Hồi ký tù cải tạo: Trái tim anh bộ đội
Bùi Hùng·
Nam Việt Nam, cuối năm
1975.
Trong khuôn viên trại 2 có
nhiều dãy nhà kho tiền chế khung sắt, mái và vách bằng hợp kim nhôm. Những tấm
nhôm bề ngang 1.2 mét, cao 2.4 mét, uốn sóng vuông rất chắc chắn. Chúng được
gắn vào khung bằng hàng ngàn con ốc thép không gỉ. Khung các cửa sổ toàn bằng
nhôm cứng. Những dãy nhà này truớc đây có hệ thống máy lạnh nhưng máy đã bị
tháo gỡ, chỉ còn lại các ống chuyền hơi. Giá mỗi nhà nghe đâu lên đến hàng chục
ngàn đô la. Sau vụ nổ, một số bị hư hại.
Một hôm, các đội được gọi
đi lãnh các cây cọc sắt ấp chiến lược và được lệnh tháo gỡ những căn nhà đó
bằng một cách rất bán khai. Chúng tôi đứng quanh căn nhà, dùng cây sắt phang
mạnh vào các nơi có các con ốc thép cho đến khi tấm tôn bị rách và bung ra. Thì
ra những anh bộ đội miền Bắc chưa hề biết đến con ốc và những chìa khoá để vặn
ốc. Sau mấy ngày đem sức người ra cật lực làm việc, vùa phồng tay, vừa rách
chân, hàng trăm tấm tôn đã được tháo ra khỏi khung nhà. Chúng tôi chất thành
những đống cao nghệu những tấm tôn rách nát, vặn vẹo. Không có lấy một tấm nào
còn nguyên vẹn. Một số anh, chắc có cái nhìn xa, đã nhanh chóng tháo gỡ những
thanh nhôm cửa sổ đem về dấu trong phòng.
Qua hôm sau, anh đội trưởng
đi họp trên Ban Chỉ Huy về (họ gọi là giao ban) tập họp một nhóm các anh khéo
tay và biết qua về việc gò rèn. Anh nói:
- Trại muốn các anh làm ra
các thùng gánh nuớc, gàu nước, thùng tưới từ các tấm nhôm đó.
Trong cả hàng trăm tấm nhôm
ngổn ngang, các anh chỉ tìm ra được khoảng vài chục tấm là còn tương đối xài
được.
Anh Lê Thế Sự, cán bộ đội
đã tỉ tê với anh X.:
- Tôi ước chi có một cái
hòm, anh có thể làm cho tôi không?
X. trợn trừng mắt ngạc
nhiên:
- Anh muốn cái hòm? Để chôn
ai?
Người miền Nam khi nói đến
cái hòm là nghĩ đến cái quan tài chôn người chết. Trong khi anh Sự muốn nói đến
cái rương, hay cái va li đựng áo quần. Thế là chỉ vài ngày sau, cái hòm anh Sự
hoàn tất. Coi cũng khéo, các góc cạnh vuông vức; có bản lề, có hai khoá móc hai
bên, có quai xách đàng hoàng. Từ đó về sau, các anh bộ đội khác cũng bắt đầu
kéo đến, ỉ ôi năn nỉ để nhờ làm hòm đem về Bắc. Anh nào cũng xuýt xoa khen:
- Gớm, các anh khéo tay
ghê!
Cả đời họ sống ở Bắc, chưa
bao giờ có được một thứ tài sản sang trọng như thế. Vì thế họ tỏ ra rất trân
trọng, biết ơn. Và món quà trả ơn thường là dấm dúi cho các anh thợ những gói
thuốc lá thơm hiệu Tam Đảo, Điện Biên. Tôi bắt đầu gia nhập nhóm làm lược, kẹp
từ các thanh nhôm gỡ ra ở khung cửa sổ. Những thanh nhôm này mỏng chừng hai li,
có độ cứng vừa phải nên dễ cưa và khắc chữ, chạm hình. Một anh tạo mẩu cắt ra
theo hình chiếc lược đàn bà có tay cầm đủ kiểu. Một anh khác cưa các răng lược
sao cho thật đều nhau, sau đó là dũa cho mịn các góc cạnh rồi mài hai mặt với
giấy nhám nước. Tôi phụ trách phần áp chót là vẽ những hình ảnh theo đơn đặt
hàng rồi dùng những chiếc đinh nhọn đã mài thành mũi dùi để chạm hình hay viết
chữ. Công việc này chúng tôi gọi là “xủi”. Hình thường là những hoa văn trang
trí, hay các thiếu nữ, hoặc hoa cúc, hoa hồng… Tôi có khả năng khắc lên những
dòng chữ nhỏ xíu mà khi đọc, phải dùng đến kính lúp. Tuy thế, chữ vẫn đều đặn,
tròn trịa như nét chữ viết bằng bút mực trên giấy. Khâu chót là đánh bóng.
Chúng tôi dùng giấy nhám nước đã thật mòn nhẵn, hay xà bông pha với tro bếp
mịn. Các hàng nhôm này sau khi đánh bóng, có thể soi mặt được.
Ban đầu là những món trang
sức phụ nữ, như kẹp tóc, lược, trâm cài đầu… mà anh em chúng tôi đặt vào đó bao
trìu mến để mong có dịp gửi về cho gia đình. Sau đó, có anh đã khéo tay chế ra
những bộ chén bát trà xinh xinh. Lúc này, chúng tôi đã chuyển qua hút thuốc
lào, vì thuốc điếu trở thành mặt hàng xa xí. Những ống nhôm từ vỏ trái sáng là
nguyên liệu làm ống điếu hay nhất. Vừa dễ kiếm, vừa dễ làm, lại vừa có thể
trang trí bằng những hình vẽ, hoa văn…
Các anh bộ đội cũng bắt đầu
để mắt đến các sản phẩm của chúng tôi.
- Lày anh Phúc, nàm cho tôi
một cái "nược" nhé. Cái lày đem về Bắc tặng bạn gái nà nhất.
Nhờ công việc này mà chúng
tôi được nhàn hạ một thời gian dài; lại có sự trao đổi thù lao bằng các gói
thuốc lá thơm hay bánh thuốc lào ba số tám; hay có thể nhờ các anh ấy mua sắm
vặt vãnh các thứ bên ngoài. Họ cũng sốt sắng kiếm vật liệu, mua dụng cụ cho
chúng tôi. Chúng tôi có thể làm một cái lược trong vài tiếng; nhưng lúc nào
cũng kéo dài đến vài ngày. Một va li nhôm vài ngày, thì khai gần một tháng. Các
bộ đội xuất thân ở thôn quê miền Bắc, chưa hề biết đến văn minh hàng nhựa, hàng
nhôm. Vì thế, họ rất tin chúng tôi và luôn luôn trầm trồ khen ngợi các sản
phẩm:
- Gớm, sao các anh tài thế?
Cái gì cũng biết “nàm”!
Anh Sự, đội trưởng, thì nhờ
tôi nhiều nhất. Và nhờ đó, tôi có nhiều dịp nghe tâm sự của anh. Có lần anh
ngồi theo dõi tôi đang khắc chạm hình, vừa khe khẽ ngân nga các bản nhạc tình
của Lam Phương. Anh hỏi:
- Anh bày cho tôi hát nhạc
vàng nhé. Tôi đi cách mạng bao năm mà vẫn không mê nổi các bài hát the thé của
cách mạng.
Thì ra, những người lính
miền Bắc còn trẻ cũng vẫn còn chan chứa trong tim họ những tình cảm lãng mạn,
mà họ phải che dấu khi sinh hoạt trong môi trường khô khan đầy nghi kỵ, dòm ngó
của các đồng chí. Bản nhạc đầu tiên mà tôi tập cho anh hát là bản Mưa Nửa Đêm
của nhạc sĩ Trúc Phương. Anh thích lắm, hát lui hát tới hoài.
Nhạc sĩ kiêm hoạ sĩ Phan
Công Danh, một sĩ quan biệt phái làm việc tại Trung tâm Huấn luyện Cán bộ Xây
Dựng Nông Thôn Vũng Tàu, ở cùng đội với tôi. Chúng tôi rất thân nhau vì có
nhiều điểm tương đồng để tâm sự. Anh đã làm bản nhạc rất hay để gửi gắm tình
thương yêu cho người vợ trẻ (chị có dòng máu Ấn, nên đẹp rất mặn mà.)
Muà xuân ngọt ngào,
Tình xuân dạt dào.
Một ngày yêu nhau
Thành đôi vợ chồng
Một ngày yêu nhau,
Tình nồng in sâu.
Yêu anh, em yêu tình đầu
tiên
Yêu em, anh yêu tình lần
cuối.
Tình anh, tình anh đậm đà
Tình em, tình em mặn mà.
Theo Tập Hồi ký của Đỗ Văn Phúc, (ông là cựu sĩ quan
QLVNCH, từng đi cải tạo ở miền núi Tây Bắc,)
.jpg)
No comments:
Post a Comment