
Nguyễn Trung Kiên.
Bài thơ đầu anh viết
tặng em
Là bài thơ anh viết về
đôi dép
Khi nỗi nhớ trong lòng
da diết
Những vật tầm thường
cũng viết thành thơ
Hai chiếc dép kia gặp
gỡ bao giờ
Có yêu nhau đâu mà
chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những
nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống
cát bụi, cùng nhau
Cùng bước, cùng mòn,
không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người
chà đạp
Dẫu vinh nhục, không
đi cùng người khác
Số phận chiếc nầy phụ
thuộc ở chiếc kia.
Nếu ngày nào một chiếc
dép mất đi
Mọi thay thế sẽ trở
thành khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng
người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng
phải một đôi đâu.
Cũng như mình trong
những phút vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ
nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có
người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ
cứ chênh vênh.
Đôi dép vô tư khắng
khít bước song hành
Chẳng thề nguyện mà
không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không
hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt
cả đôi.
Không thể thiếu nhau
trên mọi bước đời
Dẫu mỗi chiếc ở một
bên phải, trái
Nhưng anh yêu em bởi
những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau một
bước đi chung.
Hai mảnh đời thầm lặng
bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ
còn một chiếc
Chỉ còn một là không
còn gì hết
Nếu không tìm được
chiếc thứ hai kia.
Nguyễn Trung
Kiên
Lời Bình của Bình
Tú Ngọc.
Tôi bất ngờ đọc được bài
thơ nầy trên một tờ báo Cơ Đốc từ rất lâu, và ngay lần đọc đầu tiên, bài thơ cứ
như ám ảnh mãi trong tôi, không thể nào quên được. Và thế là tôi cứ đọc đi, đọc
lại mãi cho đến khi thuộc lòng mới chịu thôi. Sở dĩ bài thơ gây ấn tượng trong
tôi ngay từ lần đọc đầu tiên, vì cái tựa đề rất ấn tượng của nó.
Đôi dép, một vật rất đỗi
quen thuộc, bình thường với cuộc sống của mỗi con người, không ai là không sở
hữu cho mình một đôi dép để đi lại. Quen thuộc, bình thường đến độ nhiều khi ta
không còn để ý đến nó nữa. Ấy thế mà có một người đã “bắt” ta
phải để ý đến nó và thấy nó mới đáng yêu làm sao, người đó chính là nhà thơ
Nguyễn Trung Kiên-tác giả bài thơ độc đáo nầy.
Tôi nói độc đáo, vì quả
thật, tác giả rất “tinh” khi chọn đôi dép để làm hình ảnh bày
tỏ ý nghĩa về tình cảm vợ chồng, mà xưa nay, chưa một ai có suy nghĩ đó cả, dù
nó vẫn “song hành” cùng mỗi người hằng ngày rất đỗi quen
thuộc.
Đôi dép luôn gắn bó bên
nhau, không rời nhau nửa bước trong bất cứ môi trường nào:
Hai chiếc dép kia gặp gỡ
bao giờ/ Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước/ Cùng gánh vác những nẻo đường
xuôi ngược/ Lên thảm nhung, xuống cát bụi, cùng nhau/ Cùng bước, cùng mòn không
kẻ thấp người cao/ Cùng chia sẻ sức người chà đạp/ Dẫu vinh nhục, không đi cùng
người khác/ Số phận chiếc nầy phụ thuộc ở chiếc kia.
Đôi dép là vật vô tri vô
giác mà còn biết “chung thủy” với nhau như thế, thì vợ chồng
sống với nhau phải như thế và hơn thế mới phải lẽ. Gắn bó trọn đời bên nhau,
gian khổ, vất vả cùng chia; đắng cay, ngọt bùi cùng hưởng. Sống chết có nhau.
Luôn luôn phụ thuộc vào nhau. Vợ không thể sống thiếu chồng và chồng cũng không
thể nào sống thiếu vợ, vì đó là luật định của Tạo Hóa đã ban cho con người
chúng ta từ bao đời nay rồi. Từ “cùng” được lặp đi lặp lại đến
những năm lần trong hai khổ thơ thật hay nhấn mạnh đến sự gắn
bó bên nhau của vợ chồng trong mọi nẻo đường đời.
Nếu rủi thay, đến một
thời điểm nào đó mà một chiếc dép bị hư, bị đứt và buộc phải thay thế bằng một
chiếc khác để mang thì người mang vẫn cảm nhận được một sự “ngờ ngợ” nào
đó, vẫn cảm thấy “sao sao” ấy, như là một sự “lệch
pha” trong lòng, không tả được. Vợ chồng khác nào như thế! Nếu một khi
nào đó, một trong hai người “đi về bên kia thế giới”, người còn lại
dù có “đi bước nữa” với một người khác thì trong lòng vẫn cảm
thấy có một khoảng trống không có gì có thể lấp đầy được, vẫn cảm nhận rất rõ
sự hụt hẫng, sự khập khiễng từ trong trái tim mình:
Nếu ngày nào một chiếc
dép mất đi/ Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng/ Giống nhau lắm nhưng người
đi sẽ biết/ Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu! Cũng như mình trong những
phút vắng nhau/ Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía/ Dẫu bên cạnh đã có người
thay thế/ Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh.
Tác giả đã sử dụng những
từ “khập khiễng”, “hụt hẫng”, “chênh vênh” thật
đắc để lột tả được nỗi nhớ nhung, sự trống vắng trong lòng người ở lại khi
người kia “ra đi” trước mình. Tôi rất thú vị, thú vị đến bất
ngờ khi đọc đến từ “nghiêng” trong câu thơ “Bước
hụt hẫng cứ nghiêng về một phía”. “Nghiêng” ở đây không
chỉ nói đến sự thiếu cân bằng của cơ thể khi đi hai chiếc dép cũ-mới khác
nhau, nhưng “nghiêng” ở đây là tình cảm, là trái tim người còn
ở lại cứ “nghiêng” về phía người đã ra đi, dẫu đã có người
khác thay thế bên cạnh rồi. Không ai có thể bù đắp được cái sự hụt hẫng nầy cả.
Phải chăng đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, mầu nhiệm mà Tạo Hóa đã đặt để
trong lòng của những đôi vợ chồng?
Nhà thơ Tú Mỡ có những
vần thơ cũng cùng một cảm nhận như thế: Tôi mà chết thì ông sẽ khổ/ Vì
cứ theo câu cổ người ta/ Xưa nay con cái nuôi cha/ Cũng không chu đáo bằng bà
nuôi ông.
Tác giả viết tiếp: Đôi
dép vô tư khắng khít bước song hành/ Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối/
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội/ Lối đi nào cũng có mặt cả đôi. Đôi
dép luôn song hành bên nhau, luôn khắng khít có đôi. Vợ chồng phải sống với
nhau như thế. Sống chân thật, thủy chung và “yêu nhau tha thiết không
phai” cho đến đầu bạc răng long, cho đến khi nào không còn hiện diện
trên cõi đời nầy nữa.
Cha ông ta đã từng nhắc
nhở:
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn, xin
đừng quên nhau.
Bài thơ được kết thúc như
một “tuyên ngôn” mạnh mẽ về tầm quan trọng của cuộc sống vợ
chồng: Vợ chồng không thể sống thiếu nhau!, vì một khi đã
thành vợ chồng rồi thì không còn là hai nữa mà là một mà thôi. “Hai
người đã nên một thịt” rồi mà: Hai mảnh đời thầm lặng bước
song song/ Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc/ Chỉ còn một là không còn gì
hết/ Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia! Vợ chồng mà khi “chỉ
còn một” thì đúng là “không còn gì hết”. Đó là một chân lý
vậy!
Khi nói về vợ chồng,
chúng ta không thể nào không nghĩ đến vấn đề nguồn gốc của hôn nhân. Hôn nhân
đến từ đâu? Hay nói cách khác, ai là người đã thiết lập hôn nhân đầu tiên cho
con người? Nói đến nguồn gốc hôn nhân, người Việt Nam ta thường hay cho rằng do
ông Tơ bà Nguyệt xe duyên mà thành, do ông Tơ bà Nguyệt định đoạt hết cả.
Chuyện kể rằng: “Vào
đời Đường, có chàng Vi cố trọ học ở Tống thành. Một hôm, Vi cố đi chơi đêm, gặp
một cụ già ngồi dưới trăng đọc sách, bên cạnh có túi xách, bên trong có cuộn
chỉ đỏ. Vi Cố hỏi cuộn chỉ ấy để làm gì, thì được đáp: “Ta là Nguyệt Lão (ông
Nguyệt), giữ sổ biên tên nhân duyên của người đời, chỉ đỏ này dùng buộc
chân họ cho nên vợ nên chồng.” Nghe vậy, chàng lại hỏi: “Thế nhân duyên
của chúa có biên trong sổ ấy không?”. Cụ nói: “Sao lại không?”, rồi giở sổ ra
và nói: “Nhà ngươi sau nầy lấy con gái của người ăn mày ngoài chợ đó.” Vi Cố
cho đó là nhục, hôm sau ra chợ chém chết người con gái ăn mày và bỏ trốn đi nơi
khác. Về sau, Vi Cố lấy một người con gái quan phủ, nhưng sau mới biết là con
của mụ ăn mày ngoài chợ, bị bỏ ở chợ, quan thương tình đem về nuôi.
Điển nầy chỉ nhân duyên
trời định không sao tránh được hoặc mối duyên tốt đẹp trời xe.” (*)
Như vậy, cuối cùng thì sự
tích nầy cũng xác nhận chuyện nhân duyên, vợ chồng là do trời định
cả.
Nhìn vào Kinh Thánh là
Lời của Đức Chúa Trời, ta nhận ra ngay nguồn gốc chân xác của hôn nhân là đến
từ Thiên Chúa, do chính Đức Chúa Trời thiết lập sau khi dựng nên con người.
Sách Sáng-thế-ký trong Kinh Thánh chép về nguồn gốc của hôn nhân như sau: “Giê-hô-va
Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một
kẻ giúp đỡ giống như nó…Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy
một xương sường, rồi lấp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sường
đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ đưa đến cùng A-đam. A-đam nói rằng: Người
nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là
người nữ, vì nó do nơi người nam mà có. Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ
mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt.” (Trích sách
Sáng-thế-ký, đoạn 2, câu 18, câu 21-24).
Như vậy, chính Đức Chúa
Trời đã tác hợp đôi nam nữ đầu tiên lại với nhau để trở thành vợ chồng,
để rồi từ đó, con người cứ theo luật định của Ngài mà dựng vợ gả chồng, xây
dựng hôn nhân với nhau.
Nguồn gốc đích thực của
hôn nhân là đây chứ không phải là đến từ ông Tơ bà Nguyệt nào đó đâu. Đó là
điều chúng ta đã biết được một cách chắc chắn mà không sợ sai lầm. Tạ ơn Chúa
đã ban hôn nhân cho con người để con người có thể được chung sống với nhau
trong hôn nhân cách hạnh phúc tràn đầy.
Hôn nhân được ban cho con
người với mục đích là để cho vợ chồng vui hưởng tình yêu bên nhau cách thỏa
thích, để duy trì dòng giống loài người và để thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng
Tạo Hóa, Đấng đã thiết lập hôn nhân thật cao đẹp.
Vợ chồng cần phải biết
sống với nhau trong tình yêu và bằng tình yêu, sống với nhau bằng sự thủy chung
như nhứt đang khi Chúa cho còn sống trong cõi thế gian nầy thì Đức Chúa Trời
mới đẹp lòng. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết cuộc sống vợ chồng chỉ giới hạn
trong cõi thế gian nầy mà thôi, chứ trên thiên đàng là nơi những người tin thờ
Chúa Giê-su sẽ đi đến để ở mãi mãi với Chúa thì không còn có đời sống vợ chồng
nữa. Chính Đức Chúa Giê-su đã phán rằng: “Con cái của đời nầy lấy vợ gả
chồng; song những kẻ đã được kể đáng dự phần đời sau và đáng từ kẻ chết sống
lại, thì không lấy vợ gả chồng.” (Trích sách Lu-ca, đoạn 20, câu 34).
Cảm ơn tác giả Nguyễn
Trung Kiên đã mượn hình ảnh đôi dép để diễn tả tình cảm vợ chồng thật hay, thật
độc đáo, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Có nhiều bài thơ viết về
tình cảm vợ chồng rất hay, “Đôi dép” là một trong những bài
thơ hay đó. Nó không chỉ hay mà còn rất gần gũi, chân thực và cảm động nữa.
Nhà thơ Lê Minh Quốc khi
bình bài thơ nầy đã có một kết luận theo tôi là rất chí lý: “Đến với
một bài thơ hay, có nhiều đường đến và nhiều hướng để cảm nhận. Với tôi, tôi
nghĩ trong đời, nếu có một người để mình da diết thương, mình cuồng nhiệt yêu,
mình điên cuồng nhớ…thì đó đã là một hạnh phúc. Hạnh phúc vì tin rằng dù được
hoan lạc yêu hay não nùng tình phụ thì những cuộc tình đẹp vẫn tồn tại và có
thật ở trên đời. Trong suy nghĩ đó, tác giả Nguyễn Trung Kiên là một người hạnh
phúc. Anh đã gieo cho bạn đọc một niềm tin như thế” (**)
Tôi nghĩ, Nguyễn Trung
Kiên hẳn sẽ rất hạnh phúc khi anh đã đem đến cho độc giả, nhất là cho những đôi
vợ chồng, một bài thơ thật gần gũi, đáng yêu, đáng nhớ vô cùng.
Xin cảm ơn nhà thơ Nguyễn
Trung Kiên!(***)
Bình Tú Ngọc
No comments:
Post a Comment