NƯỚC MẮT CỦA THUYỀN
Nhất Phương
Dường như đêm càng về khuya, tiếng sóng vỗ
bờ càng trở nên thẩn thơ, lặng lẽ (?!). Tiểu Mi dõi mắt nhìn vào biển cả
mênh mông, bát ngát dập dền, hướng lòng về quê mẹ. Xa xôi gì đâu chứ,
chỉ mới xa nhau có mấy ngày thôi mà…
Kỳ lạ thay, mặc dù lòng cố nhủ lòng như thế,
Tiểu Mi vẫn cảm nhận như có “sự gì to lớn lắm” cứ xoáy xoay muôn chiều trong
lòng ngực khiến nàng khó thở. Hướng ấy, xuôi theo bờ cát dài thăm thẳm,
là nơi nàng được cha mẹ sinh ra, cùng lớn lên, cùng sống suốt bao mùa nóng bỏng
lửa chiến chinh Nam Bắc với đại gia đình họ Phạm của nàng. Đêm nay, trăng
rơi thoi thóp nhưng lòng Tiểu Mi còn thoi thóp hơn trăng, phản chiếu vào đôi mắt
khiến nàng như bị hòa nhập chơi vơi với suối nguồn Tương-Tư. Nhìn về hướng
quê nhà, lòng như có ai cào xé tan hoang từng mảnh vụn. Nỗi đau hợp xướng
nỗi buồn tạo thành một nỗi thê lương, khiến nước mắt cứ tự do trào tuôn mãi
không ngừng.
Biển ơi ta nhớ người- Ta nhớ
lắm biển ơi…
Có tiếng chân ai khẽ khàng rón rén thật gần.
Trong tĩnh lặng, tiếng chân dù nhẹ đến đâu cũng không thể nào không hiện hữu.
Rồi âm thanh nhẹ tênh như cánh gió vờn hiu hiu nhàn tản:
-Này cô bé, đêm không còn sớm nữa, hãy trở
về căn lều của cô đi.
Bóng người vừa cất tiếng cao lêu nghêu, giọng
trầm như chuỗi dương cầm dập dồn trước khi chấm dứt một bản nhạc buồn đầy tiếc
nuối.
-Chào anh, quán cà phê đã đóng cửa rồi sao?
Người vừa được Tiểu Mi chào thân mật tiếng
anh, lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh nàng. Đó là “anh chủ quán cà phê” bất đắc
dĩ, như lời anh đã thố lộ, ở lần gặp gỡ đầu tiên, chỉ mới tối hôm qua cũng tại
chỗ này.
-Chẳng cần đóng hay mở, vì tự nó đã không
có cửa.
Tiểu Mi quay nhìn người bạn vừa quen, cảm
thấy một chút gần gũi:
-Ô, đúng vậy, Tiểu Mi mới đó đã quên, tối
hôm qua anh đã nói rồi. Xin lỗi nghen anh Dương.
Người chủ quán tên Dương, có quán bán…, à
không, nên gọi là túp lều cà phê thì đúng hơn:
-Tối qua cô cũng đến đây nhìn biển.
Cô thích biển lắm phải không?
-Thích biển? Tiểu Mi yêu biển anh Dương ạ.
Quê cha của Tiểu Mi nằm cạnh biển. Cha lại thi hành bổn phận của một thủy
thủ vượt trùng khơi. Hơn trên tất cả, suốt chiều dài hình cong tiếp
nối với quê cha là biển. Mà yêu biển, dường như… cũng là điều khá tự
nhiên của hầu hết những con người dám cởi lên sóng gió để tìm kiếm tự do như
anh, như Mi.
Dương âm thầm lắng nghe không góp ý, chỉ nhẹ
nhàng bảo Mi:
-Cô nên an hưởng niềm hạnh phúc đã đến được
chốn đây an toàn. Chúng ta đang ăn cơm của Liên-Hiệp-Quốc. Trên hải đảo
này, còn điều gì khiến lòng cô mang nhiều niềm trắc ẩn như thế?
Tiểu Mi không trả lời. Nàng âm thầm
quan sát người bạn mới tên Dương. “Hắn ta” là ai? Lời nói của hắn
biểu tỏ sự an phận, chấp nhận hiện tại, không thắc mắc, đúng là một kẻ vô
ưu. Vậy, hắn có đáng tin cậy để Tiểu Mi sẻ chia bao nỗi nhớ nhà nhớ đất?
Túp lều cà phê hắn mở ra đã được ba tháng, còn Tiểu Mi mới cập bờ tờ mờ sáng
hôm qua… Buổi tối đầu tiên trên đảo hoang lạ lẫm, Tiểu Mi không tài nào chợp mắt,
đành lang thang ra biển, và gặp Dương.
Người thanh niên thoạt nhìn còn khá trẻ.
Theo lời thổ lộ, anh là người duy nhất trong sáu sinh viên sống sót sau chuyến
hải hành. Tất cả đều là bạn học độc thân vui tính. Tàu của
các anh đã nhìn thấy bến an toàn, nhưng vì trên tàu không có đàn bà trẻ nhỏ nên
Cao Ủy LHQ chưa cho lệnh nhập cư, bắt phải thả neo xa bờ chờ cứu xét.
Cao Ủy lo sợ họ là Việt Cộng trá hình. Ngay tối hôm đó, một cơn bão
bất ngờ ập tới khiến chiếc thuyền bị lật úp giết chết năm người. Dương
may mắn “bị” sóng dữ nhồi xô tắp liệng vào bờ. Thẩm quyền cứu anh, cho
anh lên đảo với lời xin lỗi đầy tiếc nuối về tai nạn xảy ra không điềm báo trước.
Dương nói, anh ngơ ngáo cả tháng trời mới bình tỉnh trở lại, và thấu hiểu triệt
để ý nghĩa của các từ trớ trêu hay “định mệnh”. Nhờ chút ngoại tệ mang
theo dấu kỹ trong cạp quần jean, anh vận động với lính Mã Lai mở túp lều bán cà
phê để giết chết nỗi buồn, cốt tạo chỗ riêng tư, dễ dàng trao đổi tin tức quê
nhà cùng những thuyền nhân mới tới, (dĩ nhiên là phải chia chát với họ). Lính
Mã Lai đã mang hàng từ Mersing qua đảo bán cho dân tỵ nạn. Có tiền là có
hàng, từ củ cà rốt cho tới táo tàu, đậu phọng… Những người đến trước
Dương mang theo được nhiều tiền, đã mở hẳn vài tiệm tạp hóa nho nhỏ hành nghề
trên Bắc đảo.
-Anh Dương ạ, Mi may mắn hơn anh, sau hơn
năm ngày vật vã cùng định mệnh như anh nói, chiếc tàu mong manh của Mi cũng vào
bến an toàn. Mà lạ lắm anh biết không, từ sáng đến giờ Mi chỉ ăn một nửa
gói mì khô được phát, vậy mà cảm thấy no ngang, như vừa ăn xong một tô xôi mẹ nấu.
-Các cụ của mình gọi đó là no hơi Mi ạ.
Mà Mi đi một mình hay có gia đình anh chị em?
-Chỉ hai chị em. Chị của Mi ốm yếu lắm,
còn mệt lã nên đang nằm dưỡng sức trong lều.
Dương vươn vai đứng lên mời Tiểu Mi:
-Vậy nếu không ngại, mời Mi đến túp lều
không cửa của Dương uống cà phê nhé?
Từ lúc nào…, Dương thản nhiên gọi nàng bằng
tên và cũng xưng tên thân thiết vậy? Không còn…tôi cô như hồi mới gặp tối hôm
qua. Mi năm đó vừa tròn 19 tuổi. Nhìn Dương, Mi đoán “hắn ta” già lắm
cũng khoảng chừng 24-25.
-Mi chưa từng nhận lời uống cà phê với ai cả,
chỉ nhấm nháp tí chút để thức khuya học bài thôi. Tối nay Mi sẽ thử lần đầu
tiên trên hải đảo, cho biết mùi Tỵ Nạn.
-Mùi tỵ nạn? Là mùi Mi mới “phát
minh” ha ??!. Vậy ly cà phê này là ly cà phê Tỵ Nạn, nó có ý nghĩa đặc biệt
gì với Tiểu Mi?
-Là mùi chát đắng, mùi tủi thân độc hành,
mùi mồ côi tổ quốc, là…
-Thôi Mi, không nên khẳng định thêm về tình
trạng của ly cà phê Tỵ Nạn nữa. Dương hiểu ý của Mi rồi. Mi nghĩ
nhiều như bà già năm mươi tuổi vậy. Chiến tranh thật quái ác, đã làm con
người vừa khổ vừa khôn hơn tuổi thật. Nhưng hãy cố quên quá khứ mới dễ
dàng chấp nhận hiện tại và tiếp tục sống còn, được không?
Quá khứ sao? Tiểu Mi im lặng, âm thầm song
hành cùng đêm đen. Hai người đi dọc theo ven bờ, lần lên trung đảo. Tiếng
nước leo trèo chọc ghẹo bãi cát buổi khuya, âm ỉ khác gì tiếng than thầm của
người cùng khổ? Có phải tại lòng buồn nên biển cả dường như cũng đang cố
dấu ít nhiều chuỗi sóng vô ưu, an bình của chính nó?
Hai người đến túp lều không có cửa. Dương
loay quay nhóm bếp, tuy cẩn thận nhưng khá nhanh gọn, xứng đáng làm
chủ lều du mục. Chừng mươi phút sau, hai người đã có trong tay ly cà phê
đầy quyến rũ. Nhìn chất nước tuy đen nhánh như lòng đêm, nói theo sự nhận
xét quê mùa kỳ cục của Tiểu Mi, lại đang tỏa đầy hương thơm huyền dịu. Tiểu
Mi tự hỏi, có phải đây là mùi tượng trưng cho nét đặc thù độc đáo của những con
người yêu chuộng tự do, cố dấu mình trong bóng tối để di hành, quyết tâm kiếm
tìm mọi miền an cư tỏa sáng ở bất cứ nơi nào biết quý trọng nhân quyền làm quê
hương, cho một tương lai thật gần mà họ vững tin là có thật?
Túp lều cà phê của Dương dựng đơn sơ ở
trung đảo Pulau Tengah, có thể gọi là thủ đô của trại tạm cư, vì Cao Ủy LHQ đặc
văn phòng nơi đó để nhận người mới tới cũng như tiễn người ra đi. Đường từ
Nam đảo, chỗ Mi vừa ngồi gậm nhấm nỗi buồn, đi lên “Thủ Đô”, cheo leo nối kết
khá nhiều ghềnh đá. Lúc này, tuy đã quá mười giờ đêm nhưng chưa lều nào
chịu ngủ. Ánh sáng tỏa ra lét leo hiu hắt vẫn được gọi là đèn, là thứ soi
rọi niềm tin vào tình người, vào tương lai mờ ảo. Vì là đảo hoang trước
khi có dân tỵ nạn nên tối mờ tối mịt chẳng có điện đường, cũng chẳng có giới
nghiêm, và chẳng ai kiểm soát ai nếu đừng vi phạm kỷ luật trại (mua bán trái
phép, gây gỗ ồn ào,…). Cuộc sống nơi đây tuy đơn sơ tạm bợ nhưng quý giá
vô cùng. Mọi người trước lúc ra đi, gần như đã quyết tâm đánh đổi tất cả
chỉ để dành cho được vài thước khối không khí tự do, như những người bạn của
Dương chẳng hạn.
Mi ngồi xuống bên ly cà phê, lặng nhìn vào
bóng tối. Hải đảo mà, trời nước mênh mong, ngàn phương gió xoáy. Mi
như cảm nhận, cảm nghe, cảm thấy thấp thoáng ngoài kia, cảnh chiếc thuyền con
đang bị cuồng phong dập vùi, tẩn lịm, cuốn trôi năm người cùng thuyền với
Dương. Mi nghĩ đến đám bạn sinh viên của mình ở quê nhà. Hiện giờ,
mọi người đang làm gì?! Bất chợt, ảo ảnh lờ mờ trong đám thân thiết “mới
hôm qua” ấy hiện ra, nhưng khá đặc biệt và khá rõ nét. Một người gần gũi
nhất- hay hơn một chút, một người bạn tâm đầu- hay hơn chút nữa, lãng đãng mối
tình mới lớn chăng? Người sinh viên ấy, dáng dấp ngang chàng như cua, da
ngâm khỏe mạnh, môi cười nửa nụ, phảng phất nét đẹp lạnh lùng của nam tài tử
chính trong phim Le passenger de la pluie, cuốn phim Mi chịu ngồi coi tới coi
lui mòn cả ghế trước khi sập trời ở Rex.
Dương ngồi xuống bên Tiểu Mi, điềm chỉ nhiều
xác thuyền đã từng bị thương vì sóng gió; vì lòng tham của hải tặc dã man đục
thủng hông tàu để kiếm vàng. Ẩn hiện dưới ánh đèn hiếm hoi nơi trung đảo,
Tiểu Mi thấy có vài chiếc bị mù hẳn một con mắt hoặc bể “te tua” gò má… Mi
đoán, có lẽ cũng bị tàu lớn chẳng đoái hoài đụng phải như tàu của Mi
chăng? Nhìn chung, đám “thuyền phế binh” ấy, giống như đang gộp thành một
nghĩa địa lộ thiên cho các xác thuyền đã chết.
Linh tính nào chợt hiện, Tiểu Mi bỗng quay
sang nhìn Dương, hỏi dập dồn:
-Đêm hãy còn dài, ly cà phê vẫn còn nóng đủ
để nghe chuyện về những người bạn cùng đi với Dương. Được không?
Dương bỗng bâng khuâng nhìn sâu vào màn
đêm, cùng tầm cùng hướng Mi đã nhìn mấy phút trước, giọng đổi khác như bị sặc
nước, khàn đặc cuộn trào một nỗi oan khiên:
-Chúng ta phải tập đánh vần hai chữ định mệnh
ra sao mới đủ nghĩa nghiệt oan? Đúng hay sai mấy từ “định mệnh đã an bài
?”. Đám bạn của Dương hiền lành và học giỏi hết biết. Năm người là
năm góc thềm lục địa đầy ắp tài nguyên chưa đến hồi khai phá. Họ là tương
lai ngời sáng của gia đình, học đường và chắc chắn sẽ là những đứa con biết
trung thành cùng đất tổ. Tuy nhiên, chúng tôi mỗi người đều có một biệt
danh, một nick-name, một tên gọi khẳng định vị trí thứ ba của tuổi học trò tràn
đầy nhựa sống: - Long lèm bèm, vì hắn lúc nào cũng càm ràm những
chuyện bất như ý, dai như đỉa ; -Sơn hấp háy, hắn cận thị nặng, thích toán học,
luôn kiếm chuyện để chơi cùng mấy con số rút căn. Trước khi định
“phát biểu” điều gì, hắn chớp mắt liên hồi như thục nữ bị nam nhân trêu ghẹo; -
Trà hoa nữ, hắn hiền khô, văn hay chữ
tốt, đẹp như con gái nên bị chết tên cha mẹ đặt luôn rồi; -Chất viễn tây, thích coi phim cao bồi của Mỹ, gia đình hắn ở Đ…
-Anh vừa nói gì? Chất v…i…e…n…..là…là một
trong mấy người bất hạnh? Gia đình anh ấy ở Đà Lạt, trước cửa đường vào
nhà có trồng hai cây Mimosa vàng óng làm cổng phải không?
-Mi cũng biết Chất sao? Ngoài
nick-name Viễn Tây, hắn còn một tên gọi khác…
-Chất…thư viện??!
-………………………………………
Im lặng, xanh xao tiếng nói rồi…
Đừng nhìn Mi với ánh mắt “trăm dấu hỏi” ấy
anh Dương. Anh muốn biết tại sao Mi quen Chất lắm phải không? Vì
thư viện là nơi Tiểu Mi đã gặp, đã quen, đã đặt tên cho người bạn tạm gọi là
tâm đầu để làm kỷ niệm. Kiến thức của anh ấy, lúc bấy giờ, có khác gì một
thư viện di động, hay một cuốn tự điển biết đi. Có lần, muốn thử Chất, Mi
đã tự phịa ra một chữ rất ngắn nhờ anh giải nghĩa. Anh trả lời chắc nịch:
-Làm gì có chữ nào như thế trong tự điển hở
Mi?
Lần ấy, Mi phá Chất bằng ba mẫu tự tạo nên
chữ yêu viết ngược.
Như thế Dương ạ. Thư viện chính là
nơi hẹn hò của Tiểu Mi và Chất. Đến để cùng học, cùng sẻ chia về tình
hình chiến sự ngày càng trở nên bế tắc. Song song với tình trạng bi quan
ngoài mặt trận, Chất và Mi đã vô cùng hãnh diện khi kể cho nhau nghe về hoàn cảnh
gia đình hai bên đều có cha anh đang đánh giặc tận tiền phương, để chúng tôi
còn chút yên bình lo trao dồi đèn sách tại thủ đô vàng ngọc. Phải học và
thấu hiểu lịch sử lập quốc của quê hương mới đậm tình yêu đất nước.
Lãnh thổ Việt Nam đã được khai phá, mở mang và gìn giữ suốt mười tám đời
Vua Hùng, tồn tại đến ngày nay, nhờ lòng yêu quý nơi chôn nhao cắt rún để tạo
nên hình vóc người mình, trải qua nhiều thế hệ.
Suốt chiều dài tính bằng đơn vị
ngàn năm, trong quá trình vừa tạo dựng vừa mở mang bờ cõi, vừa bảo vệ toàn vẹn
biên cương, đều nhờ vào lòng yêu nước với các gương hy sinh oai dũng của tổ
tiên, của triệu triệu tấm lòng con dân Lạc Việt. Công đức ấy đã lừng lửng
la đà trên thượng đỉnh ngọn Trường Sơn, tràn lan phủ suốt mặt biển Thái
Bình. Trong cuộc bể dâu, chúng ta có thể bị mất tất cả, nhưng quyết không
thể để mất mẫu quốc Việt Nam với ngần ấy năm lịch sử kiêu hùng.
Khắc ghi công đức của tiền nhân từ thời lập
quốc, và sự hy sinh âm thầm quý báu của biết bao anh hùng-anh thư, đã dâng hiến
cuộc đời, nuôi nấng hoài bão tự do, là bổn phận, là cung cách thể hiện ý chí
kiên cường của con dân, để biểu tỏ lòng trung thành với quê hương, biết vun bón
phù sa dựng xây đất nước. Chúng ta và các thế hệ tiếp nối sẽ luôn ghi nhớ
ân sủng ấy mãi đến ngàn sau.
Vậy mà đêm nay, có phải định
mệnh đã an bài, để tương lai đất nước bị dìm sâu dưới lòng biển thẳm?!
Ôi thuyền ơi, thôi hãy khóc đi, thuyền
ơi. Khóc giùm cho Mi và cho tất cả những oan hồn đã cùng thuyền lênh đênh
vượt sóng; đã cùng thuyền ôm giấc ngàn thu dưới đáy đại dương. Trong thời
chiến, lời bài hát nào tràn ngập yêu thương, chiếu sáng huy chương cho người
lính chết giữa sa trường“đất ôm anh đưa về
cội nguồn” tha thiết dường bao thì “trong thời bình” biển cũng ôm trọn đời anh đưa đi tìm tự do
như thế ấy. Quê hương mình, suốt chiều dài là biển xanh, có thể gọi là đại-dương-nước-mắt.
“Những giọt nước mắt khóc cho quê hương,
trong như hạt ngọc”. Mọi chiếc thuyền chở người vượt biển đều
có linh hồn, có nơi hạ thủy khai sinh như Tiên Sa, Đà Nẳng, Nha Trang, Sóc
Trăng, Bến Tre, Phú Quốc…vv… và…vv. Sinh quán của thuyền là quá khứ
của hầu hết người miền Nam trong suốt thời gian lịch sử phủ màu tang.
Xong trách nhiệm đưa người đi, thuyền chết dần với biển. “Chỉ có thuyền mới biết biển mênh
mong nhường nào”- Nếu từ giã thuyền rồi, biển chỉ còn sóng gió... ( ca khúc Thuyền và Biển, thơ Xuân Quỳnh, nhạc
Phan Huỳnh Điểu).
Dường như, những chuyến hải hành hướng về một
vùng trời quang đãng tự do, dù thành công hay thất bại, dù sống hay chết cũng đều
là thảm trạng vô thường của từng cơn ác mộng.
Bây giờ, trùng dương đã ôm kín xác thuyền, mà sóng, mà gió vẫn triền
miên trong lòng hai người trong số họ, đang ngồi đây cùng cất chung những tiếng
nói không lời.

No comments:
Post a Comment