họ chết trong thủy điện và bê tông hóa
Không ai chết đuối chỉ vì mưa
“Người dân không chết đuối vì mưa” – câu
nói ấy nghe qua tưởng cường điệu, nhưng
nhìn Phú Yên trong những ngày nước trắng
trời, mới thấy lạnh sống lưng.
Mưa lớn, mưa cực đoan, đúng. Khí hậu thay
đổi, đúng. Nhưng nếu thượng nguồn vẫn
còn rừng, đồng bằng vẫn còn đầm lầy, ao
hồ, cửa xả;
nếu dòng sông vẫn còn chỗ để thở, liệu
nước có điên cuồng như hôm nay?
Người ta chết không chỉ vì thiên nhiên, mà
vì một hệ thống đã phá rừng ở nơi nước
bắt đầu, bê tông hóa ở nơi nước cần thoát,
rồi gọi đó là “quy hoạch, phát triển, hiện
đại hóa”.
Rừng bị bán, đồng bằng bị bóp cổ
Địa hình Phú Yên vốn “hình phễu”, hễ mưa
to là nước đổ dồn về sông Ba, sông Kỳ Lộ.
Ngày xưa, rừng tự nhiên ở thượng nguồn
như miếng bọt biển khổng lồ, giữ nước lại,
cho lũ về chậm hơn, thấp hơn.
Bây giờ, những cánh rừng ấy đã bị chặt
trụi để làm thủy điện, phân lô bán nền,
cao su, keo lai. Rừng trồng không thể
thay thế rừng tự nhiên; gốc cây mỏng
manh không giữ nổi đất, nói gì tới lũ.
Hạ nguồn, nơi từng là ao hồ, ruộng sâu,
vùng trũng ngập lụt, đáng lẽ được giữ lại
làm hành lang thoát nước, thì bị san lấp,
đổ bê tông, dựng lên những khu đô thị,
trung tâm thương mại, khách sạn.
Mặt bằng dự án được nâng cao, còn nhà
dân xung quanh bị biến thành “hố chứa lũ”.
Nước mưa và nước xả cứ thế tràn thẳng
vào cửa nhà những người nghèo nhất,
trong khi những căn biệt thự trên nền đất
mới san lấp thì khô ráo, an toàn.
Thủy điện – lá chắn giả, con dao
thật
Chuỗi thủy điện trên sông Ba được xây với
lời hứa “cắt lũ, điều tiết dòng chảy”.
Nhưng trên thực tế, người dân chỉ thấy
những lần xả lũ đột ngột, mực nước dâng
vọt trong đêm, nhà cửa, trâu bò, hoa màu,
thậm chí cả mạng người trôi theo dòng
nước đục.
Có thời điểm lưu lượng xả lên tới hàng
chục nghìn mét khối mỗi giây – đủ để
nhấn chìm phần lớn dân cư hạ lưu –
nhưng cảnh báo đến tay người dân luôn
chậm chạp, mơ hồ, hoặc… không tới.
Điện bán lên lưới với giá cao, doanh nghiệp
thủy điện thu lợi, ngân sách có thêm vài
dòng thuế.
Còn người dân thì gánh lũ, gánh bùn, gánh
nợ.
Trên mạng xã hội, có người chua chát:
“Nước chảy vào nhà dân, tiền chảy vào túi
mấy ông thủy điện”.
Một câu nói tưởng đùa mà hóa ra tóm tắt
cả bi kịch.
Tiếng kêu của dân Phú Yên giữa
Tiếng kêu của dân Phú Yên giữa
lũ dữ
Những bình luận dày đặc dưới các bài viết
về lũ Phú Yên là bản cáo trạng dài. Người
thì uất ức: “Dân không chết đuối vì mưa,
dân chết vì thủy điện”.
Người khác nói: “Lãnh đạo mà nhận lỗi thì
mất ghế, nên cứ đổ tại ông trời”.
Có người thở dài: “Tài nguyên nước là của
quốc gia, nhưng họ xây thủy điện để bán
điện giá cao, còn hành lang thoát lũ thì
kệ dân chịu”.
Trong từng câu chữ, là nỗi đau của những
người nhìn nhà bị nước cuốn, xe cộ hư
hỏng, ruộng đồng tan hoang.
Họ không cần thêm những chuyến thăm
viếng “làm màu” sau khi nước rút, không
cần những khẩu hiệu “thương dân” trên
loa phường.
Họ cần bản đồ ngập lụt công khai, quy
hoạch được rà soát lại, những thủy điện
nhỏ gây hại phải bị dẹp bỏ, những người
ký quyết định phá rừng, lấp hồ phải bước
ra trước ánh sáng.
Quản trị không phải khẩu hiệu,
Quản trị không phải khẩu hiệu,
mà là trách nhiệm và danh dự
Một chính quyền giống như cha mẹ trong
một gia đình.
Cha mẹ chỉ lo vun vén cho mình, bán cả
mái nhà, phá cả nền móng để kiếm tiền,
mặc kệ con cái sống chết, thì gia đình
ấy sớm muộn cũng tan nát – đó là quy
luật.
Đất nước cũng vậy. Khi rừng bị xẻ thịt, sông
bị chặn, hồ bị lấp, cống bị bít; khi mọi cảnh
báo khoa học bị phớt lờ, mọi góp ý của dân
bị coi là “phản động, phá hoại”, thì những
trận lũ như ở Phú Yên hôm nay không còn
là “thiên tai” nữa.
Đó là “nhân tai” – thảm họa do chính những
quyết định trên bàn giấy gây ra.
Người dân không đòi hỏi điều gì quá đáng.
Họ chỉ muốn được sống trên mảnh đất mà
mỗi cơn mưa lớn không trở thành trò đánh
đố với tử thần.
Họ muốn những người cầm bút ký vào các
dự án thủy điện, các quyết định lấp hồ,
phân lô rừng phải chịu trách nhiệm bằng
tên họ và chức vụ, chứ không phải trốn
sau hai chữ “tập thể”.
Họ muốn nghe một lời nhận lỗi thật sự, đi
kèm hành động cụ thể – chứ không phải
những bản tin đều đều “lãnh đạo thăm
hỏi, động viên, chỉ đạo khắc phục hậu quả”.
Khi nước rút, sự thật phải trồi lên
Phú Yên hôm nay không chỉ là nạn nhân của
khí hậu khắc nghiệt.
Phú Yên là nạn nhân của một mô hình phát
triển coi bê tông là thước đo văn minh, coi
thủy điện là mỏ vàng, coi đời sống người
dân chỉ là con số thống kê trong các báo
cáo.
Lũ rồi sẽ rút, bùn rồi sẽ được xúc đi, nhà
rồi sẽ lại xây mới.
Nhưng nếu rừng vẫn bị bán, hồ vẫn bị lấp,
khảo sát – đánh giá – quy hoạch vẫn chỉ
để hợp thức hóa lợi ích nhóm, thì trận lũ
sau sẽ tàn khốc hơn trận lũ trước.
“Người dân sẽ không quên. Người dân sẽ
không tha thứ. Cho đến khi nước rút và
trách nhiệm được nâng lên” – câu kết ấy
không phải lời đe dọa, mà là lời nhắc.
Bởi nước có thể dâng lên chỉ sau một đêm,
nhưng cơn phẫn nộ âm ỉ trong lòng người
dân thì đã dâng lên từ rất lâu rồi.
Và một khi giọt nước cuối cùng làm tràn ly,
sẽ không còn ai có thể tiếp tục đổ lỗi cho…
mưa nữa.
Thủy điện – Những ‘trái bom nước’ treo lơ lửng trên đầu dân Việt | ||||
Đập nước – thứ vũ khí còn nguy hiểm hơn cả bom hạt nhân? Trong lịch sử chiến tranh, đã có những đạo quân chọn cách đánh vào đập nước để hủy diệt cả một vùng rộng lớn. Sau này, hành vi đó bị lên án dữ dội đến mức Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva 1949 phải ghi hẳn: cố ý phá hủy các đập nước là tội ác chiến tranh. Nghĩa là, về mặt đạo lý quốc tế, một con đập mong manh còn bị coi là nguy hiểm hơn cả bom hạt nhân – thứ vũ khí mà thế giới vẫn chưa dám cấm tuyệt đối, chỉ… cam kết không dùng với nhau. Ấy vậy mà trên dải đất hình chữ S, người ta lại “sản xuất” tràn lan những quả bom nước khổng lồ ấy và treo lơ lửng ngay trên đầu dân mình. Theo chính số liệu của ngành điện, cả nước đã có hàng trăm nhà máy thủy điện đang vận hành, thêm hàng trăm dự án đang xây và đang nghiên cứu. Nếu cộng lại, Việt Nam đã, đang và sẽ sở hữu hơn tám trăm đập nước lớn nhỏ – chưa kể vô số hồ chứa thủy lợi, hồ tưới tiêu. Mỗi con đập là một trái bom nước, và những trái bom ấy được gài dày đặc từ miền núi phía Bắc cho đến tận miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Nhân tai từ quy hoạch đến vận hành Lũ lụt, sạt lở mấy tuần qua ở Huế, Khánh Hòa, Phú Yên, Tây Nguyên, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Ngãi… không chỉ là câu chuyện của mưa. Thiên tai chỉ chiếm một nửa bức tranh. Nửa còn lại mang tên nhân tai: quy hoạch sai lầm, bê tông hóa vô tội vạ, đồi núi trọc lóc vì rừng đã bị xẻ thịt, hệ thống đê điều – thoát nước quá tải, và trên hết là những cú xả lũ ồ ạt từ thượng nguồn. Những con số không biết nói dối: từng có đợt, Sông Ba Hạ xả gần 10.000 m³/giây, cùng lúc hàng loạt hồ khác như Sông Hinh, An Khê, Sê San, Buôn Kuốp… đồng loạt mở cửa. Khi thượng nguồn cùng xả, hạ du không chìm mới là chuyện lạ. Người ta nói “xả đúng quy trình”, nhưng cái quy trình ấy được thiết kế để bảo vệ đập, chứ đâu phải để bảo vệ dân. Xả giữa đêm khuya khi cả làng đang ngủ. Xả khi hồ đã đầy sát ngưỡng vì cả năm tích nước bán điện. Xả với thông báo vội vã qua loa phường, vài dòng tin nhắn đến tay một số ít người dùng smartphone. Không kế hoạch sơ tán, không phương án di dời, không hỗ trợ di chuyển. Xả như thế, nếu không gọi là đẩy dân vào chỗ chết thì còn gọi là gì? | ||||
Sân vận động 60.000 chỗ ngồi và những đồng tiền ướt bùn lũ
Trong bối cảnh ngân sách kêu khó, dân miền
Trung oằn mình trong bùn lũ,
một hình ảnh gây phẫn nộ là lễ khởi công
sân vận động PVF 60.000 chỗ ngồi tại
Hưng Yên vào tháng 10/2025.
Công trình “hoành tráng” này do Bộ Công
an làm chủ đầu tư, Vingroup làm tổng thầu,
được ca tụng như một “thiết chế văn hóa –
thể thao tầm cỡ khu vực”, một “dấu ấn
mới của bóng đá Công an Nhân dân”.
Hàng loạt mỹ từ được tung ra để biện minh
cho khoản chi khổng lồ, trong khi cùng lúc
đó, hàng vạn ngôi nhà miền Trung vẫn
chưa được sửa chữa, hệ thống hồ đập xuống
cấp chưa được gia cố.
Người ta không thể không đặt câu hỏi: đất
nước này đang ưu tiên điều gì?
Một sân vận động mái vòm hiện đại để tổ
chức vài giải đấu công an và bóng đá
phong trào, hay những cây cầu, con đập,
khu tái định cư giúp dân bớt chết vì lũ?
Những dự án xa hoa mọc lên giữa khốn
cùng chính là tấm gương phản chiếu rõ
nhất khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân
dân.
Nó cho thấy những người đang nắm quyền
không sống trong cùng một thế giới với
những người phải vác từng bao cát chống
lũ ngoài kia.
Tiền đồng rớt giá, đời sống rơi
tự do
Năm 2025, kinh tế Việt Nam giống một quả
bom nổ chậm. Đồng tiền mất giá 17–19%
so với USD, trong khi lạm phát CPI được
công bố quanh mức 3–3,5% –
những con số “đẹp” trên báo cáo nhưng
không phản ánh nổi nỗi đau ngoài chợ.
Giá xăng dầu, thực phẩm, dịch vụ y tế,
giáo dục… đồng loạt tăng, có mặt hàng
đội lên gấp 5–7 lần so với vài năm trước.
Tiền tiết kiệm của dân bốc hơi 20–30%
sức mua; những khoản dành dụm phòng
bệnh, cho con đi học bỗng chốc hóa mỏng
như tờ giấy.
Chính phủ tuyên bố quyết giữ lạm phát
dưới 4,5%, nhưng cùng lúc lại đẩy tăng
trưởng tín dụng lên 16%, chấp nhận cho
tiền rẻ tràn vào thị trường;
thuế quan, chi phí logistics và nhập khẩu
khiến hàng hóa thiết yếu càng lúc càng
đắt đỏ.
Trên đường phố, người lao động thành thị
phải trải qua những buổi sáng chen chúc,
tắc đường, ngập nước, gió lạnh cắt da –
đặc biệt ở Hà Nội – chỉ để kiếm một mức
lương ngày càng không đủ sống.
Nông dân miền Trung thì đứng nhìn ruộng
đồng bị vùi trong lũ, trắng tay sau một
đêm mưa.
Thay vì được san sẻ khó khăn, họ còn phải
đối mặt với những chiến dịch “ra quân xử
lý vi phạm giao thông” của công an, với
mức phạt từ vài triệu tới mấy chục triệu
đồng cho lỗi nồng độ cồn, khiến nhiều
người có cảm giác mình đang bị săn đuổi
hơn là được bảo vệ.
Trong khi đó, các doanh nhân, người nổi
tiếng, những người sở hữu tài sản đáng
kể đều sống trong nỗi sợ hãi vì bất cứ lúc
nào cũng có thể trở thành “đối tượng
điều tra” trong một vụ án mới, với tội
danh bị kéo dài, diễn giải theo ý muốn.
Thiên tai hay nhân tai? Trách nhiệm thuộc về ai?
https://www.youtube.com/watch?Khẩn cấp lũ lụt dân rơi vào tình trạng không thể cứu vãn
v=eN1PN5CxC08
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
No comments:
Post a Comment