng vài
bài chả ra gì. Có lẽ với nỗi khắc khoải nằm trên núi quá lâu và
cùng rất nhiều nỗi
niềm khác, tôi đã tuôn ra được bài “Trên Đỉnh Mê Xưa” mà tôi xem
như bước khởi
đầu có màu sắc trên đường thơ của mình.
LTT :
Cảm ơn anh đã chia sẻ sự ra đời của bài thơ “Trên Đỉnh Mê Xưa.” Khi
đọc thi tập của
anh tôi hiểu được phần nào những băn khoăn nhưng có lẽ không bằng
chính tác giả
trang trải những nỗi niềm.
Đến bài thơ “Ném Viên Sỏi Xuống Hồ Tiểu Thúy”
Ném viên sỏi xuống Hồ Tiểu Thúy
Nước xôn xao hay lòng xôn xao
Ta muốn nhảy xuống hồ tự tử
Nhưng hồ nhỏ quá, e hồ đau.
……
Một thoáng ta nhìn ta bỗng lạ
Thăm thẳm đâu từ đáy nước sâu
Ngủ với đáy hồ như đá sỏi
Êm ái rêu phong bóng mịt mù.
Bài thơ dùng chữ thật khéo với óc giàu tưởng tượng. Thiên nhiên và
con người hòa
quyện cùng nhau. Ngôn ngữ thơ trầm mặc những trăn trở suy tư về
thân phận, về cuộc
đời. Nhà thơ biết dùng thiên nhiên để gửi gắm nỗi niềm một cách tài
tình. Ví dụ như
Kim Lăng Đồ của Vi Trang, rồi Lý Bạch với Nguyệt Hạ Độc Chước, rồi
Mạn Hứng
của Đổ Phủ các bậc thi bá đời xưa coi “con người và vạn vật chung một
thể.” Với thơ
anh, bóng mình đó mà tưởng bóng ai? Ta đó mà sao ta lại lạ với
chính ta? Làm thơ
mà đạt triết lý đến thế thật tuyệt. Phải chăng tứ thơ của anh là vậy
không, thưa anh?
ĐKC:
“Phải chăng tứ thơ của anh là vậy không?” Tôi thật là sung sướng với
câu hỏi của
anh. Việc anh đặt giả thuyết cũng có nghĩa là tôi không biết thơ
mình được độc giả –
nhất là độc giả như anh – tiếp nhận. Trước 1975, ở Tuy Hòa, có một
quán café nổi
tiếng trong giới văn học nghệ thuật tên là Hồ Tiểu Thúy. Hồ nhỏ
xíu, ngang hơn 1m,
dài chừng 4m, có hòn non bộ xinh xắn do chủ nhân chế tác. Trong một
đêm thơ nhạc
được tổ chức tại đây, tôi đã viết và ngâm bài thơ này, gặt ít nhiều
thành công “ta
muốn nhảy xuống hồ tự tử/ nhưng hồ nhỏ quá e hồ đau.” Sau khi bài
ngâm chấm dứt,
bỗng òa lên những tiếng vỗ tay và sau đó có nhiều người xin chữ ký
(hì hì !) Đó chắc
là giây phút “xuất thần” của Đặng Kim Côn. Nói chung, tôi được nhiều
may mắn
trong đợt chuẩn bị in sách lần này. Có nhiều đàn anh tên tuổi trong
giới cầm bút đã
nhiệt tình quạt lại ngọn lửa văn nghệ trong tôi tưởng đã nguội lạnh
khá lâu rồi.
LTT:
Vâng, được biết anh có nhiều tác giả tên tuổi cổ vũ, khích lệ. Trở
lại chuyện thi ca, tôi
thấy bài “Tuyệt Khúc Vàng” là một bài thơ chân tình của người lính
trẻ. Giã từ biên
cương chiến địa mà thấy nhớ sông núi mãi hoài!
“Ừ ta nửa gánh giang hồ mỏi
Thân đã mòn như que củi khô
Buông cương chiến mã chào sông núi
Sông núi buồn không đứng lặng lờ?”
Để rồi hồn thơ anh lâng lâng một tấm lòng thương nhớ những buổi mặt
trận tàn với
chén “rượu biên cương” bên những xác người gối tay lên nhau mà quên
hết bạn thù.
“Dẫu có thể đôi khi thấy nhớ
Rượu biên cương bên đám lửa rừng
Bên dăm ba thây ma thù, bạn
Gối tay nhau nằm cũng tình thân.”
Ý tưởng đó tuy không mới nhưng đầy nhân bản. Chỉ người còn sống mới
chia rẽ
nhau, thù hận nhau. Khi xuôi tay nhắm mắt rồi thì thù hận hay yêu
thương rồi cũng
tan biến hết!
Ngoài ra, tôi cũng thích bài “Trâu Cày” với hai câu trong đoạn kết.
Một ước mơ rất
giản dị mà xa vời, chua xót …
“Giá như đến được bên đồng cỏ
Chỉ để lăn thôi cũng đủ vui”
Thưa anh, hai bài thơ trên anh làm ở hai thời khắc khác nhau, một
làm vào những
ngày còn lửa khói chiến tranh, một làm vào những năm “hòa bình,” mà
sao nghe như
mạch thơ chảy hoài về một nỗi đọa đày. Đọa đày trong chiến tranh đã
đành, mà sao
lại còn đọa đày ngay trong cả những ngày đã tàn khói lửa của những
mùa chinh chiến
cũ !?!
ĐKC:
Anh ạ, “Tuyệt Khúc Vàng” là bài thơ khao khát một ngày không tiếng
súng. Bên cửa
sổ lạnh sương, vòng tay thiếu thốn kia tìm chút ấm. Đến 1975 thì
“buông cương” thật.
Bài thơ như một tiên tri, đã khiến bạn bè xem như “điềm” để thương
yêu, lẩm nhẩm
trong những lúc chạnh lòng. Được coi như là bài thơ cũ được quê nhà
biết tới nhiều
cùng với “Thất tình Ca” và “Chén Rượu Cho Tuy Hòa”. Bài “Trâu Cày”
nằm trong
một loạt với những bài “Bức Tranh Chiếc xe Bò” và “Bò Kéo Xe” với bốn
câu kết
của mỗi bài như dưới đây:
“Người họa sĩ ngồi trong tòa nhà không có mưa rơi
Vẽ bầu trời thênh thang dưới vành nón lá
Cơn mưa dài, những bước chân rời rã
Rơi xuống ngày mai những bước quanh đời.”
(Bức Tranh Chiếc Xe Bò)
Và:
“Ngày mai con bò không phải dậy
Từng mảnh thịt xương ra chợ lạnh lùng
Những lằn roi vẫn hằn lên lưng dốc
Xe gãy càng nằm bên chuồng trống không.”
(Bò Kéo Xe)
Những bài thơ nói lên sự cam chịu trong những năm tháng phó thường
dân khốn khổ,
đói khát, đi không ngày mai, về không thấy mình, trên cánh đồng
“thiên đường hứa
hẹn” vẫn cứ là hứa hẹn.
LTT:
Hai bài thơ “Bức Tranh Chiếc Xe Bò” và “Bò Kéo Xe” mà anh không chọn
vô cùng
“Trâu Cày” thì thật đáng tiếc. Bài “Bonsai Rừng” có hai câu ở đoạn
kết:
“Chiều nay rừng núi theo về phố
Lủng lẳng trên vai những đất trời.”
Nghe ra như có chút reo vui của vài gốc cây rừng lủng lẳng trên vai
nhưng vừa có
thêm chút cô đơn quạnh quẻ bên đời?
ĐKC:
Thật ra, núi rừng “một thủa cũng tình thân” ấy luôn luôn quyến rũ
tôi. Đả đảo, hoan
hô, buồn vui trong núi thẳm một mình đôi lúc cũng giúp mình quên đi
thực tại. Nghêu
ngao cũng là cơm áo, anh ạ. Đặng Kim Côn lủi thủi lang thang đào
cây suốt thời gian
dài ròng rã bảy năm trước khi có người thứ hai trong tỉnh bắt đầu nối
gót, nhiều người
còn gọi là thằng điên. Loạt thơ về thời điểm này còn có “Trăng
Bonsai.”
“Ðêm đêm ngồi lặng lẽ
Bên những hòn giả sơn
Bên gốc đa vạn cổ
Nghe đời trôi vô thường.”
Đó là một gắn bó thiền tính trong cõi thơ tôi.
LTT :
Như vậy, ngoài bài thơ “Những Vầng Trăng,” “Trăng Bonsai” anh còn
nhiều bài khác
về trăng như “Phù Ảo Đáy Sông Trăng,” “Trăng Thu,” “Vàng Ngập Một
Vườn
Trăng,” đặc biệt là bài với cái tựa thật dài “Để Trăng Khuya Kịp
Rót Đầy Sớm Mai”
nhưng chỉ vỏn vẹn có bốn câu.
“Trăng bờ tây sáng bờ đông
Khuyết tròn, mọc lặn giữa giòng đời quay
Xin em cạn một chén này
Để trăng khuya kịp rót đầy sớm mai.”
Anh cũng đã chọn bài thơ này làm tựa cho thi tập. Anh có thể chia sẻ
một chút về sự
ưu ái này không?
ĐKC:
Thưa anh tựa này nó bao gồm vui buồn trong một đêm khuya xứ người.
Hôm ấy là
sinh nhật tôi, thằng bạn thân khiêm ông sui rất thích thơ. Nó gợi ý
trên bàn tiệc giữa
sân vườn, thu lạnh, trăng khuya. Trong tâm tình đầy ắp thương yêu của
bè bạn và gia
đình, tôi đã viết bốn câu trên, và cũng vì sự ràng buộc thiết tha
đó, tôi chọn cái tựa
này…để nhớ “rất xưa kia” (và hôm nay) chỉ là một ngày.
LTT:
Ngoài ra, tôi nhận thấy vào năm 2009, anh có làm nhiều bài thơ rất
ngắn, như “Lá
Phong,” “Dại Khờ,” “Thị Ngạn,” đặc biệt hai bài thơ “Cuội” và
“Thiên Đường” dưới
đây chỉ vỏn vẹn có hai câu:
“Trăng Cali trăng Tuy Hòa
Ngồi chi dưới gốc cây đa mà buồn”
(Cuội)
“Trăng quê nhà, trăng viễn phương
Mây bay luống cuống thiên đường ở đâu?”
(Thiên Đường)
Xin anh có thể chia sẻ một chút về những bài thơ thật ngắn này? Làm
thơ ngắn khó
không anh?
ĐKC:
Những bài thơ ngắn, và rất ngắn, tôi đã viết nhiều từ trước 1970.
Tôi nghĩ nó tương
đối dễ làm với bất kỳ ai biết làm thơ. Giống như hơi thở, ai cũng
thở, có điều tại sao
không thở dài, mà thở ngắn? Phải chăng đó cũng chỉ là cách thở? Và
điều tôi muốn
nói là nén sao cho nó đủ, vừa đủ (hoặc để người đọc cảm thấy đủ) để
muốn tìm kiếm
một cái gì đó mơ hồ, không có trong bài thơ, mà thấy như đang có
đó.
LTT:
Bàn về sáng tác, đọc trên Da Màu thấy anh có truyện đăng trên tạp
chí này và như anh
cho biết anh sẽ in thêm một tập truyện. Xin anh vui lòng cho biết
những đề tài ưa
thích trong truyện của anh. Ngoài ra, giữa làm thơ và viết truyện,
anh mê nhứt là bộ
môn nào, thưa anh?
ĐKC:
Đề tài truyện ngắn tôi thích là TÌNH YÊU. Giữa hai bộ môn thơ và
văn, tôi thích viết
văn hơn. Có lẽ, một phần là văn tôi viết có phần khó hơn thơ.
LTT:
Giờ xin trở lại một chút Phú Yên của anh. Hồi những năm đầu thập
niên 1970, tôi có
dịp ghé qua Phú Yên nhiều bận. Từ Nha Trang qua đèo Rù Rì về hướng
Ninh Hòa, rồi
ra Đại Lãnh bên này chân đèo Cả. Đèo cao chót vót, bên này, vách đá
lêu nghêu, bên
mặt, biển sâu chập chùng vực thẳm. Nhìn xa xa ngoài biển vắng ấy là
Vũng Rô của
bắt đầu địa giới Phú Yên. Xuống chân đèo Cả đi vào quận Hiếu Xương
với những
miếng ruộng không bao la lắm nhưng vẫn biểu hiện được cái nét trù
phú. Rồi đến cầu
Đà Rằng bắc ngang sông Ba, chiếc cầu không cao nhưng dài có đến cả
ngàn thước
dẫn về thị xã Tuy Hòa. Tuy Hòa nhỏ, có thể gọi là rất nhỏ so với
Nha Trang ngày xa
xưa ấy. Phú Yên với địa thế mà tôi còn nhớ; Đông ôm lấy biển, Tây gối
đầu lên vùng
rừng núi giáp ranh với Phú Bổn; Nam nằm chắn bởi đèo Cả; và Bắc
Bình Định, Quy
Nhơn chắn ở bên kia đèo Cù Mông. Thưa anh, Phú Yên của anh bốn mươi
năm trước
tôi ghi nhận là thế, nhưng nay bụi thời gian phủ lấp quá nhiều rồi.
Có thể Phú Yên
ngày nay không còn như trước, mà sao trong lòng tôi vẫn nhớ về với
Phú Yên của anh
với chừng ấy sông nước biển trời núi rừng trong trí nhớ. Và bài thơ
“Chén Rượu Cho
Tuy Hòa” của anh đã gợi trong trí não tôi cái nhớ về Phú Yên:
“Có chân tháp mỏi mòn trông đỉnh tháp
Tháp nhớ người đi, ta nhớ Tuy Hòa
Cho ta gượng một bàn tay vẫy
Chào Tuy Hòa và tiễn đưa ta.”
Bài thơ khá cảm động. Chữ “gượng” anh dùng quá tuyệt. Cảm ơn anh đã
gợi cho
người đọc một trong những bến bờ mà tôi có lần ghé lại những năm
nào.
ĐKC:
Anh Lương Thư Trung ạ, tôi đang chờ anh nhắc đến “Chén Rượu Cho Tuy
Hòa.”
Như tôi đã nói khi trả lời về “Tuyệt Khúc Vàng,” “Chén Rượu Cho Tuy
Hòa” được
anh em yêu thơ ở Tuy Hòa quý vì theo ý kiến họ, nó dài mà không thừa
không loãng.
Riêng với anh, tôi chỉ nói tới một vài khía cạnh thấp thoáng phía
sau bài thơ. Câu
“kim cổ ta người chung thế cuộc” là một lời than oán cái thân phận
Chiêm Thành của
mình. “Cạn chén binh đao chưa thấy thanh bình” thì giết nhau để làm
gì khi mà hòa
bình vẫn còn chưa thanh bình?
“Tưởng chân NAM bước về chân BẮC…
Nghe cà trời SAO nổ dưới chân mình”
Một giấc mộng thôi chỉ còn là TƯỞNG trong cơn say! Và mong sao sẽ
không còn
những đe dọa, khủng bố.
“Sẽ không còn hạ giông, đông bấc
Ðộng dài Tháng Giêng, động tố Tháng Hai
Những đợt nam non, những cơn nồm rộ.”
Vần vũ trên đầu hôm nay ngày mai trong lúc “một giòng sông cạn nuớc
lang thang”
tới một bến bờ xa lạ. Bài thơ được viết vào những ngày sắp ra đi.
LTT:
Thưa anh, “Tới Ngả Năm Thành Phố” là một bài thơ rất nhiều ý nghĩ,
chẳng hạn như
bốn câu:
“Dưới những cột đèn thao thức đứng
Soi nửa đời ai mất bóng mình
Ðưa tay không biết tìm đâu bóng
Ðể giữ đời nhau một chút tình.”
Sao lại là “ngả năm” mà không là ngả ba, ngả bảy, thưa anh?
Tôi cũng thích bài “Như Vẫn Đâu Xa,” hồn thơ buồn, vừa như trách hờn
mà tha thiết,
vừa như xa vắng mà cứ ôm ấp mãi trong lòng đất đá núi sông đèo cao
ruộng thấp
những thuở nào:
“Chân đã Phú Yên mà lòng cứ lạ
Dừng đây sao vẫn như còn xa*
Lạ suốt Cù Mông, lạ về Đèo Cả
Đất trời ai mà nhói buốt hồn ta.”
(*lời trong nhạc phẩm “Chiều Qua Tuy Hòa” của Nguyễn Đức Quang)
Đến như bài “Hãy Mừng Hội Ngộ Một Ly Đi” là một cuộc hội ngộ rất
đáng nhớ, có
cả những người bạn cùng học một thời dù nay còn lại chẳng mấy người.
Anh nghĩ sao về vài cảm nhận vừa ghi lại? “Này bạn, rót giùm ta ly
nữa
Nâng mời mấy đứa sớm trăm năm
Hai trăm tư đứa thời liên thất
Còn được bao nhiêu đứa uống giùm.”
Nhưng có lẽ bài thơ “Vai Mẹ” là bài cảm động nhất của một người con
nhận ra cái
cực nhọc cả đời của mẹ già:
“Mẹ gánh tám mươi năm mưa nắng
Phiên chợ bể dâu tan hợp bao lần
Một tang chồng, một quê hương cay đắng
Nuốt nước mắt vào cho cứng đôi chân.”
ĐKC:
Tuy Hòa có một trung tâm thành phố là Ngả Năm, thưa anh. Khi nói đến
Ngả Năm
tức là nói đến Tuy Hòa. Trách ai, anh ạ. Chỉ khao khát tự do, dẫn hết
phố phường
“xuống biển,” một nơi mà mình là những chú hải âu bay bổng giữa
trùng khơi. Một
trời đất yên ả, thanh bình, thơ mộng “chiếu trải giữa trăng treo,”
bỗng phải nát tan.
Chẳng khác gì những đêm trăng ấu thơ xưa nằm nghe ba kể chuyện. Bầy
ngạ quỷ đã
biến đổi cả một đất trời. Xa lạ, như đã trả lời cho câu hỏi “Anh thấy
quê hương nay
sao? Ồ, tôi không để ý, mà sao thì cũng chẳng phải chuyện của tôi”
là vậy anh ạ. Một
“đất trời ai” lạc lõng ngay trên quê hương mình của một Từ Thức về
trần.
Tôi muốn nói thêm, thơ tôi, trong cố gắng, không có những câu, chữ
dư thừa. Đôi lúc
bị kéo dài nhưng đó là vì không thể rút ngắn hơn.
Mỗi năm có một ngày Mừng Hội Ngộ liên lớp từ thất đến tứ gặp nhau,
có thằng xích
lô, ba gác, lính lác, có thằng tỉnh trưởng, giám đốc được dịp làm
ra vẻ “nhẹ nhàng”
một bữa dẫu thường thì quanh năm chẳng dám ngước mặt chào, chẳng
dám một tiếng
mày tao. Lục thập cả rồi. Lá vàng thật không mong mùa thu tới,
nhưng mà không biết
rụng lúc nào, chỉ một cơn gió nhẹ.
Quên kể với anh bài “Vai Mẹ” có người nghi ngờ: làm sao đi bộ 60
cây số một ngày.
Tôi đã phải tính những đoạn đường Má tôi sớm hôm. Cả trăm cái chợ
trong tỉnh, xa
gần gì Má tôi cũng đã dẫm tới dẫm lui từ những năm mới mười lăm tuổi.
Cho đến
những năm chiến tranh khốc liệt, đoạn Tuy Hòa-Quy Nhơn, Tuy Hòa-Nha
Trang, hầu
như mỗi hai ba ngày là có một chiếc xe bị dẫm mìn nổ tung nhiều khi
không còn một
mạng. Hàng chục năm trời, Má tôi ngày nào cũng chơi vơi trên hai đoạn
đường đó để
lo cơm áo cho chồng con! Người ta cũng cộng trừ nhân chia, thắc mắc:
“mẹ gánh tám
mươi năm mưa nắng” không lẽ mới đẻ ra biết gánh rồi (trời đất, mấy
ông nhà thơ “đời
mới” cố bới lông…) nhưng họ quên là “gánh đầu đời trĩu xuống bóng mồ
côi!” Để
rồi, năm tháng cứ qua đi “nhật nguyệt gánh đi không theo mẹ về”! Có
điều, khi được
họ bàn tán thì mình cũng cảm thấy vui vui.
LTT:
Trước khi kết thúc cuộc trao đổi này, xin anh cho tôi hỏi thêm câu
này nhé. Nếu có
thể được, xin anh vui lòng kể lướt qua một chút về các sinh hoạt
văn học nghệ thuật
vào những năm thập niên 1960-1970 ở tại Tuy Hòa nói riêng và Phú
Yên nói chung?
Lúc bấy giờ ở Tuy Hòa có tạp chí văn học nào không anh? Các tác giả
tên tuổi ngày
ấy nay còn những ai? Các vị này nay còn tiếp tục sáng tác hay đã
nghỉ hưu hết?
ĐKC:
Theo tôi biết, trước 1975, Tuy Hòa có một số các cây bút thành danh
như Trần Huyền
Ân – tác giả tập thơ Thuyền Giấy – viết văn và thơ, hiện nay vẫn
sáng tác mạnh; Đỗ
Chu Thăng với tập thơ Chân Cầu Cũ; Hoàng Đình Huy Quan – tác giả của
Mở Cửa
và Phóng Thích; Nguyễn Lệ Uyên, sau 1975 viết dưới tên thật Đoàn Việt
Hùng với
vài tác phẩm truyện ngắn và biên khảo được in trong nước và mới đây
Thư Ấn Quán
vừa xuất bản hai tác phẩm mới; Phạm Cao Hoàng - tác giả của hai thi
phẩm Đời Như
Một Khúc Nhạc Buồn và Tạ Ơn Những Giọt Sương và mới đây Thư Ấn Quán
cho ra
đời tập thơ Mây Khói Quê Nhà; Khánh Linh với tập thơ Trên Thảm Xanh
Đời. Ngoài
ra, có những cây viết tỉnh ngoài sống và thành danh ở Phú Yên như Y
Uyên, Quán
Như, Mang Viên Long, Bùi Đăng, Phạm Ngọc Lư.
Tuy Hòa có hai tạp chí văn học: SÓNG do Hoàng Đình Huy Quan và Nguyễn
Phương Loan chủ trương và HIỆN DIỆN do Trần Huyền Ân và Phan Việt
Thủy chủ
trương.
Tôi không nhớ các tạp chí ấy sống được bao nhiêu số, nhưng chắc một
điều là không
quá năm số. Sau 1968 tôi vào quân ngũ nên không tham gia các sinh
hoạt này nên
không biết nhiều.
LTT:
Thưa anh,
Rất cảm ơn anh đã chia sẻ qua vài nét sinh hoạt văn học nghệ thuật
Tuy Hòa – Phú
Yên ngày trước cũng như bây giờ cùng hoàn cảnh ra đời của nhiều bài
thơ trong thi
phẩm “ Để Trăng Khuya Kịp Rót Đầy Sớm Mai ” mà anh sắp ấn hành. Với
cảm nhận
chủ quan của một người đọc, tôi nhận ra rằng thơ anh vang vang tiếng
vọng từ những
tầng ký ức của một dòng đời mà anh đã trải qua giữa những mùa binh
lửa cùng những
biến thiên thời cuộc với kiếp người mong manh giữa trùng trùng gian
nguy cơ cực.
Hết thảy những bể dâu ấy khiến chất thơ anh có thần hồn và chính nhờ
cái thần hồn
ấy tôi tin thơ anh sẽ làm rung động trái tim người đọc. Tôi hy vọng
như vậy, thưa anh.
Xin chúc mừng anh với đứa con đầu lòng mặc dù anh đã làm thơ hơn bốn
mươi năm!
ĐKC:
Cám ơn anh nhiều, anh Lương Thư Trung. Có chút bùi ngùi khi anh em
ngừng trao
đổi với nhau. Những ngày qua thật là thú vị với tôi. Thực lòng mong
có thêm những
lúc anh em được gặp nhau. Kính chúc anh và gia đình vạn an.
Houston, 21-01-2011
No comments:
Post a Comment