Chuyện
tình Việt – Pháp – Hoa bên bờ sông Tiền
(Phunutoday)-
Nhiều người đã đọc tiểu thuyết “Người tình” (L’Amant, tiểu thuyết nổi tiếng thế
giới của nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras) và xem bộ phim cùng tên được
chuyển thể từ chính cuốn tiểu thuyết “Người tình” bởi đạo diễn nổi tiếng
Jean-Jacques Annaud. Nhưng còn ít người biết rằng, đó không chỉ
là chuyện tình Pháp – Hoa trên đất Việt, mà là chuyện tình Việt – Pháp – Hoa,
và hiện tại câu chuyện tình này đang trở thành giá trị văn hóa lịch sử lớn, góp
phần phát triển du lịch ở vùng đất miền Tây Nam bộ, trên cả huyền thoại Công tử
Bạc Liêu.
Bà Duras thời còn trẻ.
Thị xã Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) và thành phố
Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) nằm hai bên bờ sông Tiền, cách nhau khoảng
70 cây số. Gia đình chàng trai Huỳnh Thủy Lê “anh ở đầu sông” nơi thị xã Sa Đéc
đã kết thông gia với gia đình cô Nguyễn Thĩ Mỹ “em ở cuối sông” bên bờ sông
Tiền thành phố Mỹ Tho. Thế nhưng, trong khi gia đình hai bên chuẩn bị cho cuộc
hôn nhân, thì bất ngờ một cô gái người Pháp (là tác giả của tiểu thuyết “Người
tình”) xuất hiện. Sự xuất hiện của cô gái Pháp tuy có làm chao đảo, nhưng vẫn
không làm tổn hại đến cuộc hôn nhân đã hẹn ước ở hai bên sông Tiền, mà sự xuất
hiện đó đã là cơ duyên cho sự ra đời sau này một tác phẩm văn học lừng danh
trong thế giới Pháp ngữ và trở thành giá trị lớn của vùng đất Tây Nam bộ cho
đời sau.
Sự ra đời của một cuốn tiểu thuyết lừng
danh
Một ngày cuối năm 1971 giữa thủ đô Paris tráng lệ của nước Pháp. Nữ văn sĩ đang
được độc giả nước Pháp và cả thế giới Pháp ngữ yêu mến Marguerite Duras soạn
lại các tác phẩm trong một đời viết văn của mình.
Nữ văn sĩ 57 tuổi này có thói quen sống lại với các
tác phẩm của mình mỗi lần năm cũ sắp kết thúc, năm mới sắp đến. Trước mặt bà là
những cuốn tiểu thuyết mà bà đã rút ruột viết ra trong gần 30 cầm bút.
Bà Duras
dừng lại hồi lâu với cuốn tiểu thuyết L’Amant, bởi nó mang hơi thở của mối tình
rất đẹp của bà với một chàng trai người Pháp cũng trong một chiều cuối năm.
Bỗng chuông điện thoại nhà bà reo vang, chiếc điện thoại giả cổ theo kiểu Tướng
Charles De Gaulle từng sử dụng phát lên những tiếng chuông như tha thiết, như
giục giả. Bà Duras chợt thấy hồi hộp, tim đập mạnh, bà cũng không hiểu lý do
tại sao, có lẽ tiếng chuông điện thoại trong một chiều cuối năm vang lên giữa
tĩnh lặng đã làm rung động trái tim của người phụ nữ nổi danh là đa cảm này.
Nhấc điện thoại, bà Duras vẫn còn hồi hộp chờ nghe thông điệp từ bên kia đầu dây.
Giọng người đàn ông có vẽ đã lớn tuổi, phát âm không thuật chuẩn giọng Pháp, có
thể là người nước ngoài, cụ thể là vùng Đông Á bởi đặc thù của cách phát âm
theo lối ngôn ngữ đơn âm. Người đàn ông bên kia đầu dây cũng lịch sự hỏi thăm
có phải bà là nữ văn sĩ Marguerite Duras, là câu hỏi mà bà rất thường nghe mỗi
khi nhấc điện thoại. Sau khi biết chắc là bà Duras, giọng nói trong điện thoại
bỗng trở nên thổn thức hỏi bà: “Bà có nhận ra ai đang nói chuyện điện thoại với
bà không?”. Tất nhiên là bà Duras không thể nhận ra, vì đã hơn 40 năm có hơn bà
không nghe lại giọng nói ấy, ngày trước là giọng sang sảng của một thanh niên
trẻ trung, khỏe mạnh, giờ là giọng khàn đặc của một cụ già, thỉnh thoảng chen
vào tiếng ho sù sụ.
Bà Duras bỗng thấy chân tay run rẩy, đứng không còn
vững, khi từ đầu dây bên kia nói rành mạch: “Anh là Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc –
Việt Nam 42 năm trước nè, em còn nhớ không?”. Là một nữ văn sĩ rất nhanh nhạy
với từ ngữ, tế nhị trong ứng xử, nhưng trước tình huống quá bất ngờ và xúc
động, bà Duras không biết phải nói gì, miệng chỉ ấp úng những lời thừa thải:
“Ôi, anh Thủy Lê, làm sao anh biết số điện thoại của tôi…”. Ông Thủy Lê trả
lời: “Em là nhà văn nổi tiếng, có khó gì chuyện tìm xin số điện thoại của em”.
“Thế anh đang ở đâu, anh từ Trung Hoa gọi cho em phải không?”, bà Duras hỏi.
Khi ông Huỳnh Thủy Lê trả lời rằng, ông đang gọi điện thoại ngay tại Paris, bà
Duras chỉ còn biết thốt lên: “Ôi chúa ơi, cảm ơn chúa đã cho đời con còn có
được ngày này, con còn có thể gặp được người đàn ông này”.
Họ lặng lẽ đi bên nhau bên bờ sông Seine. Dòng sông
thơ mộng chảy ngang qua Paris này thường dành làm nơi hẹn hò của những đôi tình
nhân trẻ, còn người lớn tuổi ở Paris thường đi dạo trong những công viên dưới
chân tháp Effel. Thế nhưng, bà Duras lại hẹn gặp ông Thủy Lê bên bờ sông Seine
tình tứ, tất nhiên là có lý do của bà. Ngay khi vừa gặp nhau, ông Thủy Lê đã
rưng rưng đôi mắt mờ đục của tuổi già và nói: “Anh vẫn yêu em, trọn cuộc đời
anh vẫn yêu em”. Bà Duras cũng bất chợt thốt lên những câu nói tương tự. Họ
đứng tựa vào nhau, hai mái đầu đã trắng màu sương tuyết nhưng hai trái tim thì
vẫn nóng hổi, thổn thức.
Dòng sông Seine mùa đông mặt nước lặng lờ trôi, không
một gợn sóng, nhưng trong tâm tưởng của đôi tình nhân già đứng trên bờ sông lại
ào ạt sóng nước sông Cửu Long, sóng nước đập vào mạn phà Mỹ Thuận chạy ngang
dòng sông Tiền, trong một ngày cuối năm nước đổ như thác từ phía thượng nguồn…
Cô nữ sinh Marguerite Duras tuổi 15 rời chiếc xe đò Sa Đéc – Sài Gòn, bước xuống
phà, đứng tựa vào lan can phà nhìn nước sông Cửu Long chảy siết mang theo những
đám lục bình trôi tản mạn. Chàng trai Huỳnh Thủy Lê cũng bước ra khỏi chiếc
Limuosine màu đen sang trọng tiến đến mạn phà nơi cô gái Tây đang đứng…Để rồi
một mối tình dữ dội và lãng mạn đã đến với chàng thương gia người Hoa và cô nữ
sinh người Pháp…
Chia tay với ông Thủy Lê trên bờ sông Seine, bà Duras
trở về nhà cả đêm không thể ngủ, hình ảnh mối tình đầu của bà nơi xứ thuộc địa
Đông Dương xa xôi cứ ào ạt tràn về như nước sông Cửu Long năm nào. Đối với
những người cầm viết, nhất là những nhà văn nữ, những khoảnh khắt cảm xúc cao
độ như thế thường cho ra những tác phẩm hay, và bà Duras cũng không bỏ qua cơ
hội tuyệt vời này. Quyển tiểu thuyết “Người tình” (L’Amant, Nhà xuất bản Les
Éditions de Minuit năm 1984) đã ra đời trong hoàn cảnh như thế và nhanh
chóng chinh phục độc giả Pháp vốn rất tinh tế với văn chương, ngay sau khi xuất
bản nó đả trở thành cuốn sách “best seller” (bán chạy nhất) với 2,4 triệu bản,
đoạt giải Goncourt - một giải thưởng danh giá của văn học Pháp.
Quyển tiểu thuyết cũng nhanh chóng được phổ biến rộng
rãi trong thế giới Pháp ngữ và trên toàn thế giới, nó đã được dịch ra 43 thứ
tiếng, tất nhiên là có cả tiếng Việt, và được dựng thành phim cũng rất nổi tiếng.Tiếng
sét ái tình trên sông Tiền Phà Mỹ Thuận một ngày cuối năm năm 1929. Con
đường thiên lý từ Sài Gòn đi về vùng sông nước miền Tây Nam bộ phải qua rất
nhiều sông rạch, hầu hết đều đã được bắc cầu, duy chỉ có hai nhánh sông Tiền và
sông Hậu của dòng sông Cửu Long rộng mênh mông là vẫn phải “lụy phà”. Mãi cho
đến năm 2000 chiếc phà Mỹ Thuận mới kết thúc vài trò lịch sử của nó khi chiếc
cầu Mỹ Thuận – cầu dây văng hiện đại đầu tiên của Việt Nam – nối liền hai bờ
sông Tiền. Sau đó 10 năm, phà Cần Thơ cũng kết thúc sứ mạng lịch sử kéo dài gần
100 năm của nó khi cây cầu Cần Thơ lớn nhất nước thông xe. Ngày ấy, vào cuối
thập niên 1920, xe đò “lục tỉnh” phải đợi qua phà Mỹ Thuận trung bình 1
giờ/chuyến.
Trên
chuyến xe đò Sa Đéc – Sài Gòn ngày hôm ấy, giữa những “anh Hai”, “chị Ba” đậm
chất nông dân miền Tây đi Sài Gòn vì một chuyện gì đó, người ta thấy có một cô
gái Tây ra dáng nữ sinh với chiếc cặp bên người, mái tóc buộc hai nhánh, đội
chiếc nón rộng vành. Xe đò xuống phà Mỹ Thuận, phà rời bến, trên xe tiếng gà
vịt lao xao, từng giỏ trái cây chất đầy trên nóc xe. Cô gái Tây rời khỏi xe,
đến đứng tựa vào lan can phà, hít thở không khí trong lành, cặp mắt mơ màng
nhìn dòng sông Cửu Long “sông dài cá lội biệt tăm”. Cô tên Marguerite Duras,
con gái của một bà giáo là hiệu trưởng trường tiểu học ở Sa Đéc. Đó là bà Marie
Donnadieu, Hiệu trưởng trường L’ecole Primaire De Jeunes Filles De Sadec, nay
là Trường Tiểu học Trưng Vương thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Đây là ngôi
trường cổ nhất Đồng Tháp.
Ngôi nhà của ông Huỳnh
Thủy Lê ở Sa Đéc.
|
Quê cô ở tận Paris nước Pháp, sau khi cha mẹ cô chia
tay, mẹ cô đã dắt 3 đứa con nhỏ qua xứ thuộc địa Đông Dương để dạy học theo chủ
trương truyền bá văn hóa Pháp sang các nước thuộc địa. Đến Sài Gòn, mẹ cô tình
nguyện về một tỉnh miền Tây xa xôi để dạy học và bà đã dắt các con đến thị xã
Sa Đéc, nơi đó có một ngôi trường tiểu học xập xệ, thiếu thốn mọi bề để dạy
học. Thuở ấy ở Sa Đéc mới có trường tiểu học, muốn học cao hơn phải đến Mỹ Tho,
Cần Thơ hoặc lên Sài Gòn. Học hết tiểu học, Duras được người mẹ là giáo viên
nghèo gửi lên học trung học ở Sài Gòn, nơi bà có người bạn thân làm hiệu
trưởng. Duras có 2 người anh, không ai chịu học hành gì nhiều, trong đó có một
người bị nghiện hút, là nỗi khổ tâm của mẹ cô, vì vậy người mẹ khắc khổ đã
quyết tâm cho đứa con gái út học hành đàng hoàng.
Hậu thế phải mang ơn bà Marie Donnadieu rất nhiều, vì
nhờ sự quyết tâm của bà cho cô con gái Duras học hành đàng hoàng mà sau này thế
giới có một nữ văn sĩ tài năng, đóng góp vảo kho tàng văn học của nhân loại
nhiều tác phẩm có giá trị. Trên chiếc phà Mỹ Thuận chạy ngang sông Tiền vào cái
ngày cuối năm 1929 tiền định ấy, ngoài chiếc xe đò chạy bằng than đá cổ lỗ nói
trên, còn có chiếc xe hơi sang trọng hiệu Limuosine. Thời ấy, vào cuối thập
niên 1920, xe hơi nhãn hiệu Limuosine nổi tiếng của Mỹ mới nhập vào Đông Dương
chưa tới 10 chiếc, ở miền Tây Nam bộ chỉ có vài chiếc, trong đó công tử Bạc
Liêu Trần Trinh Huy cũng tậu một chiếc ngay từ đợt đầu tiên.
Chiếc Limuosine màu đen trên chiếc phà Mỹ Thuận qua
sông Tiền ngày hôm ấy không phải của công tử Bạc Liêu đang nổi tiếng về ăn chơi
trên đất Nam kỳ, mà là của một “công tử” khác cũng trên đất “Nam kỳ lục tỉnh”,
nhưng ít giàu có và không nổi tiếng bằng, đó là ông Huỳnh Thủy Lê, con trai út
của ông chủ chành gạo Huỳnh Thuận giàu có nhất nhì tỉnh Sa Đéc. Là người gốc
Hoa, ông Huỳnh Thuận không khởi nghiệp làm giàu bằng ruộng lúa như những đại
điền chủ khác ở miển Tây Nam bộ, ông đã tận dụng lợi thế của người Hoa trong
kinh doanh thương mại để kinh doanh lúa gạo, cả mua bán trong nước và xuất
khẩu. Ông có chành gạo lớn nhất Sa Đéc, nơi tập trung lúa gạo để chuyển đi bán
ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như đưa về cảng Nhà Rồng để xuất khẩu ra nước ngoài.
Phất lên với nghề kinh doanh, xuất khẩu gạo, ông Huỳnh Thuận xây dựng nên những
dãy phố sầm uất ở thị xã Sa Đéc để cho thuê, rồi ông về khu người Hoa ở Chợ Lớn
xây dãy phố cũng với mục đích cho thuê. Chỉ riêng ở Sa Đéc, ông Huỳnh Thuận đã
có hàng trăm căn phố, ông trở thành người giàu có nhất nhì tỉnh Sa Đéc thời đó.
Cậu con trai út Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Thuận chọn nối nghiệp trao cho
toàn bộ gia sản. Vì vậy mà ông Thủy Lê thường xuyên đi lại giữa Sa Đéc và Sài
Gòn để quán xuyến chuyện làm ăn của gia đình bằng chiếc xe Limuosine màu đen
sang trọng.
Năm ấy ông Huỳnh Thủy Lê đã 27 tuổi, nhưng vẫn chưa
lập gia đình, thời đó như thế là quá đứng tuổi, là hiện tượng lạ của một đàn
ông thuộc gia đình giàu có. Ông Thủy Lê lập gia đình trễ là có nguyên nhân của
nó, cách đó gần 10 năm gia đình ông đã hứa hôn cho ông với 1 cô gái trẻ, nổi
tiếng xinh đẹp ở Mỹ Tho, tên là Nguyễn Thị Mỹ. Bà Mỹ nhỏ hơn ông gần 10 tuổi,
vì vậy ông phải đợi cho vị hôn thê “đủ lớn” để làm đám cưới. Trong chuyến đi từ
Sa Đéc đến Sài Gòn ngày hôm ấy, ông Thủy Lê cũng dự định ghé qua Mỹ Tho để thăm
gia đình nhạc gia và nhìn mặt người vợ chưa cưới. Đang ngồi nghĩ ngợi về những
thương vụ làm ăn đang chờ đợi ở Sài Gòn và nghĩ cách chào hỏi gia đình nhạc gia
ở Mỹ Tho sau vài giờ nữa, bất ngờ ông Thủy Lê nhìn thấy một bóng sắc giai nhân
nổi bật lên trong đám đông người bộ hành nghèo khó trên phà. Cô gái có nước da
trắng, tóc nâu vàng, dáng người cao ráo, có thể cô không phải là người Việt hay
người Hoa, mà là người Pháp. Cô gái mặc chiếc đầm màu sáng, đội chiếc nón rộng
vành, mặt hướng theo dòng sông, không quan tâm gì đến cảnh xô bồ trên
phà.
Là người nổi tiếng đứng đắn, không thuộc loại “mèo mả
gà đồng”, nhưng hình ảnh cô gái đứng tựa lan can phà nhìn dòng nước chảy xuôi
chợt làm trái tim ông Thủy Lê rung động. Ông như bị tiếng sét ái tình, như bị
thôi miên, đã lặng lẽ mở cửa xe đến đứng bên cô gái. Không nhiều lời, chỉ vài
câu “tán tỉnh” của ông Thủy Lê, họ bỗng thấy như thân quen từ thuở nào, nhất là
khi chợt nhận ra họ cùng ở thị xã Sa Đéc, sống gần nhau “hai nhà cuối phố”. Ông
Thủy Lê đề nghị và cô gái Duras chấp nhận, cô trở về chiếc xe đò lấy chiếc va
li nhỏ và chiếc cặp học trò mang qua chiếc Limuosine màu đen để đi cùng người
đàn ông mới quen về Sài Gòn. Tất nhiên là trên quảng đường từ Mỹ Thuận về Sài
Gòn, ông Thủy Lê cũng đã “quên” ghé lại Mỹ Tho thăm nhạc gia và người vợ chưa
cưới như đã dự tính. Sau đó, tình yêu lãng mạn và dữ dội giữa cô nữ sinh trường
dòng người Pháp mới 15 tuổi rưởi và chàng thương gia giàu có người Hoa lớn hơn
12 tuổi đã kéo dài gần 2 năm trong bí mật. Dù yêu nhau đắm đuối, thường
xuyên chìm đắm trong sự hòa điệu của đôi trái tim và trong những cơn mê thể
xác, nhưng họ không thể công khai mối quan hệ của mình, mà luôn sống trong lo
lắng, ngờ vực, sợ hãi... bởi những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, giữa sự ngăn cách
về chủng tộc và thứ tầng xã hội. Còn có một nguyên nhân quan trọng khác làm ông
Thủy Lê không thể vượt qua những rào cản vô hình để sống trọn vẹn với tình yêu,
đó là cuộc hôn đã hứa hẹn gần 10 năm với 1 cô gái Việt ở thành phố Mỹ
Tho.
Có thể đối với Marguerite Duras, mọi rào cản đều có
thể bị san bằng, bởi cá tính mạnh mẽ và sự “nổi loạn” của tuổi trẻ, nhưng với
Huỳnh Thủy Lê thì lại khác, nền giáo dục Nho học hàng ngàn đời đã không cho
phép chàng vì tình yêu mà vượt qua tất cả những định chế của gia đình, dòng
tộc, xã hội. Sau khoảng một năm rưỡi, cuộc tình của họ đã kết thúc trong nước
mắt khi ông Thủy Lê phải đi đến cuộc hôn nhân đã được an bày từ gần 10 năm
trước, còn Duras cùng gia đình lên tàu trở về cố hương bên trời Tây xa
xôi.
Trước ngày rời Sài Gòn, Duras đã đến ngôi nhà nơi cô
từng sống những tháng ngày em đềm bên người tình, nhưng ông Thủy Lê đang bận lo
đám cưới ở tận miền Tây. Sau này khi viết tiểu thuyết “Người tình”, bà Duras đã
kể lại khoảnh khắc này bằng những trang sách đẫm nước mắt:“Khóc mà không để cho
mẹ nàng và người anh kế của nàng nhìn thấy nàng đang buồn, không để cho họ nhìn
thấy gì hết, là thói quen giữa họ với nhau”.
Ngày hôm sau, khi ra bến tàu, Duras cố nấn ná, kiếm
tìm trong vô vọng hình bóng người đàn ông đã mang đến cho cô cả niềm hạnh phúc
và nỗi khổ đau, cô ước mong được nhìn thấy ông 1 lần cuối cùng trong đời. Duras
đâu ngờ rằng, ông Thủy Lê đã ra bến tàu tiễn cô, để nhìn thấy cô 1 lần cuối
cùng trong đời, nhưng ông không để cô biết, mà đứng lặng lẽ trong con đường nhỏ
cạnh bến tàu để làm 1 cuộc chia ly. Thật kỳ diệu, khi chiếc tàu nhổ neo
rời bến, Duras cũng đứng tựa vào lan can tàu như đã đứng trên phà Mỹ Thuận ngày
nào, mắt hướng vào bờ, nhờ vậy mà cô đã nhận ra ông Thủy Lê đứng nép bên chiếc
Limuosine màu đen quen thuộc trong con đường khuất để dõi theo bóng tàu. Chỉ
vài giây ngắn ngũi, họ thậm chí còn không kịp đưa tay chào nhau, chiếc tàu đã
khuất bóng. Ông Thủy Lê phải vội vã quay về lo đám cưới, còn Duras lênh đênh
trong cuộc hành trình dài 1 tháng rưởi, với những cơn vật vã do say sóng và với
nỗi buồn thiên cổ vì yêu! Bà Duras đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Người
tình”: “Chiếc xe to lớn của chàng ở đó, dài và đen với người tài xế mặc chế
phục trắng đàng trước. Chỗ đó chỉ cách chỗ đậu xe của hãng tàu thủy Messageries
Martimes một con đường nhỏ, riêng biệt. Đó là điều mà nàng đã nhận ra. Đó chính
là chàng ở phía sau, chỉ đủ trông thấy hình dáng, bất động, kiệt sức. Nàng tựa
người vào lan can tàu, giống như lần đầu tiên, trên phà. Nàng biết chàng đang
nhìn nàng, nàng cũng đang nhìn chàng, nàng không thể nhìn thấy chàng nữa nhưng
nàng vẫn nhìn về phía cái hình dáng của chiếc xe đen. Rồi sau cùng thì nàng
không thể nhìn thấy nó nữa. Bến cảng nhòa đi, rồi đến đất liền”.
Rơi
vào quên lãng Ông Huỳnh Thủy Lê trở về Sa Đéc để chuẩn bị cho 1 đám
cưới lớn nhất từ trước đến giờ trong cái thị xã nhỏ bên bờ sông Tiền này. Đám
cưới giữa ông với cô gái vùng đất “miệt vườn” cây lành trái ngọt Mỹ Tho kéo dài
suốt 3 ngày, trở thành ngày hội của người dân Sa Đéc, nhưng trong lòng của chú
rể thì như “một nửa hồn tôi chết”. Ngày ông rước cô dâu trẻ đẹp Nguyễn Thị Mỹ
từ Mỹ Tho về Sa Đéc ngang qua phà Mỹ Thuận, cô dâu luôn tươi vui trong bộ áo
dài vải gấm và bó hoa cưới rực rở, còn chú rể cố giữ nét mặt không biểu hiện
cảm xúc. Tình cờ, cô dâu bước xuống xe, cũng đến đứng tựa vào lan can phà để
khuây khỏa sau đoạn đường dài tù túng trong chiếc Limuosine, ở ngay tại nơi mà
cô nữ sinh Marguerite Duras đã đứng ngày trước… Trong tiệc cưới của mình, ông Thủy
Lê uống thật nhiều rượu, uống như chưa bao giờ ông được uống, mọi người cho
rằng vì ông quá vui trong ngày vui của mình, nhưng có lẽ chỉ một mình ông biết
là trong những chén rượu chảy tràn có chứa những hương vị gì: hạnh phúc hôn
nhân, tình yêu, nỗi buồn, đau khổ…? Không biết bên trời Tây người con gái có
tên Duras có đau buồn kéo dài hay không, còn ở trời Nam, chú rể mới là thương
gia Thủy Lê đã sớm nguôi ngoai chuyện tình buồn để trở về với công việc quán
xuyến toàn bộ sản nghiệp và cơ ngơi làm ăn do cha là ông Huỳnh Thuận giao lại
cho đứa con trai út sau khi nó đã thành gia thất. Rồi “chim quyên quen trái
nhản lồng”, ông Huỳnh Thủy Lê và bà Nguyễn Thị Mỹ đã trở thành đôi vợ chồng đầm
ấm, hạnh phúc hơn người, là hình ảnh mơ ước của bao người dân Sa Đéc và khu
người Hoa ở Chợ Lớn. Bà Mỹ đã sinh cho ông Thủy Lê tổng cộng 5 đứa con, 3 gái,
2 trai. Họ sinh ra trên nhung lụa, lại được nền giáo dục nề nếp của gia đình,
nên tất cả đều thành đạt.
Bến phà Mỹ Thuận ngày
nay.
|
Cô con gái giữa Huỳnh Thủy Anh của họ từng là hoa khôi
của một trường trung học ở Chợ Lớn, cô về làm dâu của ông Trần Văn Hương,
nguyên thủ tướng của chính quyền Sài Gòn cũ, từng có 1 tuần lễ làm tổng thống
chế độ Sài Gòn cũ sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức.
Hiện tại, các con của ông Lê đều sống ở nước ngoài,
trong đó Huỳnh Thủy Tiên là GS.TS - Giám đốc Bệnh viện Nhi ở bang Califonia
(Mỹ), Huỳnh Thủy Hà là giảng viên trường ĐH Sorbonne (Pháp. Năm 1972 ông Trần
Thủy Lê qua đời ở tuổi 70, đám ma của ông có ông thông gia là Trần Văn Hương
đáp máy bay từ Sài Gòn về đưa tang.
Chuyện tình, chuyện cuộc đời của người đàn ông nổi
tiếng trên đất Sa Đéc tên Huỳnh Thủy Lê tưởng như đã đi vào quên lãng, nếu như
1 năm trước ngày qua đời ông không có chuyến đi Pháp để gặp lại người con gái
trên phà Mỹ Thuận năm nào. Cuộc gặp ở Paris, bên bờ sông Siene đã giúp cho tiểu
thuyết, sau đó là bộ phim “Người tình” ra đời. Để rồi từ đó, thị xã Sa Đéc, nơi
ông Huỳnh Thủy Lê và bà Marguerite Duras từng sống và từng yêu nhau, như được
phủi lớp bụi thời gian, trở nên lung linh sống động, trở thành điểm du
lịch hấp dẫn của du khách trên khắp thể giới.
No comments:
Post a Comment