ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH...
Nguyễn Thanh Giang
Trong những ca khúc viết về các vị sĩ quan của QLVNCH đã
tử trận một cách hào hùng như Rừng Lá Thấp (Đại Úy TQLC Vũ Mạnh Hùng), Bắc Đẩu
(Đại Úy Thiết Giáp Nguyễn Ngọc Bích), Người Ở Lại Charlie (Trung tá Dù Nguyễn
Đình Bảo), Người Chết Trở Về (Thiếu Úy Biệt Động Quân Phạm Thái) ..v.v. có lẽ
“Anh không chết đâu anh” là bài hát nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh
đã viết về thể loại này. Bài hát đã ca ngợi cái chết của “người anh hùng mũ đỏ
tên Đương”, tức cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của tiểu đoàn 3 Nhảy Dù đã hy sinh
trên chiến trường Hạ Lào vào đầu năm 1971 và được Nhật Trường trình bày lần đầu
tiên trên các phương tiện truyền thông thời đó.
Năm 1972, bài hát này lại được ca nhạc sĩ Nhật Trường-Trần
Thiện Thanh soạn thành một vở “phim kịch” ca nhạc để dàn dựng trên sân khấu và
quay phim ngoại cảnh rất công phu. Nhạc sĩ đã viết thêm các tình tiết có đối
thoại và mời nhiều nghệ sĩ khác cùng góp mặt. Chuyện phim kịch này dài chừng 45
phút đã được trình chiếu rất nhiều lần trên đài truyền hình (đen trắng) khắp
các tỉnh miền Nam VN trước năm 1975. Hai vai chánh và cũng là hai giọng hát
trong đoạn phim kịch này là ca sĩ Nhật Trường và Thanh Lan đã làm cho không
biết bao nhiêu người phải rơi nước mắt, xót thương cho một thảm cảnh gia đình
nát tan trong thời chinh chiến. Bài hát này được viết theo nhịp điệu chiến
tranh, thương tiếc bằng dòng nhạc dạo đầu, trước khi ca sĩ Nhật Trường cất
tiếng ca:
“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm, một bông dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào, từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng, tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi,
anh đi
Anh không chết đâu anh ….”
Sau mười tám năm dài kẹt lại ở Việt Nam dưới chế độ cộng
sản, năm 1993 ca nhạc sĩ Nhật Trường đã đến định cư tại Hoa Kỳ. Ngoài việc sáng
tác, thu thanh các bài hát vào dĩa CD, thu hình vào DVD và trình diễn ở sân
khấu đại nhạc hội khắp nơi; người nhạc sĩ tài hoa này đã nhanh chóng thực hiện
lại những chương trình phim kịch của ông soạn ra trước kia, trong đó có phim
kịch “Trên Đỉnh Mùa Đông”. Đoạn phim kịch này đã được thực hiện lại rất công
phu ở Mỹ và được Nhật-Trường Productions phát hành thành video và DVD vào năm
1997. Trong phim kịch này Nhật Trường đóng vai Đại Úy Dù Nguyễn Văn Đương,
Thanh Lan đóng vai người vợ là Nguyễn Thị Lệ, Trần Thiện Anh Chương đóng vai
Trung Sĩ Toàn, Nguyễn Ngọc Nhơn đóng vai Thiếu úy Nhơn. Qua phim kịch này, với
những bài hát “Trả lại em yêu, Nửa hồn thương đau, Anh không chết đâu anh, Trên
đỉnh mùa Đông”, đoạn phim đã đưa khán giả trở về đất nước Việt Nam trong thời
chiến tranh khói lửa. Nhật Trường đã hát những lời thương tiếc:
”Anh không chết đâu anh, anh chỉ về với mẹ mong con
Anh vẫn sống thênh thang, trong lòng muôn người biết
thương đời lính
Trong tim cô sinh viên hay buồn, thường nhắc nhở những
chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học, chuyện anh, riêng
anh, riêng anh …”
Đó là ngày mùng ba Tết Tân Hợi (29-01-1971) ở miền nam
Việt Nam. Trong lúc mọi người dân ở hậu phương đang vui hưởng những ngày Xuân
đầm ấm, thì toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù (trong đó có Trung Úy Nguyễn Văn Đương) đã
âm thầm di chuyển bằng không vận từ các căn cứ gần Sài Gòn ra Đông Hà, Quảng
Trị. Lần lượt các đơn vị Dù đã được không tải đến những địa điểm ấn định từ
trước, phối hợp với các đơn vị bạn như Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Thiết Giáp, Biệt Động
Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Không Quân và quân đội đồng minh Hoa-Kỳ… để chuẩn bị
tham dự cuộc hành quân lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử hai mươi năm
chiến tranh VN (1955-1975). Cuộc hành quân này được mang tên là “Hành Quân Lam
Sơn 719” nhằm tiến quân đánh thẳng vào các căn cứ tiếp vận quan trọng của cộng
sản ở đường mòn HCM, vùng Hạ Lào (tức là vượt biên 25 km qua lãnh thổ của nước
Lào). Lam Sơn là quê hương của anh hùng Lê Lợi, người đã đánh đuổi giặc Minh
ngày xưa (năm 1427). Con số 719 là gồm 71 là năm 1971 và số 9 là quốc lộ 9 là
con đường huyết mạch để chuyển quân trong chiến dịch này (nên gọi là “Hành Quân
Lam Sơn 719”). Kế hoạch hành quân Hạ Lào gồm có 4 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Bắt đầu từ ngày 29.01.1971, Quân đội
Việt-Mỹ sẽ hành quân phối hợp để giải tỏa các khu vực gần biên giới Lào và tái
chiếm căn cứ Khe Sanh (đã bị bỏ hoang từ năm 1969). Căn cứ này được đặt tên là
Hàm Nghi và sẽ là nơi đặt bộ chỉ huy và cũng là nơi tiếp liệu cho cuộc hành
quân này.
– Giai đoạn 2: Lực lượng hành quân VNCH gồm 3 cánh quân
(Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân) tiến theo quốc lộ 9
đến thị trấn Tchépone của Lào, để đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương.
– Giai đoạn 3: Sau khi chiếm được Tchépone, các lực lượng
hành quân sẽ tảo thanh căn cứ địa 604 của CS Bắc Việt, nằm ngay trên đoạn đường
mòn HCM này.
– Giai đoạn 4: Các lực lượng của QLVNCH sẽ từ mật khu 604
di chuyển về phía Tây Nam càn quét căn cứ địa 611 và sau cùng là rút quân toàn
bộ cùng với các chiến lợi phẩm trở lại Việt Nam.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ lúc tám giờ sáng ngày 8-2-1971, khi
TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình toàn
quốc như sau: “Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục
tiêu duy nhứt là phá vở hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất
Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và sử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào VNCH.
Ngoài ra VNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao vì VNCH luôn luôn tôn
trọng nền độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của vương quốc Ai-Lao”.
Lực lượng hành quân phía VNCH do Trung Tướng Hoàng Xuân
Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I, chỉ huy với tổng cộng hơn 17,000 quân nhân. Sư Đoàn
Dù là lực lượng nồng cốt của cuộc hành quân này và được phân nhiệm như sau:
– Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn và các đơn vị yểm trợ đóng tại Khe
Sanh (Hàm Nghi)
– Lữ Đoàn 1 Dù gồm các Tiểu Đoàn 1,8,9 cùng Thiết Đoàn I
Kỵ Binh theo quốc lộ 9 thiết lập căn cứ hỏa lực A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhứt
của cuộc hành quân Lam Sơn 719.- Lữ Đoàn 3 Dù với Bộ chỉ huy Lữ Đoàn và Tiểu
Đoàn 3 Dù đóng tại căn cứ hỏa lực 31 (cao điểm 456), với pháo đội trưởng của
Pháo Binh Dù là Đại Úy Nguyễn Văn Đương.
Tiểu Đoàn 2 Dù đóng quân tại căn cứ 31 (cao điểm 727)
Tiểu Đoàn 6 Dù được trực thăng vận xuống phía bắc của căn
cứ 31 vài ngày sau đó.
– Lữ Đoàn 2 Dù gồm các Tiểu Đoàn 5,7,11 là lực lượng trừ
bị và đóng tại Tà-Bạt (Lao Bảo).
Sau khi ổn định và củng cố lực lượng, các đơn vị tung quân
ra phía ngoài chu vi phòng thủ để thiết lập tiền đồn và tảo thanh, càn quét
vùng trách nhiệm. Các tiểu đoàn Dù, Bộ binh và Biệt động quân đã khám phá và
tịch thu được nhiều kho vũ khí, thực phẩm, nhiên liệu. Cộng sản liền huy động
toàn lực cấp quân đoàn gồm 4 sư đoàn và các trung đoàn xe tăng và pháo binh. Kể
từ ngày 18-2-1971 cho đến ngày 25-2-1971, cộng sản Bắc Việt đã tấn công và
chiếm được 2 căn cứ hỏa lực Ranger North và Ranger South do Biệt Động Quân trấn
đóng. Cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng, như lời kể lại của một
Chuẩn Úy BĐQ như sau: “Hàng mấy trăm xác VC nằm la liệt khắp nơi, chồng chất
lên nhau. Những mảnh rocket, những mảnh đạn súng cối văng tứ tung. Mùi khét
lẹt, ghê rợn của thuốc súng, của da thịt những người đã chết. Tiếng kêu gào
thảm thiết, đau đớn của những người ngắc ngoải …”
Ngày 23-2-1971 quân CS bắt đầu tấn công căn cứ hỏa lực 31,
nhưng bị đẩy lui. Ngày hôm sau CS tăng cường cuộc tấn công với sự yểm trợ của
20 thủy-xa PT-76, nhưng vẫn bị thất bại. Sang ngày 25, CS dùng pháo binh chận
đứng sự tiếp viện của 2 căn cứ A-Lưới và 30, và đồng thời tung toàn lực tràn
ngập căn cứ hỏa lực 31. Cộng sản đã thiệt mất 1,000 quân và 11 thủy xa và chiến
xa T-54 để chiếm được căn cứ này. Một sỹ quan Dù đã ghi lại những giây phút sau
cùng của căn cứ hoả lực 31 hay đồi tử thần này như sau: “Lần tấn công thứ 3, VC
đã trả đũa bằng một trận mưa pháo tàn khốc, dài suốt nửa tiếng đồng hồ, làm
rung chuyển căn cứ như một trận động đất. Lần tấn công này, chúng đã huy động
toàn lực còn lại của Sư Đoàn do tên Đại Tá Chơn trực tiếp điều động, tiến lên
bằng bốn hướng với đội hình nhảy cóc. Chủ lực của quân ta đương đầu với địch
đợt này là các chiến sỹ tham mưu. Người anh cả của Lữ Đoàn là Đại tá Nguyễn Văn
Thọ và Trung Tá Châu, Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh đã đứng sẳn bên chiếc máy
truyền tin để truyền lịnh cuối cùng. Các Sĩ quan Tham Mưu của chúng tôi còn
lại, chia nhau mỗi người một thùng mìn claymore đặt ngay trên tuyến cuối cùng
của trận tuyến. Sau khi đã chuẩn bị xong, quân Cộng tràn lên như kiến cỏ, ai
cũng đều thốt ra câu ‘hàng sống chống chết’. Đúng như kế hoạch, Đại Tá Thọ ra
lệnh: ‘Bắn trên đầu chúng tôi ngay lập tức’. Lệnh vừa chấm dứt, một trận mưa
pháo khủng khiếp từ khắp các vị trí yểm trợ phóng tới bằng đạn “đầu chụp” họp
cùng với những mảnh mìn claymore xuyên ngang. Địch quân không còn cách nào cứu
chửa, máu chảy lai láng trên mặt đồi, có chổ đọng lại như vũng nước. Những tên
còn sống sót cắm đầu chạy hoảng xuống hầm. một toán lao mình xuống trước, bị
ngay một trái lựu đạn của thiếu tá Hiền tung ra chết không còn một đứa. Thiếu
Tá Hiền cũng đã hy sinh dũng cảm. Ở phía dưới đầu hầm bên kia, tiếng nổ chát
chúa của một băng đạn súng ngắn như vội vàng tiêu diệt kẻ thù, rồi Đương, người
Pháo Đội Trưởng, đã dành lại cho mình viên đạn cuối cùng.” (theo Phạm Huấn,
“Trận Hạ Lào”,).
Đó là những giây phút sau cùng của người anh hùng Trung Úy
Pháo Thủ Dù Nguyễn Văn Đương. (Sau khi hy sinh, ông được vinh thăng lên Đại
Úy). Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã viết như sau:
“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm
mầu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không
anh ?
Không! anh không, anh không chết đâu anh, anh mới vừa bỏ
cuộc đêm qua ….”
Đúng 6 giờ 30 phút ngày 25-2-1971, căn cứ 31 Hạ Lào đã
hoàn toàn lọt vào trong tay Bắc Quân và Trung Úy Nguyễn Văn Đương cũng đã vĩnh
viễn nằm lại ngọn đồi máu đó với viên đạn sau cùng tự tay ông bắn vào đầu mình.
Trong cuốn hồi ký “Một cánh hoa dù” Thiếu tá Dù Trương Dưỡng đã kể lại như sau:
“Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng
Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là:” Xe tăng Việt
Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống
tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong
gồm BCH Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Trung Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo đội 33 của Nguyễn
Văn Đương. Thấy tên người nhiều như vậy, nhưng lúc đó quân số đã hao hụt, chỉ
còn trên dưới 400 người. Đại Tá Thọ, Trung Tá Châu … bị bắt. Đại Úy Đương tuẫn
tiết.” Đến ngày 25-3-1971, hầu hết các đơn vị QLVNCH đã rời khỏi Lào và chấm
dứt chiến dịch hành quân Lam Sơn 719. Kết quả của cuộc hành quân này được ghi
nhận như sau:
– Mỹ: 176 chết, 1942 bị thương, 42 mất tích. Thiệt hại:
108 trực thăng và 7 phi cơ bị phá hủy.
– VNCH: 1483 chết, 5420 bị thương, 691 mất tích. Thiệt
hại: 75 chiến xa, 405 xe vận tải, mất 198 vũ khí cộng đồng & 3000 vũ khí cá
nhân.
– CSBV: 13535 chết, 69 tù binh. Thiệt hại: 76 đại bác, 106
chiến xa, 405 xe vận tải bị tịch thu & phá hủy, 1934 vũ khí cộng đồng và
5066 vũ khí cá nhân bị tịch thu.
Những hình ảnh của trận chiến Hạ Lào này đã được ghi lại ở
cuồn DVD “Những vì sao thời lửa đạn” do Vietnamese Broadcasting Company ở Mỹ
phát hành vào năm 2005. Đây là một trong những trận chiến đẩm máu nhứt của lịch
sử chiến tranh Việt Nam. Với quân số của CSBV đông gấp 3 hoặc 4 lần quân đội
VNCH và họ được nghỉ ngơi tại chổ với nguồn tiếp liệu dồi dào. Trong lúc phía
quân đội VNCH bị mệt mõi, thiếu thốn đủ thứ vì phải di chuyển từ xa. Kết quả là
sau cuộc hành quân này, phía VNCH đã bị thiệt hại hàng trăm sỹ quan tinh nhuệ
và hàng ngàn chiến sỹ, không cách gì đào tạo lại kịp cho đến năm 1975 là lúc
tan hàng. Đây cũng là lần thứ nhì QLVNCH đã hành quân ra khỏi lãnh thổ VNCH.
Trước đó, năm 1970 cuộc hành quân Toàn Thắng tiến sâu vào mật khu VC (TW Cục R)
ở bên đất Cam-Bốt đã thành công rực rỡ. Nhưng lần này thì coi như cả hai phe
Nam Bắc đều bị thiệt hại nặng nề. (Nhưng phía Mỹ thì tuyên bố là VNCH đã thành
công trong chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” và Mỹ rút hết quân đội về
nước, để cho VNCH gồng mình đương đầu với quân cộng sản).
Trở lại với phim kịch “Trên Đỉnh Mùa Đông” là cảnh Thanh
Lan ngồi gục đầu bên ngọn đèn cầy leo lét trên bàn, giữa đêm mưa gió bão bùng
ngoài trời. Đưá con trai nhỏ thì đang say ngủ trong giường bên cạnh. Bổng dưng
Nhật Trường xuất hiện kế bên với khuôn mặt đầy máu và cất tiếng ca:
“Anh không chết đâu em, anh mới vừa bỏ cuộc đêm qua …”
Thanh Lan giựt mình đứng dậy:
– Đương, anh đã trở về rồi đấy ư ?
– Phải, anh đã trở về với em, với con ..Dào dạt tình
thương như những giọt mưa ngoài trời !
– Nhưng …sao mặt anh đầy máu như thế này ? Anh hãy ngồi
xuống đây để em băng bó vết thương cho anh .
– Vô ích! Viên đạn sau cùng là của anh, em nghe chưa ? Của
chính anh đã bắn vào đầu anh, vì anh không muốn rơi vào tay quân giặc.
– Như vậy là anh đã chết thật rồi sao ? Anh Đương ơi !
– Không! Chiến sĩ VNCH không bao giờ chết …
“Anh chưa chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua …
Sao cứ khóc anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ…
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh, cho
anh …
Không, anh không chết đâu em !
Chưa, anh chưa chết đâu em !”
Trong đại nhạc hội thu hình của Trung Tâm Asia vinh danh
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh vào ngày 18-2-2006, chỉ còn lại một mình Thanh Lan cô
đơn đứng trên sân khấu mà nức nở nghẹn ngào với bài hát này. Ta hãy đọc tâm sự
của nhà văn sỹ quan Dù Phan Nhật Nam đã kể lại sau khi xem đại nhạc hội này như
sau:
“Mở đầu, Trung Tâm Asia thực hiện lòng trân quý hoài niệm
đối với Nhật Trường Trần Thiện Thanh qua màn trình diễn vô cùng sinh động, thắm
thiết với nhạc phẩm “Anh Không Chết Đâu Anh” do Thanh Lan trình bày cùng với
đồng diễn của ban vũ Lạc Hồng. Với kỹ thuật dàn cảnh hiện đại cao nhất của nghệ
thuật sân khấu Hoa Kỳ, tập thể Asia đã dựng lại hoạt cảnh bi tráng trên Đồi 31
ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1975. Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ
và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng,
Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào
lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy. Trần
Thiện Thanh dựng nên chân dung bi tráng hùng vĩ của Người Lính. Ngôn ngữ, cấu
nhạc bi hùng của khúc hát đã thăng hoa về lần quyết tử lẫm liệt của Đại Úy
Nguyễn Văn Đương, và những chiến binh, pháo thủ của Tiểu Đoàn 3 Dù. Không có
tinh thần hiệp sĩ hiến thân của Người Lính không thể viết nên lời cực độ cảm
khích nầy. Không có tấm lòng từ nhân xót đau của Người Nghệ Sĩ không thể cấu
tạo nên dòng nhạc bi tráng thắm thiết như trên…
Và nếu không có rung động cảm thông với nỗi đau của Người
Lính, trong mối đau chung uất hận của Miền Nam. Thanh Lan không thể hát hay
hơn, hàm xúc thắm thiết hơn.. Để cuối cùng, Trung Tâm Asia đã phối hợp hiện
thực tất cả nên thành màn trình diễn đặc sắc đậm nét bi tráng thể hiện cuộc
chiến đấu bi hùng của toàn Quân-Dân Miền Nam.”
Để kết thúc bài viết này, xin đọc những lời nhận xét của
nhà văn Lê Tam Anh về việc thực hiện chương trình Asia-50 như sau:
“Trần Thiện Thanh rất xứng đáng được mọi người nhớ đến.
Khi anh chết đi, tôi có viết một bài nói về anh như một ngôi sao bắc đẩu vừa
vụt tắt. Cuộc đời của anh hình như vẫn gắn liền với người lính cho tới hơi thở
cuối cùng! Do đó tôi nghĩ một việc vô cùng ý nghĩa như khi Trung Tâm Asia tổ
chức show hát nhạc của anh, vinh danh anh với số khán giả kỷ lục. Người ta đã
nhớ đến anh qua những sáng tác của anh cho ngàn đời sau, cho lịch sử âm nhạc.
Theo tôi, nhạc và lời ca của anh đã gắn liền với lịch sử
dân tộc. Sau này 50 năm nữa hay 100 năm nữa, những thế hệ hậu bối muốn tìm hiểu
chuyện quá khứ, nhất là về giai đoạn chiến tranh tồi tệ nhất lịch sử Việt Nam
có sự hiện diện phá hoại của người CSVN, người ta có thể sẽ xem lại DVD này của
Asia để biết thêm về cuộc chiến cũng như về Nhật Trường – Trần Thiện Thanh.
Cuộc chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, chính anh, Trần Thiện Thanh
đã ghi đậm nét người lính VNCH, anh đã thi vị hóa những mối tình giữa người
lính và em gái hậu phương được thăng hoa thật đẹp đẽ.” Hy vọng ngày sau: Lịch
Sử sẽ sang trang và sẽ được viết lại theo đúng nghĩa, từ LỊCH SỬ.
Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh
đi
Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương
đời lính
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những
chiến công
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng
anh riêng anh
Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm
màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không
anh
Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ
cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh
…
Anh không chết đâu anh
No comments:
Post a Comment