Vượt Biên
Những ‘thuyền nhân’,
danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn lao, từ rất
lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng tìm cách để
thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc
nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu phải
ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích hợp để đi
vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái Lan hoặc Mã
Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợi. Biển cả
cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu.
Tuy vậy, cuối
cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu chuyện về những
người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền của
chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi các quốc gia
lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc đầu bởi các
nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và tấm lòng
cứu vớt thuyền nhân.
Barry Wain - The
refused: The Agony of The Indochina Refugees
“Chúng tôi cần gạo
và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm
thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được
phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, vì đang
là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết
hết.”
Refugee: Thailand,
1978
“Trong bệnh viện,
một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu họ đã đến đêm
hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết đuối.”
Delegates of
‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các lính tuần tra
phát hiện có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ chuẩn bị
tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa này đã được thổi
phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi.
Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may chết đuối trước
đó.”
Report: Mekong River
Crossing, 1978
Người mẹ của một em
trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy
sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì”, cô vừa kể vừa khóc nức nở. “Tôi
van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì thế, chúng đưa tôi
vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee: Malaysia,
1979
Anh Huỳnh Văn Trân,
34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ biển cực nam
của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba.
Anh ra đi trên một
chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và
gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì về máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên
biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có
12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước
hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một
trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống,
súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị
chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị nạn, cướp đi mọi
thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó
chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình
quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu
tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong
khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển
cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để
sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước,
với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và
chết đuối. 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới
Songkhla.
Toàn thể thính giả
đều nín lặng. Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác,
nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất nhiều tàu tị nạn đã
bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”
UNHCR: 1979
Bao nhiêu thuyền
nhân đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói
với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đã bị mất tích, nhưng nhiều
người lại cho là có đến 70% tàu không hề đến được bờ.
Delegates of ‘Society of Friends’: Pulau Bidong, 1979
Georgina Ashworth The boat people and the road people
Trong vài năm đầu
những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính phủ các
nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm nở
ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ xua đuổi như đã
từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải
quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đã bị chìm và làm chết oan một
số người. Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió bão,
không hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ
đến được các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi
phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn.
Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không
một quốc gia nào có thể lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra
đi sẽ đông đến như vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa
soạn để có thể đón tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến
thế. Trại tỵ nạn đã là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc
phà cũ, những chiếc phao nổi, những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm
chơ vơ giữa đại dương. Ðặt được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn
cây để dựng lều để tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn
nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến
năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm,
Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống
thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến
sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh
rất đáng thương như được kể lại dưới đây.
Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.
“0 giờ ngày
16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam vượt biển đến
Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh bất
hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính
trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ
nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển. Thời điểm đánh đổ
mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng thời
che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp
hối của lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một
tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng
nên những trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm
cảnh thời đại.”
Lê Ðại Lãng - NƯỚC MẮT TRONG TIM
“Ngày 20/5/1994, Lê
Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng
nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại tị
nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì anh qua đời.
Ngày
12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam
Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư
cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi
để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
Ngày 30/8/1991, tại
trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ
nhận tư cách tị nạn chính trị.
Hoàng Thị Thu Cúc,
26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam.
Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong ‘trại cải
tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất khỏi nhà, tới một trại lao
động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì ‘lý lịch gia
đình xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tị
nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo
cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.
Vụ tự sát của Lâm
Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở trại tị nạn
Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị
từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
Trần Văn Minh, cựu
Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị nạn chính
trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh lọc’.
Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng
cáo của anh sau đó cũng bị bác.
Ngày 8/12/1993, Trần
Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc
(LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.
Tháng 2/1993, Lưu
Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu sau khi
Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.
“Chị thương, hôm nay
em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ
tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để
che chở cho chị và các cháu”
(Thư tuyệt mệnh của
anh Nguyễn Văn Hai,
27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead,
Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)
“Bản tường trình của
luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ
chết.”
(Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao
ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)
“Tôi chết đi không
phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều
người khác.”
(Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày
3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị
nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã Lai.
Lời Kết
Cuộc Di Tản và Vượt
Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn đời đối với chính sách
vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng đau thương, kinh hoàng mà
người Di Tản và Vượt Biên phải gánh chịu thật không bút nào ta
hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh đó, cũng không thiếu những
tấm lòng bao dung, thể hiện rõ tình người, của binh sĩ và dân
chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự do, nhất là các nước
vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các trai tị nạn.
Chúng ta mang
ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đã cưu mang người Việt tỵ nạn, giúp
chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi lạc lối, hết
lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành công của thế hệ
thứ hai trong Cộng Ðồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ xảy ra
nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự Do vào thời điểm
đen tối đó.
Ngày hôm nay, sau
hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi khổ đau của dân tộc
để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải là của riêng
Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân, vừa là
nhân chứng.
Các em tới Trại
Tỵ Nạn . . . và thành công trên quê hương thứ hai
Hơn 30 năm sống lưu
vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở về để góp phần xây
dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm được sống trong không khí
Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao giờ được hưởng.
Ðiều này chỉ có thể
xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc
lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự chi phối của các thế lực
chính trị quốc tế.
|
Friday, April 22, 2016
VƯỢT BIÊN
Labels:
-Tuỳ Bút
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment