Vợ Lính Thời Chinh Chiến
Trong các chị em gái của gia đình, tôi là
đứa con gái nhút nhát nhất.
Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ
nghe tiếng súng nổ, nên tôi
không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần
đông các cô gái khác
thích những chàng trai trong bộ quân phục
oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi. Ba tôi là viên chức hành chánh,
ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.
Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968,
chúng tôi nghe tiếng gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa
kỹ lại. Ông bỏ cây súng nhỏ vào tú quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc
rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy
của họ ở tạm trong phòng khách. Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành
quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.
Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng
không phá phách gì như một số người đồn đại. Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách
nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc sống
gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này. Chúng tôi lịch sự
không đi tới lui trong phòng khách.
Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những
câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đình
và người yêu. Chúng tôi thông cả và thương mến họ hơn.
Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan
chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia
đình. Ông sĩ quan này mượn phòn khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ
thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa. Câu “quân dân như cá nước” là
đúng, chúng tôi thân tình rất mau, có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem
ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính
chiến trong bộ quân phục rằn ri không còn nữa.
Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp
nhà tôi sau này. Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua
sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên. Một thời gian
sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn lên đường đi hành quân.
Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng “Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi
không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà.” Và anh không
muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn.
Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh
thoảng tôi chỉ nhận được thư. Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần
Sài Gòn, đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.
Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân
đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có
người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người. Sau những ngày nghỉ phép cưới
vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc
lâu hơn tùy tình hình chiến sự.
Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề
biết trước nhưng dễ nhận ra ngay. Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng
xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm. Anh trở về nhà
gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn. Bận rộn với giấy tờ, điện thoại
và dặn dò người này người kia liên tục. Tôi hiểu anh không có thì giờ để nghĩ đến gia
đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi
theo chồng: “Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con.” Ăn cơm tối xong
anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn
là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa
đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong nhà, có buồn trở
về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú. Tôi hiểu anh muốn ám chỉ
điều gì, tôi nghe lòng tê tái. Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử
tuất để thành góa phụ! Không, tôi chỉ cần chồng tôi.
Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba
giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính. Trong cảnh lờ mờ
tối, tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón
sắt. Trong số đó sẽ có người không trở lại.
Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại
lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất
đẹp. Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng
ngang hông, lòng tôi tê tái, có một cái gì
đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh
và im lặng. Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: “Thôi anh đi”.
Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều hơn như những lần anh
đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè.
Anh sợ làm tôi khóc. Tôi muốn nói anh cố sớm
trở về với em, nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay. Tôi cố
gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi
trong lòng tôi. Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về không? Không
thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi
diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi.
Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho
em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự
hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.
Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn
tôi chỉ biết vào phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin
buồn. Có lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại
nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới
đi. Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau. Nhưng đến tối
có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi. Thế là
mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.
Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh
đóng quân tại Bến Tre, anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ
Tho. Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là
đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi. Sáng ngày ấy ba tôi
chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc
cỡ với cái áo bầu khoác ngoài.
Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi
nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn còn e thẹn. Sau khi chúng tôi hàn huyên được
nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng
tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm.
Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền
tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay. Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng
món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về
Sài Gòn sau buổi cơm.
Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.
Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức
giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra
ngoài để xem chuyện gì xẩy ra.
Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi
tiếng khóc của người vợ trẻ vừa
được tin chồng tử trận ngoài chiến trường,
cùng đi hành quân chung đơn vị
với chồng tôi. Chị khóc lóc, kêu gào, gọi
tên chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa. Tôi trở lại giường
nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho
bản thân mình.
Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang,
gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa
con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng. Chúng nó vô tư không biết gì,
thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào
làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương lòng của chị
mà thôi. Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có
điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói vì thầy bói nói
vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng
cú kêu.
Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với
chồng tôi, nhà ở trong cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không
chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần
thay mặt gia đình đi dự đám tang qúa nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận. Tinh
thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp.
Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc
an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh
khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người
chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành
người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tao khang, quen biết từ thuở
còn niên thiếu.
Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ
phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô
bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị “mắc phong long”. Mấy ngày sau tôi rời
nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia. Nhìn anh đi tôi khóc mãi
vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị “Cáp duồn”. Mẹ tôi khuyên “Con mới
sanh khóc như thế không tốt đâu”.
Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi,
tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con,
nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.
Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc
hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không
thích lắm. Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng
ngày. Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có các sĩ
quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp
tục lo lắng cho anh. Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe
lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đã bình yên trở về. Có
những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào phòng ngồi bất
động âm thầm cầu nguyện.
Tình thương đã khiến tôi rất thính tai,
tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe
được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi
ra ôm lấy con và cùng nhau
ra đón ba nó. Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay
ôm choàng lấy con, một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích
đầu tiên đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà
đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn
trú địa phương.
Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt
đi nỗi lo âu để yên tâm
làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh
xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu
đã cho anh ngày rửa tội. Tôi nói “Anh nhớ
luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ
anh và em đỡ lo lắng cho anh.” Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên
tôi nói thêm “Anh thương em hãy nhớ lời em dặn.”
Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng
ngày càng sôi động, cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại,
để anh không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần
này tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.
Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến
chấm dứt thì những ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu. 30/04/75 đã chấm dứt cuộc
đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo. Riêng
tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi
chồng về mỏi mòn hơn.
Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về.
Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những
chỗ bị đứt đã nối lại và rơi mất một hạt.
Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13
năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có
làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.
Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của
bao nhiêu người vợ trẻ.
Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu
linh, một dân tộc bất hạnh
triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.
Thôn Nữ Bàu Trai
No comments:
Post a Comment