Mày nặng qúa
Thấy hắn sắp quạu, tôi
không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn
Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.
Đêm vào khuya, tôi bị vết
mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại
đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị
thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ
cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm
độc.
Hình như tên tù binh có tâm
sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn
lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng
hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở
dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
“Này! Này!”
Tôi khoát tay ra dấu cho
hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng
hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.
Lợi dụng lúc căn phòng chộn
rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:
– Các anh có đem tôi đi bắn
bỏ không?
Tôi ngạc nhiên
– Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói
với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ
mặt hoàn toàn thật thà,
– Chính ủy nói mà! Chính ủy
nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.
– Ai mà bắn anh làm gì?
Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!
Anh Việt-Cộng ngẩn người,
ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
“Chẳng lẽ chính ủy nói
sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.
– Này! Có phải Xuân là vợ
anh không? tôi hỏi dò.
– Đúng! Xuân là vợ tôi đấy!
Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi
có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?
Nghe tâm sự của anh ta, tôi
không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho
tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút
đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất
hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến
Cộng.
– Hết lo chết rồi nhé! Giờ
thì mình đi thôi!
Viên đại úy Mỹ cũng cúi
xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ
tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.
– Này! Cầm lấy! Tôi cũng
người Hải-Dương…
Anh trung úy Việt-Cộng rụt
rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc
lắc vài cái.
– Các anh đã cứu mạng tôi.
Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu? Lúc
này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ
tay vẫy tôi lần cuối.
Tới trưa, tôi được chuyền
thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo
chế độ điều trị ngoại trú.
Bà bác sĩ trưởng khoa dúi
vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi
rửa sạch.
“Don’t throw it away! Keep
it for memory!” bà dặn dò.
Bà không bắt tay tôi, mà
xoay lưng đi về văn phòng.
“Take care! Good bye! My
son!”
phút chia tay, hình như bà
tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.
Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá
mới nói nhỏ vào tai tôi:
“Her son was a Ranger like
you!”
Hai ngày sau tôi trở lại
bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá
trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.
Nhớ tới bà, lòng tôi chợt
dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.
Thế là bà đã về quê! Bà đã
xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng
là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính
nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình
* * *
Cuối tháng Chín năm 1974
Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để
tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc
này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh
Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.
– Ngày đó, vì cớ gì mà anh
cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
– Đạo lý làm người mà Long!
“Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng
ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.
– Đúng! Kẻ thù là người có
ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì
với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.
– Sau này anh có còn gặp
lại y không?
– Không. Vì khai thác xong
thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?
Tôi nhắc anh Tư.
– Anh có nhớ chuyện thằng
Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
– “Moa” không hỏi, mà cũng
quên khuấy chuyện này rồi.
– Xuân là tên vợ hắn. Đứa
con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam.
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa
bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
– Ừ há! Chắc ngày trao đổi
tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh
ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.
– Thằng đó là người cùng
quê với tôi đấy.
Anh Tư gật gù.
– Có khi hai người là bà
con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo.
– Biết đâu chừng lại là anh
em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là
con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.
– Những thằng địch đang cầm
súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng
Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra
cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng
mình!
* * *
No comments:
Post a Comment