Friday, April 15, 2016

NGÀY ĐẦU TIÊN & CUỐI CÙNG ĐI DẠY HỌC (GS. Dương Đình Đống)

Kính thưa quý thầy cô và các anh chị,

Dù không được diễm phúc là học trò của Thầy, nhưng Thukỳ rất may mắn được quen biết Thầy, người mà cả trường Nguyễn Huệ nói chung, và tỉnh Phú Yên nói riêng, ai cũng biết. Các anh chị, khi nhắc về Thầy, đều bầy tỏ lòng kính phục, quý mến và biết ơn…Khi Thukỳ hỏi về Thầy thì các anh chị đều bảo: "Thầy rất nghiêm khắc, dạy rất giỏi, công tâm, thương học trò, nhất là học trò nghèo..." làm Thukỳ cảm phục hết lòng.

Người Thầy khả kính ấy chính là Giáo Sư Dương Đình Đống, người đã chọn Tuy Hòa, Phú Yên làm quê hương yêu dấu của mình; đem hết tâm huyết, lương tâm để rèn luyện, dạy dỗ học sinh nơi vùng đất hiền hòa từ khi mới ra trường năm 1962 cho đến khi mất nước....

Bị kẹt tại quê nhà, Thầy sống với những tháng ngày kỷ niệm; và khi không được đi dạy lại, Thầy tâm sự: “Nhiều đêm âm thầm rơi lệ ướt cả gối, sáng dậy mới hay…”  

Thukỳ xin hận hạnh giới thiệu đến các anh chị hồi ký “Ngày Đầu Tiên Và Cuối Cùng Đi Dạy Học” của Thầy Đống gởi đến chúng ta qua những kỷ niệm thầy trò và sân trường mến yêu.

Trân trọng,

Thukỳ.







 Nhớ: 
· Hai lớp Đệ Nhị A và B năm hoc 62-63
· Khối lớp 12 A, B và C năm học 74-75
Trường Trung học Nguyễn Huệ, Tuy hòa

Cách đây 43 năm,  từ Đại học Sư phạm Sài gòn, Tôi được bổ về dạy tại trường, Trung học Nguyễn Huệ, Tuy hòa.
  
Sáng hôm ấy,  trời thu mát lạnh dễ chịu,  trên đường Nguyễn Huệ đến trường,  Tôi bảo ông xích lô đạp chậm để Tôi thưởng thức cảnh vật,  nhất là hai hàng dương liễu xanh tươi, song song và thẳng tắp ở vệ đường sao mà đẹp quá,  lại có nhiều chim sẻ nhảy nhót vui nhộn trên mặt đường,  lòng Tôi lâng lâng hớn hở và tự hào khôn xiết!
Trước khi vào trường,  Tôi rảo mắt,  qua hàng rào dây thép gai,  nhìn ba dãy lớp trệt cũ,  hình chữ U, quét vôi màu hồng,  rồi ngước lên tấm bảng to tướng “TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HUỆ” đặt trên hai trụ cổng  cao ngất cũng màu hồng,  như muốn nuốt chửng “cô dâu mới” lạc lõng này.






Tôi nhè nhẹ đệm từng bước đi trên mô đất cao dẫn vào văn phòng trường,  rón rén cố tránh dẫm lên những bụi cỏ tươi mà Tôi có cảm tưởng như đang chào đón và khích lệ Tôi,  trong khi mắt không dám nhìn thẳng vào trụ cờ trước mặt,  như kính sợ sư trang nghiêm của ngôi trường,  “ngôi chùa mà từ nay Tôi quyết chí xuất gia tu hành, ” nhưng Tôi liếc rất nhanh và “ghi” rất rõ tất cả những chuyển động của các em đang chơi dưới sân ở hai bên lối vào trường.  Xa xa, trước các phòng phía tay phải có nhiều em nam nữ lớn hẳn so với phần còn lại.   Đang vui đùa,  các em này chợt dừng lại nhin về phía Tôi, rồi tụ năm, tụ bảy vừa chỉ chỏ, vừa nói gì với nhau. Tôi biết ngay đó là hai lớp Đệ Nhị A và B, những lớp lớn nhất của trường mà Tôi sẽ “gặp gỡ” sáng nay. Tim Tôi hồi hộp thêm. Lần này Tôi nhin thăng về các em ấy. Tôi chợt thấy một em cao nhất trong đám- mà  sau này Tôi biết là Phạm Phích- cười nói gì đó với các bạn rồi đưa tay phải để ngang trước ngực, vừa tỏ cho bạn vừa cho Tôi hiểu là ông thầy này lùn quá, chỉ cao tới ngực anh ta thôi! Các bạn cười òa…Trong phút chốc Tôi cảm thấy hoang mang, nhưng lòng tự tin trở lại với Tôi ngay. Tôi chợt nhớ lời thầy Tôi,  giáo sư Rheim,  ở ĐHSP Sài gòn vào dịp Tết Nguyên đán trước đó.  Thầy vừa cười vừa thân mât hỏi Tôi:
-Tai sao Anh chọn nghề dạy hoc này? Anh có lầm không, có ân hận không?
Tôi ngạc nhiên:
-Thưa Thầy, con không biết! Con thi đậu thì con học thôi ạ.
- Ở bên Pháp, nước tôi, chon sinh viên ĐHSP là rất khó: Sau khi đậu viết rồi,  thí sinh phải vào vấn đáp để giám khảo loại ra những người không thích hợp với nghề này. Anh: lùn,  ốm, đen thế này thì làm sao dominer (chế ngự ) hoc trò? Tôi xem Anh chỉ được có phát âm tốt và thiện chí thôi!
- Thưa Thầy, nước con không có lệ ấy; hơn nữa, trong dân gian có câu “quen sợ dạ, lạ sợ áo quần” Dĩ nhiên điều Thầy nói không sai, nhưng đó chỉ là cái nhìn ban đầu (première vue) thôi. Nhưng dạy học là một quá trình tiếp xúc lâu dài giữa Thầy và Trò, còn cần nhiều yếu tố khác như kiến thức, tinh thần làm việc, đạo đức nghề nghiệp và cách xử thế nữa, có lẽ chẳng đến nỗi nào!
-Vous avez raison! (Anh có lý!)
Tôi vững tin điều đó khi nói với ông thầy mà Tôi rất kính trọng và nhớ mãi …



Một lúc sau, Tôi vào lớp.  Cả lớp đứng dậy trang nghiêm chào thầy giáo mới, thầy Lý Hóa. Tôi tỏ ra không mặc cảm và thân thiện ngay từ đầu, niềm nở với các em và mời tất cả ngồi xuồng. Tôi đi qua lại trên bục cao trước bảng xanh để giáo đầu vài câu “lung khởi” vừa cố tìm em học sinh cao lớn đã “chào Tôi” ở ngoài sân, mặc dù em ấy cố né sau lưng bạn, nhưng cái đầu cao nghều của em thì không lẩn vào đâu được! Tôi nhẹ nhàng bước xuống lớp, đi giữa lối đi, nhìn tất cả các em, nam cũng như nữ, và cố tình chìa cho Phích một cái mỉm cười thân thiện, cởi mở, thông cảm và Tôi thoáng thấy em ấy tỏ ra một chút bối rối và ân hận!.

  

            Cả lớp im phăng phắc, chăm chú theo dõi và ghi chép những điều Tôi giảng và vẽ trên bảng. Thế là bước đầu,  hầu như Tôi chiếm được tình cảm của lớp. Tôi đã chuẩn bị bài giảng đầu tiên rất công phu. Sau gần hai giờ, trong lúc đang say sưa giảng, bỗng tiếng kẻng báo hiệu đã đến giờ nghỉ. Tôi sẽ ngừng giảng. Bỗng nghe, lúc đầu vài tiếng lốp bốp,  sau đó là tiếng vô tay vang rân của cả lớp… Thầy Trò chúng tôi chia sẻ nhau những cái nhìn tin tưởng và trìu mến. Rồi nhiều em dạn dĩ đến gần bàn thầy hỏi thăm Tôi đủ thứ chuyện, đầy lễ phép và kính trọng.

Lòng Tôi tràn  ngập niềm vui sướng, mắt mờ mờ, lảo đảo bước xuống bục giảng, đi về phía văn phòng và tự nhủ: “Đống ơi, chưa đủ đâu,  còn phải cố gắng nhiều, rất nhiều nữa và suốt đời!”…

Tôi đã yêu trường Nguyễn Huệ  như yêu nhà mình và yêu học sinh như yêu con em mình vậy. Niềm tin chỉ có giáo dục mới làm thăng hoa con người càng ngày càng vững vàng trong Tôi. Với tâm nguyện làm tất cà mọi điều trong khả năng của mình để giúp đỡ các em hoc sinh.Tôi vui mừng  vì Cha Mẹ,  Anh Chị  Em và Vợ Tôi đều là nhà giáo, một lòng vun đắp cho việc Học và Dạy.

Giữa năm 1975, sau ngày 30/4,  đất nước thống nhất,  tất cả Thầy Trò Nguyễn Huệ cùng nhau đi khai hoang, vỡ hóa ở An hòa, Tuy an; lớp Tôi hướng dẫn được bầu xuất sắc toàn trường. Nhớ lại những gương mặt hồn nhiên của các em lúc ấy,  đến giờ Tôi vẫn còn bồi hồi xúc đông…Ai ngờ đó là thời kỳ chấm dứt nghề giáo của Tôi cũng như của rất nhiều đồng nghiệp nam nữ khác… Trường Nguyễn Huệ lúc ấy có 104 giáo sư thì có đến 100 người không còn được gọi tập trung đi học “bồi dưỡng”vào dịp hè đó, để chuẩn bị cho năm hoc tới. Chỉ  có hai ông Nguyễn Phụng Lãnh và Cao Quang Đức (vừa ra trường đại hoc) là được gọi vì có cha tập kết,  còn hai ông nữa là Phan Xịa và Ngô Liên Phương, vì có “dây mơ rễ má” gì đó, thì sau đó cũng được dạy lại,  nhưng phải nhận nhiệm sở rất xa, ở đâu miệt Sơn hòa, Củng sơn…Cả gia đình Tôi 6 người đều không ai được đi dạy lai . Riêng Tôi,  vì xem chuyện dạy hoc là lý tưởng phục vụ và,  vì lúc ấy chưa hiểu rõ,  chưa “ngộ” bản chất của nền “giáo dục  xã hội chủ nghĩa”; vì vây, việc  không được đi dạy đã làm Tôi quá phẫn uất nên nhiều đêm liền,  nước mắt chảy ra dầm dề, ướt cả gối, sáng dậy mới hay!




Tháng 8/76 Tôi, Tôi bị CA đến nhà bắt đi tra khảo, “chụp mũ” phản động và bắt đi tù lao động rất cực nhọc và khắc nghiệt đến gần 5 tháng mới được cho về với lý do “vô tội!”.  Vừa đến nhà thì anh Lương của Tôi (cũng là giáo sư Nguyễn Huệ, từ Qui nhơn xin đổi về), vừa ra tù (vì trước đó là Trung úy trợ y)  sau 1 năm ở trại giam Ngân điền, thuộc vùng rừng núi hiểm trở, nước độc và có sốt rét ác tinh, thuôc huyện Đồng xuân, tỉnh Phú yên. Anh đau gan nặng do lao động quá sức, thiếu nghỉ ngơi, thiếu thức ăn và thiếu thuốc men, phải được đưa gấp vào bệnh viên Sùng Chính, Sài gòn (nay là BV Chấn thương,  chỉnh hình) và qua đời ngay trên giường mổ!

Suốt mấy mươi năm sau đó, Tôi làm rất nhiều nghề khác nhau: Thợ hồ, thợ mộc, thợ hớt tóc thợ may, thợ chụp ảnh dạo, thợ nấu nhôm để đúc nồi và đúc vành xe đạp, thợ uốn, hàn điện, làm vành xe đạp và  thợ điện lạnh,  kể cả hoc Hoa ngữ, nhưng đều thất bại vì tính Tôi không thể thích nghi với môi trường xã hội quá ư hỗn tạp, lừa đảo, nịnh hót, phản bội, bội tín  chỉ vì đồng tiền…Riêng các  nghề  như thợ may, thợ chụp ảnh, thợ điện lạnh, học Hoa ngữ, Tôi đã học rất bài bản ở trường lớp trước khi hành nghề, có môn Tôi đã hoc đến 6 tháng hay 1 năm, được cấp bằng hẳn hoi.  Cuối cùng, có người khuyên Tôi nên làm thợ “chà đồ nhôm” tức là “chôm đồ nhà” đem đi bán; nhưng Tôi lại không thể làm nghề này được, vì nhà Tôi đâu còn thứ gì giá trị để bán nũa!  Thế là Tôi đươc miễn cưỡng hưởng nhàn, ở nhà nấu ăn và dạy con,  sống bám vào thân cò của bà vợ hiền thục làm nhân viên ở BV Tâm thần!  Và Tôi hiểu rằng, Tôi chỉ thành công, tâm đắc và toại nguyện với nghề đi day hoc mà thôi.

Giờ này nhìn lại các em học sinh cũ, nhất là các em kế cận năm học 74-75; thấy các em đã trưởng thành, sẵn sàng dấn thân vào cuộc mưu sinh lập nghiệp và khá thành công trong các cơ quan chính quyền, trong trường học cũng như trong kinh doanh, kỹ nghệ; chẳng những thế mà tư duy và kiến thức của các em rất có nền tảng và nhân cách rất cao. Đó là điều đáng mừng, đáng tự hào.  Thành quả hôm nay phần nào có “dấu  ấn” của các Thầy Cô trường Nguyễn Huệ:
“Con hơn Cha, nhà có phước,
Trò hơn Thầy, nước phú cường.”

Riêng Tôi, Tôi vẫn luôn luôn nghĩ đến trường Nguyễn Huệ, mái trường đã gắn bó đời nhà giáo của Tôi, âm thầm làm tất cả mọi viêc theo khả năng của mình để động viên, giúp đỡ các em,  mong muốn các em thành công, thành đạt nhiều hơn nữa trong cuộc sống– nhưng phải luôn luôn giữ gìn nhân phẩm - .

Tuy Hòa, mùa lạnh năm 2005
Thầy Dương Đình Đống    

         

No comments: