Doãn
Quốc Sỹ, Chất Chiến Đấu
Từ
Những Lời Đôn Hậu
Nguyễn Minh Nữu
Trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau dày hơn
2000 trang là tác phẩm dài hơi nhất của Doãn Quốc Sỹ. Ký giả Lê Văn của Đài BBC
đã ca ngợi tác phẩm này như tác phẩm Chiến Tranh và Hòa Bình của Việt Nam, kín
đáo ca ngợi Doãn Quốc Sỹ của Việt Nam như Lev Nikolayevich Tolstoy của Nga là
những Văn Hào của Thế giới.Một ngòi bút sắc xảo tinh tế nhưng rất lãng mạn đôn
hậuđã truyền đạt một thông điệp sống động về Nhân Bản chống lại Vô Thần. Và đó
chính là chất chiến đấu kiên trì đối kháng với bạo ngược, gian trá.
Truyện ngắn đầu tiên tôi được đọc của Doãn Quốc
Sỹ là Cánh Tay Nối Dài. Lúc đó năm 1967, tôi mới 17 tuổi, đang học lớp Đệ
Nhị trường Nguyễn Bá Tòng , Saigon.
Trong lớp có một người bạn chơi chung là Vũ. Vũ ở
đường Vườn Chuối, khi tới nhà Vũ để rủ Vũ đi chơi, cả nhóm bạn đứa nào cũng sợ
phải gặp mặt ông cụ thân phụ của Vũ. Không phải tại cụ khó mà bởi vì cụ
hay gọi cả nhóm vào trò chuyện, trong đó khuyên nhủ, dạy dỗ...Cả bọn đẩy đưa,
cuối cùng, tôi là đứa bị đẩy ra làm đại diện vào nhà xin phép cho Vũ, trong lúc
cả bọn đứng chờ ngoài đầu hẻm. Tôi bị đẩy ra làm công việc này, vì trong nhóm
bạn, tôi lọt vào mắt xanh của cụ, Cụ rất quý tôi và thường dễ dãi chấp thuận
lời xin của tôi để Vũ đi chơi.
Lần đó, khi tới, Vũ không có nhà, tôi vừa định
chào ra về, thì cụ gọi lại bảo vào chơi uống nước. Cụ lấy một cuốn sách đưa tôi
và nói, Đất nước sau này có tiến bộ hay không là nhờ vào lớp trẻ sau này lớn
lên có tiếp nối được khao khát của cha ông hay không. Cuốn này hay
mà bác mới đọc được và rất tâm đắc với tác phẩm, cùng với kính trọng tác giả,
Bác cho cháu mượn xem, tuần sau đến đây trả lời với bác cháu đọc được gì nhé.
Tôi nhận cuốn sách Cánh Tay Nối Dài của Doãn Quốc
Sỹ mà lòng run vì sợ. Đề đã ra và tuần sau phải trả bài. Thật không ngờ, đó lại
là một cơ hội tuyệt vời cho tôi bắt đầu một niềm vui mới là tìm thấy trong dòng
chữ viết đã mở ra biết bao chân trời, biết bao ước mơ và biết bao giải đáp cho
cuộc đời sau này.
Khi đó, tôi không biết tác giả đang là một Giáo
Sư dạy Đại Học, không biết tác giả là một Nhà Văn nổi tiếng từ lúc tôi chưa
sinh ra, lại càng không biết gì về Tạp Chí Sáng Tạo đã từng một thời lẫy lừng
nay đã đình bản.
Cánh Tay Nối Dài là chuyện kể về một thanh niên
tên Tiến, nhà ở một vùng quê, khi còn là học sinh trung học nỗi khao khát thèm
muốn được trở thành một Sinh Viên, được sống trong một Đại Học Xá. Ước mơ tưởng
rất gần những bỗng ngàn dặm vì hoàn cảnh gia đình phải về quê lập gia đình từ
rất sớm. Khi chia đôi đất nước, Tiến vào Nam đã có một gia đình ấm êm, đi
dạy học nhiều nơi dù chưa đạt được bằng tú tài và chưa đạt được giấc mộng trở
thành sinh viên và sống trong môi trường Đại Học Xá, niềm khao khát đóchưa bao
giờ nguôi ngoai. Cho đến khi đứa con trai đầu lòng tốt nghiệp trung học, xin
được một căn phòng trong khu đại học xá Minh Mạng, Tiến dẫn bạn nay đã là hai
ông già, đến thăm con, lặng lẽ đứng bên ngoài nhìn vào phòng người con
trai đang chăm chú học bài dưới ngọn đèn neon trong căn phòng cư xá :“ Tiến
ngồi bên tôi im lặng không nói gì, tôi đưa mắt ngắm nhìn khuôn mặt anh thỏa mái
trong ánh sáng mờ mờ, con anh quả đã là cánh tay nối dài của anh để hái một
trái mộng. Mộng Sinh Viên”
Ý nghĩa câu chuyện đó ám ảnh tôi cho tới bây giờ,
và tôi nghĩ chắc rằng ám ảnh nhiều người nữa khi đã đọc truyện đó, bằng chứng
là chữ Cánh Tay Nối Dài ngày nay đã trở thành một thành ngữ quen thuộc cho
rất nhiều mô tả một mong ước của cha anh hướng về thế hệ nối tiếp của
mình.
Năm 1968 mở đầu bằng trận chiến tết Mậu Thân. Lằn
ranh Quốc Cộng đã chạm vào thành phố, hay nói đúng hơn là chạm vào lứa tuổi mới
lớn của chúng tôi. Ngơ ngác với cuộc đời, lúng túng và lạc lõng khi gặp gỡ trò
chuyện với những người thiên tả nói về chính trị, không biết gì về một chủ
nghĩa lạ lẫm và một đời sống bên kia bức màn sắt. Những kích thích đó đưa tôi
vào sách vở và tìm đọc nhiều hơn những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ.
Với những truyện ngắn như “Chiếc chiếu hoa cạp
điều”, hay “Gìn Vàng Giữ Ngọc”, chân dung những con người nhân hậu chí tình đã
khiến cho độc giả cảm thấy cuộc đời không phải chỉ toàn người xấu. Trái lại
người tốt rất nhiều và trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khốn cùng đến đâu, cái
chất nhân bản vẫn rõ nét. Quả thật, văn chương của ông bình dị không lên mặt
dậy đời mà lại có sức thuyết phục.
Khi bước vào quân ngũ, tôi đã đã có dịp may được
đọc trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau.
Nguyễn Mạnh Trinh đã có những tóm lược như sau : “Trường
thiên “ Khu Rừng Lau” vẽ lại cả một thời kỳ nhiễu nhương của lịch sử Việt Nam.
Đời sống của một lớp thanh niên tiểu tư sản được dựng lại trong cái phong cảnh
hoành tráng của một đất nước không may trở thành nơi chốn đọ sức của những
ý thức hệ quốc tế. Những nhân vật như Miên, Kha , Tân, Hiển , Hãng , Lăng,
Khiết… từ lúc trưởng thành, tham gia kháng chiến chống Pháp ,rồi trải qua những
ngày cải cách ruộng đất, trở về thành rồi di cư vào Nam , tất cả những quặn
mình của cả một thế hệ được nhà văn tạo thành tiêu biểu. Tuổi tác
họ chênh lệch nhau nhưng cùng có chung một mẫu số yêu đất nước như yêu tự
do và cùng mong ước cho một ngày đất nước hùng cường .Hình như , họ
có chung nỗi hoang mang của những người trí thức luôn đi kiếm tìm cho
mình một con đường nhưng lại thấy bơ vơ khi chọn lựa. Ở với kháng chiến , thấy
lòng yêu nước bị lợi dụng bởi những con người Bolcheviks tàn bạo vô nhân, về
thành thì thấy giặc Pháp nghênh ngang, chính phủ quốc gia chỉ là cái bóng. Di
cư vào Nam, thì chế độ độc tài và gây ra nhiều kỳ thị bất công.
Dòng đời trôi, qua bao năm tháng, chiến tranh lại
tiếp chiến tranh, hết độc tài Cộng sản đến độc tài gia đình trị, thế nước
nghiêng ngửa như những cuộc đời ngả nghiêng theo. Bộ trường thiên này có lẽ là
một phác họa lịch sử hoành tráng và tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam…”
Không lập lại những nhận định đã có của Nguyễn
mạnh Trinh vì quá chính xác, cái mà tôi nhận được từ trường thiên này là một
cái tâm đắc khác, đó là cách dựng truyện và hành văn của Doãn Quân.
1/ Cách dựng truyện.
Các nhân vật của Khu Rừng lau là lứa tuổi sinh
vào thập niên 1913-1926 của thế kỷ trước. Là lứa tuổi cùng thời với tác giả.
Tình hình đất nước đã giao cho thế hệ này sự chọn lựa đúng sai, chính tà thật
khắc nghiệt. Khi biến động rộng lớn từ 1945 giữa Pháp, Nhật, các đảng phái quốc
gia, Việt Minh (lúc đó chưa ra mặt Cộng Sản, mà dương danh là tập họp các đảng
phái chính trị, các tổ chức quần chúng chung tay chống Pháp) lớp thanh niên mới
lớn rung động từ lòng yêu nước dễ bị cuốn hút vào kháng chiến. Kháng chiến như
ánh mặt trời mà trăm hoa hướng về. Nhân vật lớn tuổi nhất là Khiết và Khóa sinh
năm 1913 thì ngoài 30 tuổi, nhỏ nhất là Miên sinh năm 1926 thì mới vừa 19 tuổi.
Những con người có học thức, sống ở thành thị,
yêu nước với tất cả nhiệt huyết của trái tim thanh niên đã thoát ly gia đình
lên đường chiến đấu chống ngoại xâmvới khao khát độc lập, và tự do như những
lời cổ vũ.
Doãn Quốc Sỹ đã tâm sự :
“Khu Rừng Lau tôi cũng viết bằng cả cái kinh
nghiệm bản thân của tôi, có nhân vật từ thuở gia nhập chống Pháp. Thời đó
chống Pháp là tất cả các thanh niên và chính bản thân tôi ở trong Đoàn Thanh
Niên Cứu Quốc để mà chống Pháp. Rồi thì chính tôi, bản thân tôi đã từng họp dân
chúng biểu tình để đi phá kho thóc của Nhật để phân phát gạo cho người dân vào
cái thời đó.
Với cái việc của bản thân như vậy thì tôi dựng
lại thành cái bộ truyện trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau đó. Và cái bối
cảnh cùng những tình tiết thì đều là lẽ cố nhiên là viết dưới hình thức tiểu
thuyết, nhưng mà kinh nghiệm là do kinh nghiệm bản thân của tôi với những điều
mắt thấy tai nghe, và rồi thì là để vào viết thành cuốn tiểu thuyết như vậy”
(RFA, 23/6/2008).
Trải qua rất nhiều tình huống khi sống trong
chiến khu, lăn lộn qua nhiều chiến trường,những người thanh niên yêu nước, có
học và cao vọng đó đã dần dần hiểu được mặt trái của lời tuyên truyền, Họ đấu
tranh với chính bản thân bằng những lý lẽ nhân bản để rồi quyết định rời bỏ
kháng chiến về thành, không phải vì khó khăn hay sợ hãi mà vì thất vọng với
những điều mắt thấy tai nghe. Để tiếp tục đi tìm tiếp một nguồn sống khác, chân
lý khác cho cuộc sống. Những lập luận đó đã thuyết phục tôi suốt một thời thanh
niên mới lớn, khi tôi bằng tuổi với các nhân vật trong truyện ở thời điểm đó.
2/ Hành Văn.
Trong một bài viết, Nguyễn Mộng Giác đã ghi nhận:
Doãn Quốc Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu
cố hữu. Ông không "nổ" như Nguyễn Mạnh Côn, không "độc" như
Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng biết thời thanh niên của ông, qua lời ông
viết, là những nạn nhân của một chủ thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân.
Và đó là chủ đề những truyện ngắn chống Cộng Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp
định Genève.
Chính xác là trường thiên Khu Rừng Lau, ở bất
tranh luận hay bất cứ sự kiện nào của truyện, chúng ta được thuyết phục bằng
những văn phong qua chính những tính cách của các nhân vật. Chất chiến
đấu chính là sự kiên trì với chính bản thân đi tìm chân lý bằng những lời đôn
hậu. Rất gần gũi và rất thuyết phục.
Mỗi người là một hoàn cảnh khác nhau để người đọc
nhìn rất nhiều sự kiện xẩy ra. Đầu tiên là Miên, người trẻ nhất trong các
nhân vật, rồi các nhân vật khác đều gặp những sự thật khác đầy gian trá,
bất nhân, luia72 phỉnh và khống chế, rồi sau tự vấnvới lương tâm đã lần
lượt rời bỏ kháng chiến, .
Mai Kim Ngọc đã tóm lược: Họ gặp nhau lại
tại Hà Nội, trong ánh sáng quốc gia, dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ của cựu hoàng.
Qua đôi mắt quan sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng
lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông dành chỗ rộng trong tiểu thuyết
cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm nhạc, ghét những tiếng ồn, và
những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao thì cũng mê thích một loại nhạc
khí cổ điển nào đó, hoặc vỹ cầm, hoặc dương cầm.
Văn phong truyền cảm xúc của Doãn Quốc Sỹ thực sự
thuyết phục người đọc hiểu được tại sao, và làm như thế nào của những chàng
trai thời loạn đó đã chọn con đường dấn thân vào kháng chiến rồi đưa đến dứt
khoát rời bỏ để về thành. Giống như trường hợp Phạm Duy viết “Bên Cầu Biên
Giới” trước khi rời kháng chiến về thành.
Nguyễn Mộng Giác nhận định: Trong các nhà văn lớp
trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong lãng
mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu hòa,
cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt khoát
phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa bị
những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa,
lai căng, lưu manh, lố bịch.
Toàn bộ trường thiên Khu Rừng Lau và kể cả các
tác phẩm khác của Doãn Quốc Sỹ đều được xây dựng trên các nhân vật có phẩm chất
lương thiện, cao quý và tư cách được điễn tả trong các lời văn đôn hậu trong
sáng mà luôn toát ra được chất kiên định chiến đấu cho Lẽ Phải.
Bài viết này thực hiện nhân dịp mừng Trăm Tuổi
của một đại thụ văn học, Người viết thuộc hàng con cháu của Cụ, Và nhất
là bài này viêt sau hàng loạt những nhận định giá trị khác đã từng phổ biến,
cho nên xử dụng các tư liệu chuẩn mực mà người khác đã viết chính là sự bày tỏ
lòng đồng tình với các nhận định đó.
Cuộc đời của Doãn Quốc Sỹ gắn liền với hai thiên
chức là viết văn và dạy học, Cụ có một đời sống đạo đức và mẫu mực. Văn của
Doãn Quốc Sỹ là văn phong điềm đạm, thong dong và giáo dục đời sau. Bằng những
lời đôn hậu đã chuyên chở cả một tính chiến đấu kiên cường bền bỉ cho một chân
lý ngàn đời, hướng tới sự thật, sự thiện lành và tốt đẹp. Văn của Doãn Quốc Sỹ
đương nhiên là kẻ thù của sự dối trá, ác độc và xấu sa. Và sau chót, cuộc
đời trăm năm đã qua của Cụ đã là tấm gương của người thực hiện chức năng Nhà
Giáo và Nhà Văn với tất cả ý nghĩa tốt đẹp nhất của hai từ này.Cụ đã phải trải
qua nhiều lần tù tổng cộng tới 14 năm với tội danh “Viết văn chống phá cách
mạng” , chính Thái độ sống, và Ngôn Ngữ đôn hậu đó là đối nghịch lớn nhất không
thể nói ra của chính quyền trong nước.
Xin kết bài này bằng một câu nhận định của Võ
Phiến về Văn Doãn Quốc Sỹ “ Đọc sách của ông thơm tho cả tâm hồn.”
12/2022.
No comments:
Post a Comment