Wednesday, December 4, 2024

NGÀY XƯA HOÀNG ĐẠO (CAO HOÀNG)

 

Ngày xưa Hoàng Đạo

 


 Tranh của bé Lam Giang, được triển lãm

tại Space Needle và in thành postcard.

 

Đó là lần đầu tiên tôi được học trong một lớp có trai

có gái. Lớp chỉ có năm mươi trò, chia làm hai dẫy. Con

trai ngồi bên phía cửa ra vào, con gái ngồi phía trong.

Thời gian vừa tàn cuộc chiến tranh Việt Pháp nên nhân sự

còn nhiều lộn xộn. Tôi phải học chung với những đứa nhỏ

hơn một hai tuổi như Lê Đông Hải, Nguyễn Quang Thụy,

Tôn Nữ Thu Hà... và những đứa lớn hơn bốn năm tuổi như

Nguyễn Thiên, Huỳnh Văn Em, Đặng Thị Lợi, chị Sum,

chị Thành... là những trò học lớp Nhứt nhưng có thể lấy

vợ gả chồng được rồi! Ngày 8 tháng 3 năm sau, là ngày

Quốc Tế Phụ Nữ cũng là ngày tưởng niệm Hai Bà Trưng,

hai chị Sum và Thành rất đẹp gái được đóng vai Hai Bà,

ngồi trên mình voi cao ngất ngưởng, còn lũ chúng tôi đi bộ

làm lính. Vào khoảng năm 1960 những cái cao thấp lộn

xộn đó được chính quyền giải quyết bằng cách cho khai

tên tuổi mới với giấy Thế Vì Khai Sinh; thế là những đứa

có tên Phan Xiếu, Diêu Đức Cu, Nguyễn Quang Ổn... biến

thành những đứa tên đẹp như tài tử, lại còn tha hồ rút tuổi

xuống.

Học chung với con gái tôi mới phát hiện rằng lũ này

rất tình cảm và mít ướt. Mới học được hai tháng thầy

Nguyễn Hữu Nghĩa của chúng tôi nhận lệnh động viên.

Thầy còn rất trẻ, da trắng hồng, rất đẹp trai, buổi chia tay

lũ trò gái rơi bao nhiêu là nước mắt. Nhưng xe phát thanh

của Ty Thông Tin cả ngày chạy lòng vòng từ Tân Hương

qua Phương Nghĩa, Từ Phương Quý đến Phương Hòa ra rả

vang lên bài hát nỉ non:

Vài hàng gửi anh trìu mến

Vừa rồi làng có truyền tin

Nói rằng nước non đang mong

Đi quân dịch là thương nòi giống

Lạy trời tròn năm trọn tháng

Nợ làng ơn nước anh đền xong

Mái nhà chốn quê thanh bình

Chờ anh bước về vui bên em

Năm sau thầy về trong đoàn quân diễn hành đều bước

ngoài đường phố. Thầy không trắng trẻo đẹp trai như hồi

dậy học, nhưng thầy đi ngoài bìa nên có những đứa trò gái

nhận ra chạy theo níu áo khóc như mưa... Mà khóc là phải,

từ đó chẳng bao giờ tôi gặp lại thầy. Cuộc chiến hung tàn

ngu xuẩn ấy chắc đã nghiền nát những người thanh niên

tươi trẻ trong đoàn quân năm ấy, dễ gì mà chừa ra người

nào!

Năm lớp Nhất tôi được học thêm với hai thầy nữa là

thầy Phạm Văn Nhàn, dạy ngắn hạn và thầy hiệu trưởng

Trần Xuân Hà dạy cho hết năm lớp Nhất. Giáo viên tiểu

học hồi đó thường phụ trách tất cả các môn, kể cả những

môn liên quan đến nghệ thuật như vẽ và thủ công, mặc dù

hầu hết các thầy không được đào tạo chuyên môn ấy. Thuở

bé đi học tôi chỉ mê vẽ và cứ hở ra một chút là đã có tôi hí

hoáy vẽ rồi. Tôi vẽ Ngô Quyền với trận Bạch Đằng Giang,

những cọc nhọn chĩa lên trời tua tủa đâm nát thuyền quân

Nam Hán. Tôi vẽ Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận; ở một góc

tranh không quên cái đuôi con trâu bị làm thịt để khao

quân cắm xuống bùn. Tôi vẽ Hưng Đạo Đại Vương chỉ tay

xuống dòng sông Hoá, vĩnh biệt con voi trận bị lún sình

với lời thề không về nữa nếu không diệt được giặc

Nguyên-Mông. Nói chung tôi chỉ vẽ những gì mà các sử

gia Việt Nam nhồi nhét vào cái đầu non nớt này, còn có

đúng hệt như thế không thì có trời mới biết. Cho nên đến

giờ vẽ nếu thầy mượn đôi guốc của Lê Thị Hoà hay cái

nón lá của Trần Thị Thiệt cho chúng tôi làm mẫu vẽ, thì

đối với tôi đó là những giây phút thần tiên. Tôi vẽ tranh

lịch sử trong trí nhớ hay vẽ theo kiểu của những đồ vật đặt

trước mắt không có gì gọi là sáng tạo cả; có vẽ đến mòn

giấy bút lũ chúng tôi cũng không bao giờ thành hoạ sĩ nhỏ

được!

Cơ hội đã đến, một hôm giờ vẽ thầy bảo: Hôm nay vẽ

tự do, trò nào muốn vẽ gì cũng được. Vẽ đẹp và sớm có

điểm tốt. Tôi nghe khoái quá, sau một hồi suy nghĩ lung

lao, tôi lấy ngón trỏ thọc vô lọ mực tím và bôi kín tờ giấy

vẽ một màu tím đậm. Với cây bút chì có một đầu gôm, tôi

bắt đầu chà vào tờ giấy vẽ. Mực tím theo gôm bung ra

những nét dài ngắn màu trắng nghiêng nghiêng lả lướt.

Huỳnh Phú cao kều chồm xuống hỏi:

- Mày vẽ cái giống gì vậy?

- Tao vẽ mưa đêm.

- Đêm tối thui làm sao thấy được giọt nước!

À há, may quá có nó nhắc nếu không là tiêu bức tranh

rồi. Tôi lấy cái ngòi bút lá tre nó cho hồi mới tới lớp còn

trong cặp ra cạo những đường zic zac liên tiếp, nhỏ mà sắc

nét. Huỳnh Phú lại chồm xuống coi, lần này nó gật gù:

- Đúng rồi phải có sấm chớp mới thấy mưa chứ!

Hoàng Thế Nào khôn thiệc!

Từ đó cái tên của tôi được đám Hoa Kiều bán thuốc

Bắc mà bố hay dẫn tôi đến mua thuốc đều tấm tắc khen;

ông thầy già nhất tay chắp sau lưng đi qua đi lại nhìn tôi:

“Woòng Xây Hầu hẩu, hẩu lớ”... thế mà nay bị nhiều đứa

trong lớp sửa đổi thành ra kỳ cục. Không sao! Túy, Ngân

Hạnh, Thu Hà, Mỹ Lan vẫn nhỏ nhẹ gọi tôi là trò Hào

cũng được mà. Rồi tôi nhanh chân lên nạp bức tranh để

kiếm điểm tốt. Cả lớp vẫn còn lui cui, nhiều đứa vẫn loay

hoay chưa biết vẽ cái gì! Tôi trịnh trọng giải thích với thầy

đây là bức tranh mưa đêm. Thầy ngắm tranh kỹ lưỡng

xong thầy ngắm tôi từ đầu xuống chân. Rồi thầy bảo:

“Xoè tay ra”, lấy cây thước kẻ thầy khẻ vào cái bàn tay

dính đầy mực tím hai

cái đau điếng với tội ở dơ!

Đau lắm vì cái thước kẻ ấy không bằng gỗ tạp mà

bằng thứ gỗ gì đen thui nặng lắm. Đau mấy tôi cũng chịu

đươc, nhưng tôi cứ nhớ mãi roi đòn vô lý ấy. Ông họa sĩ

vẽ bảng quảng cáo cho rạp hát bóng có lúc quên cũng lấy

cây cọ sơn quẹt lên mặt cho đã ngứa là thường mà, có sao

đâu. Tôi lủi thủi về chỗ ngồi không dám khoe ai kiệt tác

đầu đời nữa. Cũng may đứa bạn nào cũng đang nghiêng

đầu, ngoẹo cổ, méo mồm vẽ, không để ý gì.

 

* * *

 

Ba mươi năm sau khi đã định cư ở thành phố Tây Bắc

Mỹ, một hôm tôi nhận được thư của một nhà xuất bản nhỏ.

Họ xin phép được dùng bức tranh của bé Lam Giang, cô

con gái út 8 tuổi của tôi để in thành postcard lưu hành

khắp nước. Tranh với đề tài Mom đang triển lãm tại tháp

Space Needle. Họ mong tôi trả lời sớm để họ có thể phát

hành trước Mother’s Day. Dĩ nhiên là tôi đồng ý. Không

biết nhà xuất bản có thấu được cái ý tưởng của con bé 8

tuổi trong bức tranh, hay chỉ nhìn thấy mầu sắc tươi đẹp,

hài hoà và một đống lộn xộn rất lạ mắt. Cô giáo dậy vẽ

Joann Seeler và người trong nhà thì hiểu ngay bé đang ca

tụng bà mẹ, cũng giống như thi sĩ Trần Tế Xương làm bài

thơ xót thương người vợ hiền vô cùng cảm động:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

. . .

Có lẽ cũng vất vả như những bà mẹ khác thôi; Lam

Giang vẽ nó, đứa con cưng mà mẹ phải lo toan nhiều nhất

đứng giữa, chung quanh đó: con mèo Maxim luôn luôn đòi

ăn uống và đi chơi. Buổi sáng khi em đi học bằng xe bus

nhà trường đậu trước nhà, mẹ thường ngăn không cho chó

Fido gậm cái backpack lôi kéo em ở lại chơi với nó. Nếu

mẹ quên thì có bà lái xe bước xuống can thiệp, nhưng Fido

giận, sủa ầm ỹ. Mẹ còn phải lau chùi cái xe hơi màu xanh,

cho con blue jay từ trên cây thông bay xuống ít củ hạt khi

nó dạn dĩ đến trước cửa kính gõ lạch cạch. Nghĩa là mẹ

bận lắm, thế mà khi đêm về vẫn muốn ôm bé vào lòng kể

chuyện cổ tích, đôi khi là chuyện vượt biển oai hùng với

con thuyền nhỏ xíu của bố trong đại dương bao la... Còn

thiếu gì nữa không trên vành nón của mẹ?... Có người hỏi:

“Hai cái vòng tròn ở trên má, dưới mắt, có phải cặp kính

không? Năm ấy mẹ bé còn trẻ lắm chưa phải đeo kính. Xin

giải thích: đó là bé còn ngây thơ tô hồng đôi má của mẹ

nhưng giới hạn mầu hồng trong hai khoanh tròn đó thôi!

Ôi sao con bé lucky thế chẳng bù cho bố nó”.

 

* * *

 

Những ngày tháng qua thật nhanh, chúng tôi đang học

lớp Chín, đệ tứ niên, là đàn anh đàn chị trong trường

Hoàng Đạo rồi. Vào dịp Tết năm ấy lớp Chín tôi đi cắm

trại một ngày. Địa điểm cắm trại dĩ nhiên phải ở gần sông

để có nước cho các nàng trong lớp trổ tài nấu ăn. Trên

cánh đồng rộng thầy Phương tổ chức các trò chơi, thầy

Chút lo văn nghệ, có Huỳnh Văn Em với cây đàn guitar,

Vương Đình Thanh đánh mandoline xập xình ríu rít tiếng

nhạc. Một dẫy lều dựng lên đơn sơ nhưng đúng kiểu cách

dây nút hướng đạo dưới tàn cây thưa lá. Mới sớm mà lửa

khói đã chập chờn nơi các mái lều thân thương quá. Các

thầy bảo: “Chiều mới văn nghệ, giờ chơi tìm mật thư, có

giải thưởng lớn”. Tôi không thích chơi tìm mật thư nên

một mình trốn ra bên sông Dakbla. Mùa này sông thật đẹp.

Nước êm êm trôi theo dòng cát trắng tinh, lâu lâu gặp chỗ

nhiều sỏi đá sông reo lên vui vẻ, bên kia sông có nhiều

chim rừng và cò trắng bay lượn, đúng là một ngày đẹp

thanh bình. Có lúc tôi cởi quần áo xuống sông không bơi

mà thả ngửa yên lặng nhìn trời mây non nước; đến gần

trưa mới trở về trại.

Khi đi ngang qua một cái lều, tôi nghe một giọng con

gái gọi nhỏ: “Thế nào, Hoàng thế nào có muốn ăn chè

không?”. Tôi dừng lại ghé mắt nhìn vào trong thì thấy một

trong tứ đại mỹ nhân của lớp, tay bưng chén chè đậu đen,

mắt cười long lanh mời mọc. Tôi đỡ lấy chén chè từ từ

đứng ăn, mà làm gì có ghế để ngồi. Hắn ta mặc áo dài đen,

một mầu đen ngà voi kênh kiệu, da trắng hồng, tóc nâu sợi

nhỏ thướt tha. Tôi thầm nghĩ: cắm trại mà mang áo dài

theo, và cả guốc cao gót nữa, hắn muốn khoe hay nhát ma

ai đây! Ăn xong tôi để bát với muỗng xuống đất và dợm

bước đi, nhưng hắn ngăn lại: “Từ từ đợi chút, có nước trà

cho uống nè”. Tôi đành nán lại. Bỗng hắn ranh mãnh hỏi:

- Còn đau không?

- Cái gì đau?

- Thì bàn tay đó!

- Bàn tay nào cơ?

- Thì bàn tay có ngón thọc vào lọ mực đó.

Lúc này tôi mới hiểu ra giật mình thót người. Hình

như trong lớp chỉ có mình hắn biết tôi bị đòn; mà sao nhà

hắn nhớ dai đến thế để chọc ghẹo mình cho được! Bỗng

hắn nói như ra lệnh: “Đưa tay đây coi”. Tôi chưa phản ứng

ra làm sao thì hai tay hắn chụp lấy bàn tay tôi, mắt cứ nhìn

đăm đăm. Thật tình mà nói mấy năm liền chưa bao giờ tôi

dám nhìn thẳng vào hai con mắt đẹp ấy... và như một chú

ngỗng đực dại khờ, tôi giựt tay ra, bước nhanh khỏi lều, lại

còn mừng thầm vì các bạn tôi chơi mật thư đang lũ lượt

kéo về. Nhưng cũng từ buổi ấy bàn tay trái hết đau. Tôi

không còn giận thầy mình nữa.

 

CAO HOÀNG.

No comments: